NGUYỄN THANH QUANG
Lê Đại Cang là một vị nho tướng, từng cầm binh dẹp loạn Chân Lạp, đánh đuổi quân xâm lược Xiêm La. Hơn bốn mươi năm làm quan dứơi ba triều vua (Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị), gần hai mươi lần thăng thưởng quan tước, năm lần giáng chức, một lần kết án “trảm giam hậu”. Khi là Thượng Thư Bộ Binh kiêm Hữu Đô Ngự Sử, lúc là “đoái tì binh dõng tiền quân hiệu lực”, khi là phạm nhân bị hạ ngục chờ chém. Dù trong hoàn cảnh nào, Lê Đại Cang vẫn “ngạo nghễ” trên đỉnh cao tài năng, bản lĩnh và nhân cách. Năm 2011, hậu duệ Lê Đại Cang phát hiện và nhận lại 4 đạo sắc phong do vua Thiệu Trị ban cho ông cuối cuộc đời làm quan, được chùa Bảo Thọ (Giác am) lưu giữ hơn 160 năm, đã khẳng định thêm một hình ảnh, một nhân cách, một tấm gương về cái tài cái tâm của kẻ sĩ cho hậu thế .
Một kẻ sĩ giỏi cả văn lẫn võ
Lê Đại Cang thuộc dòng dõi nho gia, tổ quán ở phường Hà Tân, huyện Kỳ Hoa, phủ Hà Hoa, thuộc Thừa tuyên Nghệ An. Thủy tổ là Lê Công Triều, làm quan dưới triều Lê, sau theo chúa Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp ở huyện Bồng Sơn. Lê Đại Cang là cháu 6 đời của Lê Công Triều. Ông sinh năm 1772 tại làng Phú Nhơn, huyện Tuy Viễn (nay là thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước). Cha tên húy là Tử Hậu, vốn dòng dõi thế tập chết được tặng Hàn lâm viện Thị giảng Học sĩ phẩm tùng tứ (4-2). Mẹ Nguyễn Thị Quản chết được tặng Cung nhân. Bác tên húy là Tử Mẫn, làm chức Nội tán Viện thị thơ dưới đời chúa Nguyễn. Chú tên húy là Tử Miễn (Công Miễn), làm chức Thượng thư Bộ Hình triều Tây Sơn.
Theo bài tự dẫn trong Lê thị gia phả do ông biên soạn năm 1836 “…Nhà ta đời đời theo nghiệp nho…ở nhà được cha dạy Kinh thi Kinh lễ…Năm 16 tuổi theo học quan Thị giảng họ Nguyễn (tức Nguyễn Tử Nghiễm, Thị giảng triều Tây Sơn, là cha của Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn là Nguyễn Tử Diệu). Sau đó học tiên sinh họ Đặng (tức Đặng Đức Siêu, Thượng thư Bộ Lễ triều Nguyễn). Trong vòng năm, sáu năm lúc ngủ lúc ăn cũng không quên dùi mài kinh sử, gặp được bạn văn giỏi liền theo học hỏi, bất chấp tiếng cười chê bai. Năm 21 tuổi (1792), lại gặp chiến tranh, khó bắt chước được chí hướng của tổ tiên. Bấy giờ chỉ biết nhờ thầy mà ôn tập, bắt chước thầy mà dùng lưỡi thay cày…”. Nhờ sự chỉ dạy của hai vị tôn sư uyên bác mà Lê Đại Cang sớm nổi tiếng là một danh sĩ học vấn uyên thâm, văn chương lỗi lạc. Sử nhà Nguyễn chép: “Cang hữu văn học danh” (Lê Đại Cang nổi tiếng văn học).
Trong suốt 10 năm (1792-1802), vừa ôn luyện văn chương, vừa dạy học, vừa âm thầm học võ, các tập binh pháp như Tôn ngộ binh pháp, Hưng Đạo bí kíp ông đều nghiên cứu tường tận. Vốn có sức mạnh bẩm sinh nên các loại côn đao ông đều sử dụng nhuần nhuyễn. Vũ khí thường dùng của ông là thanh đại đao, tương truyền thanh đại đao ông dùng nặng đến 60 cân (khoảng 30kg). Lê Đại Cang không những nổi tiếng về văn chương mà còn có sức mạnh phi thường và giỏi về võ nghệ.
Chiềm nổi trong bể hoạn mênh mang
Thân thế sự nghiệp Lê Đại Cang được nhiều sách sử ghi lại như: Đại Nam chính biên liệt truyện, Đại Nam Nhất thống chí, Danh nhân Bình Định, Nhân vật Bình Định,… chi tiết và đầy đủ nhất là bộ Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn. Tuy nhiên, sự nghiệp của ông được Đại Nam thực lục chép sớm nhất vào năm 1811 và bị khuyết giai đoạn từ tháng 3/1838 đến tháng 7/1841.
Gia Long năm đầu (1802), ông được trấn thần Bình Định là Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Hoài Quỳnh tiến cử, ông dự tuyển được chọn làm chức Huyện doãn (Tri huyện), triều đình bổ ông chức Tri huyện Tuy Viễn. Bấy giờ ông đã 30 tuổi. Từ đây, ông lần lượt trải qua các chức vụ: Thiêm sự Bộ Binh, giữ việc từ chương Bắc Thành (1810 – 1823); Cai bạ Quảng Nam (1/1823 – 9/1826); thự Hữu Tham tri Hình Bộ (5/1827); tháng 7/1827 trở lại Bắc Thành, thăng Hữu Tham tri Hình Bộ (1/1828); Hữu Tham tri Hình Bộ, lĩnh Bắc Thành Hình tào kiêm Đê chính (5/1830); Chủ khảo trường thi Bắc Thành (9/1831); thự Bộ Binh Thượng thư, Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang), Tuần phủ Sơn Tây (10/1831); Quyền kiêm lĩnh ấn quan phòng Tổng đốc Hà – Ninh (7/1832); Tham tri Bộ Binh, Tuần phủ An Giang (6/1834); Tổng đốc An – Hà (An Giang – Hà Tiên) kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp quốc” (1/1835); Quyền lĩnh ấn Tổng đốc quang phòng An – Hà (An Giang, Hà Tiên) kiêm Trấn Tây Tham tán (7/1835); Tư vụ ty Thanh lại Bộ Hộ, rồi Binh Bộ Thanh lại ty Viên ngoại lang, thự Lang trung (4/1841); Phụng nghị Đại phu, Binh Bộ Thanh lại ty Viên ngoại lang (4/1841); Trung thuận Đại phu, Binh Bộ Lang trung (7/1841); thự Hà Nội đẳng xứ địa phương, Thừa tuyên Bố chánh sứ ty, Bố chánh sứ (12/1841).
Sau 12 năm nhậm chức Thiêm sự Bộ Binh, giữ việc từ chương ở Bắc Thành, thánh Giêng năm 1823 ông được điều về làm Cai bạ Quảng Nam. Tháng 3 năm 1824, triều đình cho khơi rộng sông Vĩnh Điện (Quảng Nam), Lê Đại Cang được cử đảm trách việc này. Sau khi hoàn thành, ông được thưởng 80 quan tiền, 2 tấm sa. Nhưng đến tháng 5 năm 1825, sông Vĩnh Điện bị sụt lở nhiều, ông bị vua quở trách và cách chức (7/1925), “truy thu hết bằng sắc từ lúc xuất thân đến nay, rồi làm bằng cấp của đình thần phát cho giữ lấy, đợi sau được khai phục sẽ xét phẩm trật mà cấp trả lại”(Đại Nam thực lục, tập 2, tr.446). Sau đó, ông được phục chức Cai bạ Vĩnh Thanh.
Tháng 9/1826, ông được triệu về kinh đô. Hai tháng sau (11/1826), ôngđược bổ nhiệm chức Hữu Thị lang Hình Bộ. Tháng 5/1827, ông giữ chức thự Hữu Tham tri Hình Bộ.
Tháng 7/1827, ông trở lại Bắc Thành phụ trách việc xét án, quản lý đê chính, kiêm Hình tào Bắc Thành, rồi được thăng từ thự Hữu Tham tri Hình Bộ lên Hữu Tham tri Hình Bộ. Tháng 12/1829, ông được vua thưởng 100 quan tiền do có nhiều nổ lực trong việc đắp đê. Nhưng đến tháng 4/1829, ông bị giáng xuống 3 cấp vì sửa đắp đê không đúng quy định. Sau đó, ông lập công chuộc tội trong việc đắp đê ở Bắc Thành hoàn tất và được phục hồi chức (8/1829).
Tháng 6/1830, Quan đê chính Bắc Thành – Lê Đại Cang một lần nữa bị cách chức do vỡ đê ở Sơn Nam. Tháng 8/1830, đê được sửa đắp, “mừng sông nước thuận dòng, các sở công trình lớn nhỏ đều được yên hà”, phần thưởng vua ban cho ông lần này là phục hồi chức. Sau đó, Hữu Tham tri Hình Bộ – Lê Đại Cang được giao thêm Hình tào Bắc Thành vẫn kiêm lĩnh Đê chính.
Tháng 10/1831, Lê Đại cang được quyền giữ ấn triện Tổng trấn Bắc Thành và thăng chức thự Binh Bộ Thượng thư, làm Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên lĩnh tuần phủ Sơn Tây. Một tháng sau (11/1831), ông bị vua phạt một năm bổng vì tự mình ra lệnh chém đầu kẻ phóng hỏa đốt nhà người khác. Trong thời gian làm Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên, ông còn bị dân hạt Sơn Tây kiện, vua sai Hồ Hựu điều tra xét ra đơn ấy là vu khống, vua bèn sai Bộ Hình truyền chỉ rửa oan cho ông.
Tháng 11/1832, Lê Đại cang được điều làm Tổng đốc An – Hà (An Giang, Hà Tiên) kiêm lĩnh ấn “Bảo hộ Chân Lạp quốc”. Tháng 8 năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), vụ binh biến Lê Văn Khôi, tỉnh thành An Giang thất thủ, ông bị cách chức xuống làm “đoái tì binh dõng tiền quân hiệu lực”, ra trận phải đi trước lập công chuộc tội. Ông phải xông pha nơi đầu tên mũi đạn cùng với viện binh Triều đình tái chiếm được các tỉnh đã mất. Nhờ công trạng này, ông được khôi phục chức Bố chính, thự lý Tuần phủ An Giang (12/1833).
Cuối năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), nhân có lời cầu của Lê Văn Khôi, vua Xiêm sai quân thủy bộ chia làm 5 đạo nhất loạt tiến đánh Hà Tiên, Nam Vang, Cam Lộ, Cam Cát và Trấn Ninh. Tuy chia 5 đạo nhưng chủ đích Xiêm là đánh Chân Lạp và Nam Kỳ. Minh Mệnh cấp tốc điều động các tướng chỉ huy bảo vệ cả 5 mặt trận, Lê Đại Cang được giao nhiệm vụ đem bộ binh đi theo đường Quan Hóa tiếp cứu Nam Vang, một mặt trận then chốt. Ông vừa đến Chân Lạp thì quân Xiêm đã chiếm Nam Vang, Quốc Vương xứ này Nặc Ông Chân bỏ kinh thành mà chạy. Ông thu thập quân Miên và mộ quân nghĩa dũng bản xứ hợp cùng quân bản bộ tấn công quân Xiêm. Liên quân đánh thắng nhiều trận, sau ông đem quân chặn đường tiếp tế của giặc, nhằm cô lập thành Nam Vang. Thừa thắng từ mặt trận Hà Tiên, tướng Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân tiến binh qua Chân Lạp phối hợp cùng quân của Lê Đại Cang tấn công giặc, tướng Xiêm là Phi Nhã Chất Tri thất trận phải bỏ Nam Vang dẫn tàn quân chạy về nước.
Ông cùng hai tướng Trương, Nguyễn hợp binh truy kích giặc, chiếm giữ những nơi trọng yếu, lập đồn phòng ngự. Nhờ chiến công này, ông được thăng chức Tham tri Bộ Binh, Tuần Phủ An Giang (6/1834).
Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), quan quân đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước. Cuối năm này, Nặc Ông Chân mất, không có con trai nối ngôi, vua Minh Mệnh phong người con gái là Angmey làm Quận chúa, gọi là Ngọc Vân Quận Chúa. Vua đổi nước này gọi là trấn Tây Thành, cho Trương Minh Giảng làm chức Tướng quân và Lê Đại Cang làm Trấn tây Tham tán Đại thần Quyền lĩnh ấn Tổng đốc quan phòng An Hà (An Giang, Hà Tiên) (7/1835), cùng lo việc trấn thủ. Năm ấy ông đã 63 tuổi, lấy cớ già yếu dâng sớ xin từ quan nhưng vua Minh Mệnh không cho, châu phê rằng: “lão đương ích tráng” (già mà còn mạnh), lưu ông tại chức.
Lê Đại Cang không đồng tình chủ trương của nhà vua: cai trị trực tiếp Chân Lạp, biến Chân Lạp thành nước chư hầu. Quan điểm của ông là giúp Chân Lạp, quân lính Việt Nam chỉ đóng ở biên giới, cốt yếu phòng thủ bảo vệ quốc gia. Do vậy, ông về làm Tuần phủ An Hà là chính, còn bảo hộ Cao Miên giao cho Trương Minh Giảng.
Tháng Giêng năm 1838, Án phủ là Phạm Ngọc Óanh, Hiệp lý là Đoàn Đức Giảng ở đạo Hải Đông phái vận lương thực, đạn dược đến quân thứ, khi đến đường rừng Ca Thi bị giặc cướp, vua truyền Chỉ quở mắng Lê Đại Cang và Trương Minh Giảng. Trương Minh Giảng tâu về triều đổ lỗi cho Lê Đại Cang. Tội “qui vu trưởng”, một lần nữa ông bị cách chức, phải đến phục vụ tại quân thứ Hải Đông ở đạo Trà Gi với tư cách lính trơn. Trên đường đi đến nhiệm sở mới, ông phải làm quân cáng võng.
Khi tới Trà Gi, ông thấy quân thứ tổ chức còn luộm thuộm, nên đã đích thân chỉnh đốn hàng ngũ, xếp đặt biền binh cho có qui củ. Việc tới tai Trương Minh Giảng, bấy giờ thay ông làm Trấn Tây Tham tán, Trương Minh Giảng bèn dâng sớ hạch ông về tội lạm quyền. Vua Minh Mệnh kết án ông như sau: “ Đại Cang là kẻ bị cách chức phải sung tiền quân hiệu lực mà hành động như một viên đại tướng, không sợ phép nước, chẳng kiêng công luận, đáng làm án TRẢM GIAM HẬU (án giam chờ sau sẽ chém)”. Ông bị vua lệnh bắt xích giải về kinh rồi hạ ngục (3/1838). Trong 3 năm (3/1838 – 4/1841) Lê Đại Cang bị tù ở kinh đô, tên tuổi ông không thấy được chép trong chính sử, cũng không được Lê thị Gia phả và Trần thị Gia phả ghi lại.
Năm 1840, vua Minh Mệnh băng hà; năm 1841, vua Thiệu Trị lên ngôi. Bấy giờ nhân lễ giao bang với nhà Thanh, ông là lão thần duy nhất của triều đình thông hiểu thể lệ nên được tân quân xá tội, cho phục hàm Điển bộ lo việc bang giao; tháng 4 năm 1841, được thăng Tư vụ ty Thanh lại Bộ Hộ, rồi Phụng nghị Đại phu Viên ngoại lang Bộ Binh; tháng 7 năm 1841, thăng Trung thuận Đại phu Lang trung Bộ Binh, biện lý công việc của Bộ; tháng 12 năm 1841, thăng Tổng đốc Bố chánh sứ Hà Nội, Hà Đông. Bấy giờ ông đã 70 tuổi, “nhìn lại từ ra làm quan đến nay, mùi vị làm quan: ngọt, bùi, cay, đắng, lo, buồn, vẻ vang đều nếm đủ” (lời ông tự bạch trong Lê Thị gia phả), tự coi đã trả xong món nợ làm trai nên không tựu chức mà một mực xin về hưu. Vua cố ép, ông cố từ, mãi đến năm Thiệu Trị thứ 3 (12/1842), ông 72 tuổi mới được vua chuẩn y hưu trí: “Thự Bố chính sứ Hà Nội Lê Đại Cang tuổi già, về hưu trí”.
Một nỗi niềm với bản quán
Từ ấy, áo trắng về vườn, ông thật sự thoát vòng cương tỏa. Trong buổi xế chiều của cuộc đời, ông vẫn còn trăn trở với quê hương bản xứ, ông đứng ra vận động sáng lập Văn chỉ Trung Tín (Văn chỉ huyện Tuy Phước, Văn chỉ duy nhất còn lại của Bình Định đã được xếp hạng di tích). Sau khi quyên góp tiền bạc ruộng đất, hoàn thành xây dựng và hình thành tổ chức quản lý hoạt động cho Văn chỉ, ông về lập Giác Am làm nơi tu tâm dưỡng tánh (ngày nay là Chùa Bảo Thọ thuộc xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước), lấy hiệu là Giác Am cư sĩ. Ông từ trần năm Kỷ Dậu (1849) tại Giác Am, thọ 78 tuổi. Về văn nghiệp, ông có soạn các sách: Nam Hành thi tập, Tục Nam hành thi tập, Tỉnh ngu thi tập, Hành dư.
Cuộc đời Lê Đại Cang là những chìm nổi trong bể hoạn mênh mang, là những thăng trầm trong sự nghiệp. Ông được thăng thưởng quan tước nhiều lần vì những thành tích chiến công trong quân sự, kinh tế, ngoại giao. Kinh qua các chức vụ: Thượng thư, Tổng đốc, Tham tán, Đại thần; hai phen đốc xuất và quản lý việc bang giao với nhà Thanh; ba lần bảo hộ Phiên quốc là nước Cao Miên. Nhưng cũng nhiều lần bị giáng phạt cách chức, hai lần giáng làm “tiền quân hiệu lực”, quân cáng võng, một lần bị lệnh bắt xích giải về kinh, kết án hạ ngục “trảm giam hậu”.
Năm 2011, dòng họ Lê phát hiện và nhận lại 4 đạo sắc phong do vua Thiệu Trị ban cho ông, được chùa Bảo Thọ (nguyên là Giác Am do ông lập) lưu giữ sau khi ông mất (1849). Cả bốn đạo sắc lần lượt ban hành trong một năm (1841), trong đó có hai đạo ban trong một ngày: Thăng ông từ Tư vụ chánh thất phẩm (7-1) lên Viên ngoại lang chánh ngũ phẩm (5-1). Ba tháng sau ban sắc cho thực thụ Lang trung chánh tứ phẩm (4-1). Năm tháng sau ban sắc cho lãnh chức Bố chánh sứ chánh tam phẩm (3-1). Từ tháng tư đến tháng chạp năm 1841, trong vòng 8 tháng, thăng đến bốn phẩm lãnh – hàm chánh tam. Điều đó chứng tỏ, không chỉ vì Vua Thiệu Trị ưu ái, mà vì ông có tài đức thực sự và Triều đình lúc bấy giờ rất cần người như ông để lo việc dân việc nước. Cái tài của ông từng được vua Minh Mệnh xác nhận: “Người làm việc nhanh, giỏi – Trẫm đã chọn biết” (Liệt truyện, truyện Lê Đại Cang). Triều đình cần ông, như Gia phả cho biết: “Nhân lễ ban giao với Thanh triều, ông là vị lão thần duy nhất hiểu thể lệ nên phục hàm Điển bạ lo sắp đặt việc ngoại giao”. Bốn đạo sắc phong do vua Thiệu Trị ban cho ông cuối cuộc đời làm quan là một kết thúc có hậu, đã khẳng định thêm một hình ảnh, một nhân cách, một tấm gương của kẻ sĩ cho hậu thế.
Xuất thân gia đình khoa bảng, nhưng Lê Đại Cang văn võ song toàn. Ông luôn có khả năng đứng trên tình thế, ở cương vị nào ông cũng hoàn thành chức phận của mình. Là một vị quan, ông giữ đúng: “thanh, cần, thận, trực”, là một con người ông có đủ: trung dũng, trí, tín. Hơn 40 năm làm quan, lúc thăng, lúc giáng, nhưng Lê Đại Cang luôn là một trung thần, là con dân của đất Việt, mang hết trí lực phục vụ tổ quốc; khi bị cách chức làm “tiền quân” hoặc bị kết án “trảm giam hậu” ông vẫn kiên trì bày tỏ tài năng, lòng trung nghĩa và rồi lại vươn lên. Lúc nào cũng sống thực sự là mình, và dám là mình giữa bão giông mênh mông của bể hoạn. Ông tự bạch trong Lê Thị gia phả “Ải sông muôn dặm nhưng lòng luôn tưởng nhớ tới thì như ở trong gang tấc. Ngày đêm cần cù làm việc để báo đáp, ơn vua ơn nước dù nhỏ nhoi như giọt nước, như hạt bụi cũng không quên”.
Cuộc đời Lê Đại Cang là một biểu tượng về cái tài, cái tâm của kẻ sĩ, một cuộc đời mà biết bao người xưa nay phải khao khát, ngưỡng mộ. Những giá trị từ di sản và bài học lịch sử về thời kỳ Lê Đại Cang cũng như cuộc đời ông chứa đựng rất nhiều ý nghĩa cho hành trình đổi mới của xã hội, đất nước và con người Việt Nam hôm nay.
NTQ
SÁCH THAM KHẢO
– Đại Nam thực lục, Tập 1-2-3-4-5-6, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2004.
– Đại Nam chính biên liệt truyện.
– Đại Nam nhất thống chí. Quyển 9 tỉnh Bình Định, tờ 45a +46b
– Lộc Xuyên-Đặng Quí Địch, Chuyện cũ kẻ sĩ Bình Định, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội,2009.
– Lộc Xuyên-Đặng Quí Địch, Nhân vật Bình Định, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nôi, 2006.
– Bùi Văn Lăng, Danh nhân Bình Định.
– Lê thị Gia phả, 1836.
– Trần thị Gia phả, 1871.
– Hồ sơ di tích Đình Văn chỉ Tuy Phước. Bảo tàng Tổng hợp Bình Định.

Sao ít nghe nói đến nhân vật này ,ông ta là một nhân vật lịch sử lớn
Mot nhan vat theo suy nghi cua toi that vi dai
Cảm ơn Ngô Quang Hiển, Người Nhơn Lý, anh Cao Quảng Văn, Huỳnh Ngọc Nga… đã có lời động viên. NTQ rất vui khi “Cái tâm, cái tài của kẻ sĩ Lê Đại Cang” được nhiều người biết đến. Hy vọng, những giá trị từ di sản và bài học lịch sử về thời đại Lê Đại cang cũng như cuộc đời ông sẽ cho chúng ta và những thế hệ hậu sinh nhiều kinh nghiệm quí.
Tên đường đã được đặt rồi chẳng hạn Lê Lợi, Võ Tánh, Gia Long… đã được đặt tên Lê Hồng Phong, (gì nữa lâu quá quên mất rầu!) v.v…
Tôi nghĩ phải có một hình thức tôn vinh nào đó xứng đáng đối với nhân vật lịch sử này. Chẳng hạn đặt tên đường….
Nhờ đọc bài nầy mới biết thêm 1 nhân vật lịch sữ quan trọng khả kính.
Xin phép tác giả cho tôi được chuyển bài đến các bằng hữu xa gần khác của tôi nghen.
Cám ơn công phu sưu tầm của tác giả rất nhiều.
Một nhân vật văn võ song toàn, cực kỳ xuất sắc, khí phách ngang tàng, hoạn lộ thăng trầm ba chìm bảy nổi chẳng khác gì Nguyễn Công Trứ của đất Uy Viễn, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Hai ông sống gần như cùng thời: ông lớn hơn NCT 6 tuổi và mất trước NCT 9 năm( NCT, 1778 – 1858), nhưng cả hai đều xứng danh Kẻ Sĩ, một lòng vì dân vì nước … mà cuộc đời ông là biểu tượng sáng ngời về cái Tâm, cái Đức cái Tài của những con người chân chính. Cám ơn bài viết công phu của tác giả Nguyễn Thanh Quang…
Bài viết thật công phu, cảm ơn tác giả nhiều .
Cảm ơn ViVi099, mong rằng người Xứ Nẫu sẽ luôn tự hào và phát huy chất kẻ sĩ của tiền nhân.
Một bài nghiên cứu công phu !
Người dân làng tôi vẫn hay gọi Lê Đại Cang là Lê Đại Cương !
Không biết Minh Lộc ở làng nào. Chữ Cang/Cương đồng nghĩa, miền Bắc thường dịch là Cương, miền Nam thường dịch là Cang. Tương tự như vậy, Đào Tấn còn dịch là Đào Tiến,…
Đời người tài danh thêm chút tài tử bao giờ cũng ba chìm bảy nổi… chín lênh đênh !
Lê Đại Cang di mệnh cho con cháu không được ra làm quan. Nhưng hình như con cháu của ông làm quan triều đại này hơi nhiều, phải không anh Thế Khoa ?
Một nhân vật rất đáng kính trọng
Ông quan này quê tui đấy ? Mừng ghê
Đúng là một cuôc đời chim nổi trong bể hoạn mênh mang