Nguyễn Lệ Uyên
C. ĐÁNH BÀI CHÒI VÀ TRIẾT LÝ NHÂN SINH CỦA NGƯỜI BÌNH DÂN
* ĐÁNH BÀI CHÒI
Trong dân gian có câu ca mà hẳn những người sành điệu ngày trước, ai cũng thuộc, vì đó là câu hát để tặng họ:
Làm trai biết đánh tổ tôm
Mê ngựa Hậu Bổ, xem nôm Thúy Kiều.
Còn học giả Đào Duy Anh thì nói: “Ở nhà quê người ta thường đánh tam cúc, đánh bất, đánh chắn, đánh chẵn lẻ, đánh quay đất, đánh thò lò. Những lối cờ bạc đông người thì có xóc đĩa, hốt me (ĐườngTtrong) hay đánh than (Đường Ngoài), nhất lục v.v… Còn đánh thai và đánh thơ cũng là cách đánh bạc đông người, nhưng có tánh chất tao nhã mà chỉ những người văn học mới chơi được”.[1]
Trong số những môn giải trí còn được phân biệt theo đẳng cấp: có môn thanh cao, tao nhã. Có môn hạ tiện. Môn giải trí của bậc vương giả và của đám tiện dân không thể ngồi chung chiếu. Đó là hiểu theo cái nhìn từ con mắt của những người ở chiếu trên. Người bình dân ít học thì không thể đánh thơ, thả thơ như các nhân vật của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhưng ngược lại cụ Nguyễn Du, đang đêm có thể lén qua bên kia sông để hát ví, hát dặm. Tại sao vậy?
Những cuộc chơi được thiết lập trật tự như vậy, chẳng qua do trật tự xã hội lôi cuốn, do những người cầm quyền thiết định đẳng cấp mà thôi. Với những người bình dân thì họ không cần. Họ có cái riêng của họ. Và trong nhiều môn giải trí dân gian ngày trước như tứ sắc, tài xỉu, xóc đĩa, đá gà, cờ tướng… mỗi môn có vẻ như kén chọn đối tượng chơi, thì riêng môn bài chòi như được quần chúng hóa, bình dân hóa tới mức tối đa, để sau này trở thành một sinh hoạt văn hóa lành mạnh trong những ngày tết ở khu vực nam Trung bộ.
“Bài chòi cũng như những trò chơi phổ biến khác, trong ý nghĩa một hiện tượng xã hội, một sự kiện văn hóa, là tổng hợp của những tính chất tích cực mà sự bồi đắp từ bên ngoài đã được chuyển hóa phù hợp với những điều kiện thực tế gây sinh sôi nảy nở tự bên trong” (TCĐT, SĐd). Đây là sự phát triển tất yếu. Khi mà các điều kiện kinh tế trở nên sung túc hơn. Thôn dân không chỉ có mỗi một việc “mùng một tết cha, mồng ba tết thầy’, lễ chùa, thăm viếng lẫn nhau trong ba ngày tết, mà còn phải có một thú vui giải trí nào đó. Đánh bài chòi được hình thành trong điều kiện như vậy đối với người dân vùng nam Trung Bộ. Cũng cần lưu ý trước rằng, họ đánh bài chòi như một nhu cầu giải trí trong ba ngày tết, chứ hoàn toàn không vì nhu cầu bài bạc như một số trò chơi khác. Mặt khác, không ai ngồi trên chiếu hay quanh bàn để đánh bài chòi, mà đánh giữa trời, trên chòi cao.
• NGUỒN GỐC CỦA ĐÁNH BÀI CHÒI
Đối chiếu giữa bài chòi và tổ tôm có nhiều nét tương đồng: nếu như tổ tôm điếm là những đình, những tạ thu nhỏ thì bài chòi là những chòi cao lêu nghêu được cất tạm bợ bằng tre, lợp mái lá ba bên. Nhìn đại thể thì chúng vẫn là những căn nhà tạ, nhà chòi. Còn khi đánh vẫn phải ngồi bên trong và dùng bộ bài để đánh. Duy nhất chỉ có điểm khác biệt là đánh tổ tôm điểm chỉ dành riêng cho những hạng cao sang, cầu kỳ, trong khi bài chòi là để dành cho hạng người bình dân, và “vung ra giữa chợ đón mời người áo cánh quần chùng, đám con nít lau chau bỏ chân thõng trên sàn đu đưa dõi theo lời hô, điệu trống ồn ào, tưng bừng ngày hội. Bài chòi là một minh chứng của một sinh hoạt thể nhập vào quần chúng, hòa hợp với địa phương” (TCĐT, SĐd). Một tính cách dân dã như vậy hẳn nhiên không có sự tham gia toàn bộ của giới thượng lưu trí thức mà chỉ có thể ảnh hưởng trong một giới hạn nhất định. Đó là câu từ, là cách lập chòi, vay mượn con bài theo lối chơi để chế tác theo phong cách riêng của mình.
Đánh bài chòi, ký họa của họa sĩ Huỳnh Thu
năm 1957
Bộ bài để chơi là mượn của bộ bài tới, bài tam cúc được biến cách từ tổ tôm. Đánh tổ tôm thuộc giới thượng lưu, bài để chơi cũng cầu kỳ, tốn kém, nên người bình dân vốn tính giản dị, không ưa sự gút mắc, rắc rối nên họ mới nghĩ ra lối chơi sao cho giản tiện, ai cũng có thể chơi được.Vì vậy từ bộ bài tổ tôm, họ chuyển thành bộ bài tới và chơi như bài tam cúc, rồi đổi các tên Bát Sách, Cửu Vạn thành những lá Ông Ầm, Ba Gà, Nhì Nghèo.. cho dễ nhớ, dễ gọi. Còn các câu thai hô tên con bài thì nghe ngô nghê chơn chất, đôi khi đến mức thô thiển, dù rằng trong số đó có rất nhiều câu của các nho sĩ đương thời sáng tác. Nhưng đặc biệt quan trọng hơn là khi mà sự sưu tầm thái quá thì tức khắc bài chòi sẽ bị què cụt, như phần đã trình bày về sân khấu ca kịch bài chòi ở trên, tuy rằng trong thời kỳ kháng chiến, ca kịch bài chòi là một trong những mũi nhọn xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
Trở lại vấn đề, nếu như đánh bài cẩu, bài xì, tứ sắc, roulette hay cờ tướng… không vay mượn của phương tây thì cũng vay mượn của Trung Hoa, thì ngược lại bài chòi là hoàn toàn của người Việt Nam, do người Việt nghĩ ra, không chịu ảnh hưởng nước ngoài dưới bất kỳ hình thức nào. Những tên gọi của những lá bài hầu hết là tên Nôm, rất ít tên Hán – Việt. Những chữ Hán chữ Nôm trộn lẫn vào nhau lộn xộn, không theo một định lệ, phép tắc nào cả. Điều này đủ để hiểu thêm về tinh thần độc lập của người Việt, đồng thời chứng minh rằng đánh bài chòi là kiểu thức đặc trưng của văn hóa dân gian Việt Nam.
Tính đơn giản trong tên gọi khiến cho trò chơi được phổ thông hóa đơn. Nó không giới hạn trong tính cách của người chơi, không ẩn kín sau cánh cửa của các nhà quyền quý, cao sang mà cho tất cả mọi người cùng tham gia. Như vậy: “ Tính chất phổ thông hóa, bình dân hóa của trò chơi khiến nó dễ kết nạp thêm một yếu tố, một lối ca hát có nguồn gốc sâu xa vào trong sinh hoạt tâm linh của quần chúng”. (TCĐT, SĐd).
Đánh bài chòi, theo như các cụ tuổi ngoài 70 kể lại, hiếm khi chơi nơi thị tứ, thường hay chơi nhiều ở vùng nông thôn, bày ra giữa chợ, giữa đình làng mà chơi. Bởi ngày xưa, đây là nhu cầu không thể thiếu của họ mà cũng không tốn kém nhiều như hát bộ. Tuy vậy không phải lúc nào cũng có thể đánh bài chòi được, bạ đâu đánh đó, mà duy nhất là vào dịp tết, hoặc lễ hội của thôn làng. Các cụ Đoàn Ánh, bốn Xương giải thích: “Đánh bài chòi là kiểu giải trí tập thể sau một năm lao động ngoài đồng ruộng, nó không phải là hình thức cờ bạc, mà công khai giữa đình làng. Để có được một hội đánh bài chòi phải tốn công sức, mất thời gian, và hơn hết là cho tất cả dân làng có dịp tham gia vui chơi”.
• CÁCH LẬP CHÒI
Để có được một hội đánh bài chòi trong ngày tết, dân làng phải chuẩn bị cất chòi từ trước đó, khoảng sau ngày đưa ông táo về trời. Vật liệu hầu hết là tre, tranh rạ hay lá dừa. Chòi cất theo dạng chòi giữ dưa mướp, có 4 chân, cao khoảng trên 2 mét tính từ mặt đất. Mái gãy, mái sau dài, mái trước ngắn. Chỗ cho người ngồi chơi trên chòi là những tấm vỉ đan bằng tre hoặc mò o đập dập ra để làm sàn. Chỗ ngồi cách mặt đất chừng 1,5 mét, sao cho khi người hô hiệu bưng khay bán lá bài hoặc mang tiền, cờ thưởng đến thì sàn ngồi đó chỉ cao ngang tầm trán người hô hiệu.
Chòi cất cao như vậy là một hình thức mô phỏng kiểu nhà ở của sơn dân bản địa thời trước, đồng thời giữ nguyên gốc của lối hát hô rồi đánh bài trên chòi của người dân thời mở nước (nam tiến).
Và để có thể ngồi được trên một chỗ cao như vậy, bắt buộc ở hai chân chòi phía trước người ta phải chừa lại những mắt tre dài độ 20cm hoặc đóng một cái thang giả kèm theo chân chòi, miễn bằng cách nào tiện lợi nhất, dễ dàng cho việc leo lên, xuống. Phía tay phải của chân cột chòi phía trước, ngang tầm tay trên chỗ sàn ngồi được khoét thêm một lỗ trống, dài 35cm dùng để làm mõ hiệu.
Lý trưởng và các bô lão cúng tế Trời Đất trước khi khai hội
Cũng có thể gắn vào chiếc mõ làm sẵn, cũng bằng tre. Chiếc mõ này có chức năng báo cho người hô hiệu biết là chòi đó trúng một con (gõ 3 tiếng), hay tới một ván bài (xổ một hồi dài) để người hô hiệu mang con bài trúng đến hoặc mang tiền thưởng đến. Ngay giữa mái chòi phía trước, người ta gắn ký hiệu riêng cho mỗi chòi, như là tên gọi, bằng tiếng Nôm hay tiếng Hán, như Càn, Bính, Sửu… tùy theo cách lập 9 chòi hay 11 chòi, 13 chòi. Và nhu vậy ta sẽ có những tên chòi như: chòi Ly, chòi Tân, chòi Thìn .v.v…
Nếu chơi 9 chòi, theo cách lập chòi như Bát quái đồ trong Kinh Dịch thì các chòi sẽ có tên gọi: Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, Càn.
Nếu chơi 11 chòi theo cách lập của thập Can, thì tên gọi sẽ là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí.
Còn nếu như chơi 13 chòi theo thập nhị Chi thì sẽ có tên gọi mỗi chòi như sau: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Dù 9, 11 hay 13 chòi thì còn một chòi vẫn còn thiếu một tên gọi, nên người ta phải thêm vào chòi Trung. Đây là chòi đặc biệt, chỉ để dành riêng cho các hương chức, những người có vai vế hay lớn tuổi trong làng. Dân dã, đàn bà, con nít không bao giờ được phép ngồi lên chòi Trung để chơi bài. Đẳng cấp được phân biệt khá rõ nét ngay trong kiểu cách của trò chơi.
Lý trưởng đánh trống khai hội đánh bài chòi
• THẺ BÀI VÀ TÊN GỌI NHỮNG LÁ BÀI
Nếu như đánh 9 chòi thì sẽ phải có 9 thẻ bài chủ (trong mỗi thẻ bài chủ có 3 lá bài con), tương ứng với 30 lá bài con trong ống tre để người hô hiệu xóc. Tất cả đều được vẽ bằng mực tàu, trên giấy dó rồi cắt dán vào thẻ tre.
Nếu như đánh 11 chòi, thì phải có 11 thẻ bài chủ cho 11 chòi và 33 lá bài con cho người hô hiệu xóc. Từ 30 tăng lên 33 lá không có nghĩa là phải đặt thêm tên gọi cho các lá thêm vào mà chỉ cần tô màu đỏ vào các lá Ông Ầm. Tử Cẳng, Cửu Điều. Như vậy bộ bài sẽ có Ông Ầm đen, Ông Ầm đỏ, Tử Cẳng đen, Tử Cẳng đỏ và Cửu Điều đen, Cửu Điều đỏ.
Khi sưu tầm, nghiên cứu về bài chòi, chúng tôi rất thắc mắc là tại sao chỉ được thêm vào các lá đứng đầu của pho Văn và pho Sách mà không có pho Vạn? Có phải vì lá đứng đầu của pho Vạn là lá Bạch Huê, tên gọi cái Yoni (tức sinh thực khí) của người phụ nữ nên người ta kiêng cữ chăng? Nếu thế tại sao lá Bạch Huê vẫn được dân gian gọi bằng tên khác là lá Lồn hay Bạch Huê Khai trong khi hô hát một cách công khai ngay giữa đình làng, trước mặt thôn dân và các hương chức? Chúng tôi đã tìm lời giải thích từ những người am hiểu về bài chòi, song họ cũng chỉ biết thế thôi, không rõ là tại sao như vậy.
Cũng có khi do nhu cầu người tham gia đánh bài chòi quá đông nên buộc phải lập 13 chòi. Đến lúc này thì người ta có thể tô đỏ thêm vào bất kỳ lá bài nào, nhưng cũng không có mặt lá đứng đầu pho Vạn là Bạch Huê?
30 lá bài cố định được chia làm 3 pho như sau:
Pho Văn: Gồm các lá: Ông Ầm, Tráng Hai, Ba Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Ruột (Rún), Sáu Mập, Bảy Liễu, Tám Miểng, Chín Cu, Chín Gối
Các quân bài thuộc Pho Văn sử dụng những cách điệu gần gũi lối hình học, có những miếng tròn như bánh xe, những đồng tiền hay nửa đồng tiền. Nét vẽ nửa đồng tiền đối xứng cùng những vệt hình hoa văn là những hình thoi lớn nhỏ lồng vào nhau hay là những nút tròn.
Lối vẽ này gần gũi những cách điệu hình học, chỉ trừ con Chín Gối (còn gọi là, Chín Nút), những điểm chính giống với loại quấn dây thắt nút, có chín nút tròn nhỏ và những vạch ngang. Con Sáu Mập, vẽ sáu nửa đồng tiền ghép lại với nhau, từng đôi một, đôi này chồng lên đôi kia. Hình này khá giản dị, ai cũng hình dung được. Con Tám Miểng cũng như thế, là tám nửa đồng tiền ghép lại (miểng: tiếng địa phương có nghĩa là mảnh).
Con Bảy Liễu (Thất Liễu), tính cách trang trí phức tạp hơn con Sáu Mập và Tám Miểng, vẽ bốn đồng tiền ghép lại với nhau, ở chỗ ghép lại có một nút tròn nhỏ. Giữa các khoảng trống do các đồng tiền ghép lại có một cành liễu nhỏ không có vẻ gì là liễu, trông đúng là một thứ phức diệp (foliole), hay thứ lá có răng cưa (feuille dentée) nhưng vì có chữ liễu trên các con bài nên ta hãy xem đây là một cành lá liễu.
Con Tứ Tượng là sự trừu tượng hóa hình ảnh một con voi được trang trí vào ngày lễ hội, nhìn từ trên xuống, chúng ta sẽ đoán được các phần đầu voi, hai tai voi, lưng voi, bành voi. Lối trang trí cách điệu này vẫn thường được gặp khắp các vùng dân tộc thiểu số như Thái, Mường, H’ Mông, Dao, Ê-đê, v.v… đặc biệt nhất là trên các cạp váy, đồ thêu, những chạm khắc bằng tre, gỗ, đồng ở vùng Tây Nguyên.
Con Tráng Hai, giữa hai mảnh hình thuẫn trên một mảnh hình thuẫn khác, và giữa mảnh hình thuẫn này là những đường hình thoi lớn nhỏ, chồng lên nhau.
HÌNH VẼ CÁC LÁ BÀI PHO VĂN
Pho Sách: Pho này gồm có các lá bài Tử Cẳng, Nhứt Nọc, Nhì Nghèo, Ba Gà, Tứ Xách (Sách), Ngũ Dụm (Dít), Lục Hột, Bảy Thưa, Tám Dừng (Dây, Hột), Cửu Điều.
Đặc điểm chung các lá bài thuộc Pho Sách có những nút tròn nhỏ, giữa nút tròn có một chấm đen, ngoài những nút tròn này còn có những đường vạch ngang rất đều, phía dưới là những vạch chéo đối xứng nhau.
Quan sát pho này, ở lá Tứ Xách, người xem có thể tưởng tượng như ở trên có quai xách, hoặc như đôi gióng, dưới có chân đế hình tam giác, ở giữa có các nút tròn nhỏ, giữa nút tròn là chấm đen như mắt cua. Quan sát đôi gióng ở Nam Trung Bộ, ta thấy nó rất giản dị, bằng tre, hay sợi mây có bốn quai, phía trên túm lại, phía dưới xòe ra và thắt nút rồi quấn chặt cân bằng trên bốn điểm của một vòng tròn. Chúng ta có thể nghĩ rằng, các nghệ nhân dân gian đã đưa hình ảnh của sự vật có thực bên ngoài vào lá bài?
Hình vẽ con Ba Gà quả hết sức lạ. Xem kỹ, như ta đang nhìn một mái nhà sàn ở Tây Nguyên, nhìn từ một bên (profil), mái nhà nghiêng dốc cao vút. Trên đỉnh mái nhà, đầu một con chim đã được kiểu thức hóa, khó lòng mà biết loại chim nào. Nhưng Ba Gà cũng có thể tưởng tượng là những dãy núi liền nhau?
Những nhà sàn trên các phù điêu, khi được nhìn thẳng vào chính diện, hai đầu cuối cùng của mái nhà cũng có những nút tròn nhỏ, ở giữa có chấm, trông tựa như mắt của hai con chim đang vươn cánh bay lên trời.
Con Nhì Nghèo cũng gần với con Nhứt Nọc. Phần trên lá bài là một đầu chim, bên dưới là hình ảnh của một mái nhà sàn, từ giữa thân bài, có một đường dải chạy viền lên đến đầu chim, có thể đấy là túm lông từ cổ qua bụng nối liền với đuôi chim được cách điệu như thế. Toàn bộ con Nhì Nghèo, đầu chim, mình chim, hai nút tròn nhỏ chồng lên nhau nằm ở giữa thân thắt eo lại, thêm vào đấy là phần cái nhà sàn bên dưới ghép vào như một thứ đuôi chim xòe ra, tất cả hợp lại thành hình ảnh một con chim rất kỳ dị giữa cách tạo hình rất lạ lùng của các nghệ nhân.
Con Tám Dừng, cũng gần tựa như hai cặp gióng chồng lên nhau nhưng không có quai xách. Tám Dừng cũng gọi là Tám Hột vì nó có tám nút tròn nhỏ cân đối trên hình vẽ của quân bài.
HÌNH VẼ CÁC LÁ BÀI PHO SÁCH
Pho Vạn: Gồm các lá Bạch Huê (Bạch Khai Huê, Lá Lồn), Nhứt Trò, Nhì Bí, Tam Quăng, Tứ Móc, Ngũ Trợt, Lục Chạng, Thất Vung (Dung), Bát Bồng, Cửu Chùa
Các lá bài thuộc Pho Vạn đều vẽ những hình ảnh giống mặt người với những nét theo kiểu tranh thờ khắc gỗ dân gian. Đặc biệt trên pho Vạn, từ lá Nhứt Trò đến Cửu Chùa đều có ghi số từ Nhứt tới Cửu đều bằng chữ Hán! Chưa có giải thích nào, tại sao lại như vậy?
Tất cả chín lá trong Pho Vạn đều có cùng một phong cách, chỉ thay đổi thêm bớt một đôi tí mà thôi. Như con Nhứt Trò thì ở trên đầu hình vẽ hình như có đội thêm một cái khăn đóng cho ra vẻ một anh học trò.
HÌNH VẼ CÁC LÁ BÀI PHO VẠN
Những thẻ bài con
Thẻ bài chủ (mỗi thẻ bài có 3 thẻ bài con không trùng tên nhau)
Riêng ở Bình Định thì cách chia các pho có hơi khác Phú Yên và những nơi khác:
“Pho Văn có 9 cặp: Chín Gối, Nhì Bánh, Ba Bụng, Tứ Tượng, Ngũ Rún, Sáu Miểng, Bảy Liễu, Tám Miểng, Chín Gan.
Pho Vạn có 9 cặp: Nhứt Trò, Nhì Bí, Tam Quăng, Tứ Ghế, Ngũ Trợt, Lục Chạng, Thất Vung, Bát Bồng, Cửu Chùa.
Pho Sách cũng có 9 cặp: Nhất Nọc, Nhì Nghèo, Ba Gà, Tứ Xách, Ngũ Dụm, Sáu Bường, Bảy Thưa, Tám Dây, Cửu Điều.
Ngoài 3 pho (9 x 3 =) = 27 cặp, còn có 3 cặp yêu: một cặp Ông Ầm, một cặp Thế Tử, một cặp Bạch Huê” (Võ Phiến, SĐd).
Tuy mỗi địa phương có cách phân chia các pho khác nhau, nhưng tựu chung lối chơi vẫn như nhau, không có gì khác xa. Có khác chăng là tên gọi con bài. Ví dụ như Ngũ Ruột thành Ngũ Rún hay Đổ Ruột, Sáu Bường thành Lục Hột, Chín Cu thành Chín Gan…
Đọc tên các lá bài trong ba pho ta thấy có phần nào “gây ít nhiều khó dễ “ cho các bậc túc nho đương thời, và ngày nay làm đau đầu những ai từng bỏ công ra nghiên cứu nó. Trước hết tiếng Hàn, tiếng Nôm lẫn lộn giữa các lá bài, không có sự đồng nhất về cách gọi. Khi thì Lục Chạng, Bát Bồng, lúc thì Sáu Bường, Bảy Thưa, Ba Bụng… Tại sao số thứ tự tên gọi không từ nhứt tới cửu hay từ một tới chín của tiếng Hán hay tiếng Nôm? Chưa có giải thích tại sao như vậy? Còn nữa: tên của những lá bài cũng hết sức rối rắm. Với những tên gọi như Nhứt Trò hay Ba Gà tương đối còn đơn giản. Nhưng còn vô số những tên khác như Ông Ầm, Tử Cẳng, Ngũ Trợt.. là tên để chỉ cho những con gì, vật gì? Nó là biểu tượng thuộc thế giới hữu hình hay vô hình? Hay đó chỉ là tên gọi nôm na của người bình dân để chỉ tên của một ai đó. Chẳng hạn như Tám Dây, Bảy Liễu là tên anh trai cày, chị kéo vải. Cũng như Cửu Điều là ông Điều được triều đình phong hàm Cửu phẩm chăng? Hoặc giả, có khi do tính dễ dãi, chất phác của người bình dân nên cứ tha hồ mà gọi, mà đặt tên không cần đến ngữ nghĩa, miễn sao cho những lá bài kia, lá nào cũng có một cái tên để gọi, để không lẫn lộn giữa lá này với lá khác? Nếu vậy, việc đơn giản hóa các lá bài có quan hệ đồng nhất với hình tượng lá bài không? Ở đây, từ những lá bài ấy, theo ông Võ Phiến thì tên gọi không hề ám chỉ một xã hội hay một cảnh sống nào, mà mục tiêu tối hậu là cười. Được dịp cười thỏa thích sau những ngày tháng lao động cực nhọc.
Hình như có điều gì đó chưa được giải thích một cách thỏa đáng, khi mà tính ngô nghê của tên gọi có vẻ như không tương xứng với hình vẽ của những lá bài hay ngược lại. Cứ thử nhìn vào các lá Nhì Bí, Ba Gà, Tứ Tượng v.v… thì nó không hề giống chút nào với hình tượng con gà, trái bí, con voi nếu phải căn cứ theo nghĩa của tên gọi. Những hột, những nút tròn, nét ngang dài ngắn, những vệt xoắn loăn quăn có vẻ rất huyền bí, như thể những lá bùa của thầy phù thỉ vẽ nguệch ngoạc treo trước cửa nhà trong những dịp cúng đất vậy. Cái vẻ bí hiểm ấy, xa hơn một chút, trông như những nét vẽ trên các ngôi mộ cổ Hồi giáo, trong các cung đền Hy Lạp, Nam Mỹ. Nó có vẻ ngô nghê, tối nghĩa như lá Tứ Sách, Cửu Điều… Nhưng ở những lá khác, đôi khi lại giống với những bức tranh thuộc trường phái Lập thể, Đa đa hay Siêu thực như Tam Quăng, Nhứt Trò, Cửu Chùa. Như vậy, chắc chắn có sự pha tạp, ảnh hưởng qua lại về mặt văn hoá giữa các tộc người cùng sống trên một vùng đất?
Trước đây, trên đầu mỗi lá bài thường thấy đề chữ Nôm, Hán (1932 – 1949), sau thay bằng Quốc Ngữ, còn sau nữa thì để trống, không thấy chua gì cả. So sánh giữa bộ bài tây và bộ bài chòi ta thấy hình vẽ bài tây tả thực hơn nhiều: già, đầm, bồi đều ra dáng cả. Trong khi hình bài chòi, mới thoạt nhìn cứ như nét vẽ thi của cụ Trạng Quỳnh.
Ngay cả bộ bài, mỗi địa phương đều có một kiểu vẽ khác nhau. Nếu đem so sánh bộ bài Bình Định với Nam Ngãi với bộ bài Phú Yên chúng ta thấy có vài điểm khác biệt. Ví dụ như lá Bảy Liễu, ở Bình Định thì phía trên có một vòng tròn xoắn ốc, ở dưới là hoa văn với 4 nửa đồng tiền, chính giữa chúng là một lá nằm ngang như gié lúa. Còn vùng Phú Yên lại vẽ khác: Trên đầu là hai nửa đồng tiền, ở giữa như lá cây dựng đứng, tiếp đến là hoa văn với hai nửa đồng tiền và cuối cùng là hình vành khăn ở giữa có hột tròn như hột nút. Cũng vậy, với lá Nhì Nghèo thì vùng Bình Định vẽ như con chim thật, nhưng hình tượng và nét vẽ giống như nét vẽ trên các vách đá trong các ngôi đền người Chăm, Hồi giáo. Còn Phú Yên, lá Nhì Nghèo trông giống như con đỉa..
Lá Liễu BĐ Lá Liễu PY
Nhì Bí BĐ Nhì Nghèo BĐ Nhì Bí PY Nhì Nghèo PY
Tại sao không có sự thống nhất với nhau giữa các bộ bài? Thậm chí làng trên, xóm dưới chỉ cách nhau có một cánh đồng, hoặc bên này bên kia con sông thôi mà đã khác xa nhau rồi.
Về mặt này chúng ta có thể lý giải được không?
Theo chỗ chúng tôi bước đầu tìm hiểu từ các cụ đã một thời gắn bó với bài chòi thì điệu hô và cách chơi đều có cũng đặc điểm là truyền khẩu. Nếu như truyền khẩu về từ tiếng thì khả năng sai biệt không lớn, dần dần được hiệu chỉnh lại sau một thời gian lưu truyền. Còn truyền khẩu về đường nét, màu sắc đối với người bình dân có vẻ như hơi quá sức. Cứ cách một lũy tre làng, cánh đồng, qua bên kia dãy núi nó rơi rụng một ít, không giữ được nguyên gốc. Vả lại đâu có gì ngăn cấm họ khi vẽ một bộ bài mới cho cuộc chơi lại không thả sức tưởng tượng của mình, tha hồ thêm bớt. Tính thẩm mỹ và chủ quan của người bình dân là sự cách điệu, là tính phóng khoáng vốn có nơi thôn dã. Cho nên khi chúng tôi đối chiếu lại trên vài chục bộ bài chòi, thì không bộ nào giống bộ nào.
Như thế thì, các lá bài không thể do một họa sĩ chuyên nghiệp vẽ, thậm chí không do một nhóm, một làng nào làm ra để sản xuất hàng loạt như tranh làng Hồ. Bởi trước hết nó không phải là trò chơi được phổ biến trên cả nước, mà chỉ giới hạn từ bên này đèo Hải Vân tới điểm cuối cùng là Phan Thiết.
Điều rất thú vị là: trong dịp đi điền dã để sưu tập tư liệu bài chòi (năm 1986), chúng tôi đến làng Phú Ân (thị xã Tuy Hòa) và tìm được một hòm gỗ mục nát. Trong đó ngoài vài đồng tiền kẽm ghi niên hiệu Minh Mạng còn có mấy que tre, phía trên đầu còn dính một chút giấy ố vàng ghi chữ Ông bằng tiếng Quốc ngữ, không biết là Ông Ầm hay Ông Tử Cẳng, vì phần dưới bị dán nhấm xừ tróc gần hết. Que thứ hai là lá bài chủ, không còn một kí hiệu nào trên thẻ. Các cụ cho biết ở vùng này bài chòi phát triển khá thịnh trong khoảng từ năm 1953 -1960. Sau này thưa dần và mất hẳn.
Trong phần khảo luận về bài chòi, khi đề cập đến hình vẽ các lá bài, ông Võ Phiến cho rằng: “nét bút không bí hiểm vì cố nói những ý nghĩa cao xa, mà là vì không đủ sức để nói lên một ý nghĩa nào” (Võ Phiến, SĐd).
Chúng ta cần khẳng định ngay rằng: bài chòi là lối chơi xuất phát từ quần chúng, là lối chơi dân dã, chứ không phải từ giới quí tộc khoa bảng, cung đình. Tuy nhiên, không ai ngăn cấm họ không được phép tưởng tượng, hoặc gắn hiện thực cuộc sống vào các hình vẽ. Như ở lá Nhì Nghèo chẳng hạn. Hình con chim đậu trên nóc nhà làm cho chúng ta có thể liên tưởng tới con chim được đẽo bằng gỗ của đồng bào dân tộc gắn trên cột sau lễ bỏ mả, xa hơn một chút đó là con chim đậu trên nóc nhà sàn thuộc nền văn minh Đông Sơn – Indonesien mà ngày nay vẫn còn tồn tại trên nóc nhà của đồng bào Tây Nguyên. Hoặc như lá Ông Ầm là một khuôn mặt phí nộn, béo tròn làm chúng ta liên tưởng đến chiếc mặt nạ T’ao T’ie của người Trung Hoa cổ. Ảnh hưởng qua lại của các nền văn hóa trong khu vực là lẽ đương nhiên, huống hồ nền văn hóa phương Bắc ấy đã từng đè nặng lên dân tộc Việt suốt ngàn năm, rồi tộc Việt lại chung sống với các tộc khác trên vùng đất Thủy Xá, Hỏa Xá, Chămpa, Chân Lạp… Ngay cả đến ngôn ngữ Việt cũng có những nét tương đồng với ngôn ngữ Môn Khmer, Mã lai thì cũng rất có thể những hình vẽ của các lá bài là sự giao thoa nói chung về mặt văn hóa. Có ảnh hưởng qua lại, nhưng không hề bị đồng hóa biến dạng.
Nói là trò chơi dân dã, song làm thế nào để khẳng định rằng chính trò chơi này không có sự nhúng tay chút ít của lớp nho sĩ có học thức? Há chẳng phải cụ Tiên Điền đã để lại cho chúng ta bài “thác lời trai phường Nón” là kết quả của những đêm đi hát ví, hát dặm đó sao? Chẳng phải rằng vẻ lịch duyệt trong cung cách ăn chơi của cụ Tản Đà mà bây giờ nghĩ lại sao cụ có nhận xét tinh tế đến vậy: “Đa tình con mắt Phú Yên”?
Vấn đề ở chỗ, là không phải họ “không đủ sức để nói lên ý nghĩa nào”, mà “những ý nghĩa cao xa” đối với quần chúng là những người nông dân chất phác là không cần thiết. Điều quan trọng hơn cả, là trong lối chơi như vậy, cái cốt lõi nhất: vẫn giữ được nét đẹp văn hóa dân tộc, cái hồn dân tộc.
Dẫn ra đây một minh chứng: tại sao sau nhiều thế kỷ các bức tranh làng Hồ vẫn còn đủ sức giữ cho riêng mình một chỗ đứng xứng đáng trong nghệ thuật hội họa? Cả một tập thể quần chúng đó há không phải là những danh họa tài ba đó sao? Hoặc xa hơn chút nữa, với câu ca dao:
Con mèo, con chuột có lông
Cây tre có mắt, nồi đồng có quai.
Thì có gì gọi là bí hiểm đâu? Thậm chí nó còn rất tầm thường nữa là đằng khác. Càng đọc càng thấy nó hay, nhưng lý giải ra cho được điều hay trong cái tầm thường ấy là điều không phải dễ.
Với bài chòi, khi đối chiếu các hình vẽ trên lá bài, ta thấy người bình dân không phải hoàn toàn là “những người tầm thường” như tập quán xưa nay vẫn thường nghĩ, mà là những người “có đầu óc”, dẫu là ít học. Họ cất công rất nhiều và để hết tâm trí của mình vào đó. Nhìn tổng thể tên bộ bài có vẻ như bí hiểm, lộn xộn. Kỳ thực, để phân biệt ba pho Văn, Vạn, Sách họ đã vẽ theo các ký hiệu khác nhau: Pho văn là những nét vẽ nửa đồng tiền cùng những vệt hình hoa văn. Pho Vạn là những hình giống như mặt người. Còn pho Sách là những nút tròn như viên bi, hột nút cùng những vệt hoa văn dài ngắn khác nhau. Và cho dù có nhiều nhận xét rằng nét vẽ ngô nghê, song tính hiện thực có lẽ không thiếu. Họ dùng ngay hình ảnh để nói lên sự vật được gọi tên. Ví dụ lá Nhì Nghèo Bình Định là một con chim đang đậu trên nóc nhà, ngoái nhìn đâu đó với bộ dạng thật ủ rũ. Hoặc lá Tứ Móc Phú Yên nó lăng quăng như con trùn, cái móc cân, hay như Nhứt Trò nom vẻ mặt thân hình ốm o tựa anh học trò ốm yếu. Chính từ những yếu tố này, khiến người bình dân ít học, mỗi khi nhìn vào lá bài là dễ dàng nhận biết ngay.
Bài chòi là một trò chơi xuất phát từ nông thôn. Bởi vậy lời hô, tiếng hát, lối chơi là thuộc tính của dân ca. Cho nên sự sáng tạo, tính ngẫu hứng cùng với sức tưởng tượng của họ luôn gắn liền với thế giới vật chất, với những hiện thực cuộc sống quanh họ, và luôn mang tính nhân văn. Đó là những cảnh đời trái ngang của nàng dâu bị mẹ chồng ruồng rẫy, là sự ẩn ức về tình dục bị lớp vỏ đạo đức bao bọc, là những tình cảm thăng hoa của đôi trai gái đang yêu nhau, là sự phản kháng yếu ớt về trật tự xã hội phong kiến đè nặng lên đôi vai họ… Họ không ai khác hơn là những ông Thủ, ông Biện, là anh trai cày, chị kéo vải. Họ gặp nhau hàng ngày ngoài đồng ruộng, trên nương dâu hay trên các sân hò hô hát. Cho nên mỗi khi được dịp cầm lá bài trên tay, nghe anh hiệu hô các câu thai, tức thì sức tưởng tượng của họ trào ra thả giàn trên các hình vẽ của những lá bài. Họ tha hồ suy đoán, thêm thắt để cuối cùng nổ ra những trận cười suốt từ sáng tới chiều xẩm tối. Họ cười thả cửa. Cười như để phản đối lại sự nghiêm trang của các bậc túc nho, của điều mà họ cho là “đạo đức giả” như cách nói của cụ Nguyễn Văn Vĩnh “Dân An Nam ta gì cũng cười… Hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang”. Nhưng đó lại là cách nhìn của một nhà văn nửa Tây, nửa Ta. Chứ thật ra dân tộc Việt mà thiếu tiếng cười thì người Việt sẽ không còn là người Việt nữa, văn hóa Lạc Việt cũng mất từ lâu rồi, mà cốt tủy, như cụ Phạm Quỳnh nói: “ Truyền Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”. Hai nhà văn sống cùng một thời, cùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo và Tây học, nhưng quan niệm, cách nhìn đã không nhất quán với nhau.
Trở lại vấn đề, trong tên gọi một số lá bài, người nông dân không ngần ngại đặt tên cho vài lá có tính dung tục như Chín Cu, Bạch Huê (Bạch Huê Khai, Lá Lồn), Nhứt Nọc (thằng Nọc). .. Những tên gọi như thế, đối với họ là chuyện rất bình thường trong cuộc sống thôn dã, không hề phạm tới thuần phong mỹ tục hay đạo đức, luân lý Á đông. Bởi ở nông thôn trước đây, nông dân vẫn đặt tên cho con là Cặc, Cứt, Lồn, Dái v.v… Ngẫm cho cùng, đối với tầng lớp nông dân thì bản chất của sự vật quan trọng hơn là tên gọi của sự vật được nói tới.
[1](1) Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Bốn Phương, SG 1951.

Khong ngo tu chu de hat chòi mà tu do nguoi doc duoc hieu them rat nhieu nhung phong tuc, tap quan nhan van chung quanh do. Càng doc càngt hay la lam và hay vo cùng.
Danh bài chòi theo y Bep hieu, khong nhung là mot trò choi nhu danh to tom, tam sac, tu sac mà còn là nghe thuat van hoa nuoc nhà nua. The moi hay ong bà mình ngày xua cung biet che bien bao nhieu dieu tao nha ngay ca trong nhung cuoc choi dù do là trò choi cua gioi bình dan, dan da.
Bài viet cong phu, cuc lam phai khong tac gia khi di tìm tài lieu de viet den bài thu 6 ve Chòi.
Làm trai biết đánh tổ tôm…phải đổi lại làm trai biết hát bài chòi,uống rượu bàu đá,múa quyền Tây Sơn
Bài viết quá công phu
Chào Anh Nguyễn Lệ Uyên!Những từ ”tục tận cùng”Dù biết bản thân nó không có tội Nhưng nói ra nghe trơ trẽn-kỳ cục!?Bình dân- không có nghĩa là không có gì để giữ cảCho nên”Lá Bạch huê”-ít nói thẳng đến khi chơi bài-Cũng là cách tránh -Bởi từ đó.. sẽ liên tưởng đến bộ phận kín của phụ nữ.Cụ Nguyễn Du-đẳng cấp cao phải lén sang sông chơi bài.Cũng là bản chấtXã hội phân chia đẳng cấp.Chỉ là Ta có chia hay không?Ta hoà đồng -Có cái nhìn phóng khoáng-Sống thoải mái cho riêng? Ta hay sống vì cái bao la ràng buộc trong xã hội mà ra!Dừng đây thôi! Bài viết của TG luôn bắt phải suy nghĩ nhiều Dù biết rất hay -Nhưng phải thở để xả hơi -Chơi ..một chút ..gỏ tiếp–Vui-Cảm ơn nhiều vê món ăn tinh thần nầy nhé!Cảm ơn lần nữa…