Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Mười Một, 2011

Mắt Người Tây Sơn

Trần Dzạ Lữ

 

                                                                             Gửi một người

                           Có đôi mắt Tây Sơn buồn vời vợi

                                Ám theo anh suốt dọc đường đời

                                Để đến đêm lại ngóng về con-mắt-biết-nói

                                Ngủ sao yên mùa nhớ em ơi?

                                 Con dã tràng xe mãi niềm vui

                                 Gửi cho biển, tặng em lời tình tự

                                 Gió Tây Sơn ôm chằm quá khứ

                                 Giục anh về Thị Nại chơi vơi…

                                 Qua Ghềnh Ráng , biết em đã đi rồi

                                  Anh đứng lại nghe lòng rưng rức

                                  Đồi Mộng cầm đêm nay sương thức

                                  Giữa vuông trời nhàn nhạt trăng vơi!

                                  Quy Nhơn ơi! Thương quá một người

                                   Mắt Tây Sơn giấu sầu thị tứ

                                   Chiều không em, xoay vòng cuộc lữ

                                   Nắng phai xưa,nhạc Trịnh mưa hoài…

                                    Mắt của em là con- mắt-biết-cười

                                    Khiến anh chết giữa nhu mì thiếu nữ

                                    Có bão giông,cũng quay về cát cứ

                                    Nơi miền yêu đằm thắm lâu rồi.

Read Full Post »

Tản mạn về cái phận nghèo

  Nguyễn Hữu Duyên

Từ ngàn xưa, ông cha ta thường nói không nên vạch áo cho người xem lưng, mà chuyện nghèo có hay ho gì đâu mà nói cho thiên hạ biết. Phân vân mãi rồi tôi cũng muốn chia sẻ, giãi bày về cuộc mưu sinh khá là vất vả, cơ cực của 30 năm sau khi lập gia đình từ năm 27 tuổi. Nếu tính thời gian của cuộc đời này là 60 năm như lời một bài hát thì tôi chỉ còn 3 năm nữa mà thôi. Nhiều lúc tôi tự hỏi, tại sao tôi lại chịu đựng được cái nghèo cứ đeo bám tôi dai dẳng như vậy?Từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành, ba dạy tôi rất nhiều điều về cách ứng xử trong cuộc sống, nhưng điều tôi tâm đắc nhất vẫn là câu tục ngữ: “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Ông giải thích ngắn gọn và dễ hiểu, tôi trân trọng mang nó vào đời. Cuộc sống viên chức của gần 30 năm về trước với đồng lương khiêm tốn làm cho gia đình tôi lâm vào cảnh thiếu thốn triền miên.Những bộ sách hay của văn học Việt Nam và những tác phẩm của các tác giả đạt giải Nôben được tôi cất giữ cẩn thận, rồi cũng đều bị tôi xé từng tờ đưa vào lò lửa khi nồi cơm, nồi canh đang lỡ dở mà hết củi chụm. Vợ tôi ngồi khóc khi thằng con trai 6 tuổi bị sốt do viêm họng mà không có tiền để đi mua thuốc hoặc đi bệnh viện. Tôi phải lục trong ký ức, chạy ngược chạy xuôi cho đến khuya mới tìm ra một thằng bạn học có vợ làm y tá trong bệnh viện huyện xin mấy viên thuốc kháng sinh và paracetamol.

Thằng bạn từ Quy Nhơn lên chơi, nhà hết gạo, chẳng còn tiền, lương thì chưa nhận, vợ tôi phải sang nhà hàng xóm mượn một ký gạo đem ra chợ bán nửa ký mua đồ ăn, làm cơm tiếp bạn. Nhưng tôi nhớ nhất là năm 1992, cái năm ở nhờ trong vườn trồng tiêu, cà phê của ông chú vợ ở Gia Lai, và chịu trách nhiệm coi ngó cái xưởng gỗ của ông. Số tiền mang theo ít ỏi dùng để mua gạo ngày càng cạn dần.

Một bữa trưa vì đói nên tôi ra vườn moi các luống rau lang tìm củ, nhưng tìm mãi mà không có một củ nào, tôi đành phải nói với vợ lấy cái lon bắp giống rang cho tôi ăn đỡ đói. Cái nghèo đói của tôi không chỉ là những dòng nêu trên, bởi đến 30 năm kia mà. Nhưng chỉ mới viết lại đơn giản chừng ấy thôi, tôi rùng mình phát hoảng và thương hại cho cuộc đời mình, nghèo đói đến thế là cùng.

Khi mới lập gia đình, má tôi bảo rằng con cố gắng làm để khỏi phải nghèo, mà nghèo thì khổ đủ điều. Lúc ấy tôi chỉ cười và nói, con chỉ sợ giàu, phải lo xây nhà kiên cố, tường rào cổng ngõ phải bài bản, phải có chó dữ, ra đường phải nhìn trước ngó sau đề phòng trộm cướp, đi đâu cũng kẻ đón người chào mất tự nhiên. Nghe tôi nói vậy, má tôi không nói gì, chỉ cười buồn.Không hiểu sao cái nghèo đói luôn bám riết lấy tôi, mà tôi thì không rượu chè, không cờ bạc, cũng chịu làm để góp phần lo cuộc sống gia đình và nuôi con ăn học. Nghèo thì nghèo vậy, nhưng tôi luôn lấy làm hãnh diện, thấy mình nhẹ nhàng, thanh thản vì không làm điều gì trái với lương tâm, như lời ba tôi đã dạy, đã giải nghĩa câu tục ngữ: “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ, tiền bạc của cải như bọt biển, chữ tình mới là sâu nặng bền lâu.Cách đây 20 năm, tôi đọc một bài viết trên tờ Văn nghệ trẻ mà tôi không nhớ tựa đề, nhưng có một câu gồm ba chữ “nghèo là nhục”. Phải nói là lúc ấy tôi thực sự nổi giận, và tìm người bạn rất thân chia sẻ những suy nghĩ của mình. Anh bạn của tôi thì cho rằng, lúc này là lúc nào rồi mà tôi còn ôm cái triết lý cũ mèm của ngày xửa ngày xưa ấy. Nghèo là nhục, chính xác tuyệt đối!

Anh bạn còn nói bởi vì tôi chưa nghèo đói đến mức thấy hết sự đối xử của người đời dành cho mình. Ví dụ không có nhà, người ta đuổi ra đường; không có tiền, người ta không cho mượn mà còn miệt thị chửi mắng. Chỉ chừng ấy thôi, không lẽ không nhục sao? Hơn nữa cái hãnh diện của người có tiền, của người giàu khác hẳn với cái hãnh diện gần như là một cái thú đau thương của người nghèo.

Riêng tôi thì cho rằng, nghèo nhưng có lòng tự trọng, không đánh mất nhân cách, có thể chết vì đói, lang thang nay đây mai đó vì không nhà cửa, nhưng không thể là nhục được. Tôi và người bạn tranh luận với nhau rất gay gắt, không có hồi kết. Và cuộc tranh luận ấy ít nhiều đã làm tôi phải suy nghĩ thêm về những điều mà cái nghèo phải gánh chịu trong cuộc sống những năm sau này, nhất là lời căn dặn của má tôi: nghèo sẽ khổ đủ điều.

Thời gian trôi qua như là một thước đo kiểm nghiệm giá trị của cuộc sống. Ba má tôi ngày càng già yếu, các em tôi lớn lên rồi lập gia đình, có đứa giàu đứa nghèo, lâu lâu mới gặp nhau. Tình cảm cũng không còn như ngày nào sống chung dưới một mái nhà. Tôi là con trai trưởng nhưng tiếng nói không còn trọng lượng, bởi quá nghèo. Ba má tôi không bao giờ chê tôi nghèo mà ngược lại còn rất thương tôi, nhưng không thể nghe tôi vì mọi việc trong gia đình đều do những đứa em có tiền của tôi quyết định.

Đến sổ đỏ nhà cha mẹ, tụi nó cũng lấy để vay vốn ngân hàng làm ăn, tôi cần làm gì thì đi vay nóng. Tụi nó cho nhau mượn hàng chục triệu, nhưng tôi chỉ cần ba triệu để nộp học phí cho hai đứa con thì phải mượn hàng xóm. Mà tôi có đến tám đứa em, một thằng đã là tỷ phú, có nhà hàng, có xe bảy chỗ. Có người sẽ nói rằng, có lẽ tôi ăn ở chẳng ra sao nên không có đứa em nào giúp đỡ cả. Đơn giản thôi, khả năng trả nợ của tôi rất thấp, bởi tôi nghèo quá, đang phải tha hương cầu thực, và thế là tôi đã bắt đầu cảm nhận nỗi khổ của kẻ nghèo trong một gia đình.

Nói đúng hơn, với tôi đó là nỗi bất hạnh, là sự tổn thương quá sức chịu đựng. Và tôi đã mường tượng nhận ra người bạn của tôi cũng có phần đúng khi nói nghèo là nhục. Trớ trêu thay khi tôi mường tượng ra điều ấy thì tuổi đã gần 60, cái tuổi không thể dùng cơ bắp nhiều để mưu sinh, nhưng cũng không thể làm khác được. Tuy nhiên vì đã quen với cảnh nghèo nhiều năm nên tôi tiếp tục bước vào cuộc chiến cơm áo gạo tiền cũng hết sức bình tĩnh, cũng ủi đồ, cũng bỏ áo trong quần như ai khi đi ra đường.

Đôi lúc tôi thản nhiên với số phận, bởi cho rằng mình không thể thoát ra khỏi cái cảnh nghèo như câu ca dao: Cây khô xuống nước cũng khô/Phận nghèo đi tới nơi mô cũng nghèo.

Không phải ngẫu nhiên mà tôi nghĩ như vậy. Ở quê, tôi không nhà cửa, tôi xin ở nhờ nhà của bà con họ hàng, nhà của nhà nước, và cái trại bán đồ sành sứ của thằng em trai. Vào Sài Gòn, lúc thì thuê nhà ở Gò Vấp, Bình Thạnh, khi thì Thủ Đức, quận 8, và năm năm rồi trụ được tại quận 9 với cái nồi bún riêu học lỏm. Đời tôi lênh đênh ba chìm bảy nổi như thế thì làm sao dám nghĩ đến chuyện an cư lạc nghiệp, làm sao dám mơ tưởng đến việc thoát được cảnh nghèo.

Về chuyện nghèo là nhục, cũng xin nói thêm rằng, qua hơn 5 năm ở Sài Gòn, tôi thấy người ở thành phố này rất tôn trọng những người chịu thương chịu khó, chịu lao động, mặc dù những người đó rất nghèo. Cái nhìn của người Sài Gòn mang nét hào hoa tài tử của người Nam bộ trọng nghĩa khinh tài. Họ không trọng vì giàu, không khinh vì nghèo. Đã có không ít người của bao thế hệ miền Trung, miền Bắc được người Sài Gòn yêu thương gả con gái tạo điều kiện gây dựng cơ nghiệp vững chắc từ một anh sinh viên nghèo, hay từ một anh công nhân bình thường.

Nghĩ đến những điều ấy, tôi thấy lòng mình như ấm lại. Nghèo không ai khinh, cũng không gọi là nhục được, nhưng như má tôi nói, nghèo sẽ khổ đủ điều, đó là điều chắc chắn. Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu đủ thứ, không nhà cửa, không lễ tết, không giỗ chạp. Tuy nhiên, điều đáng lo nhất là chuyện đau ốm bệnh tật, nhẹ thì được chứ nặng thì chỉ có chết vì không có tiền nằm viện, không có tiền mua thuốc.

Tôi nói với hai đứa con, bây giờ tôi sợ nghèo còn hơn ma quỷ, sợ đến khủng khiếp, sợ đến phát điên, phát cuồng. Nếu có ai hỏi trên thế gian này tôi sợ nhất điều gì thì tôi sẽ trả lời ngay: Nghèo.

Read Full Post »

TRƯƠNG TẤT THỌ

Thời gian trôi qua  với biết bao nhiêu kỷ niệm. Kỷ niệm vui làm con tim rộn rã, kỷ niệm buồn làm tâm hồn xao xuyến bâng khuâng. Và tôi nâng niu kỷ niệm như những bảo vật quí giá nhất  vì sự kiện rồi sẽ phôi pha còn kỷ niệm sẽ luôn sống mãi trong tâm hồn, trường cửu với thời gian. Bài viết này kính tặng các thầy cô Tôn Thất Ngạc, Trương Ân, Vương Quốc Tấn, Lê Nhữ Tri, cô Bùi Khương, cô Bích…

 

Kỷ niệm lễ phát thưởng ở trường cũ thời 1960, tác giả ngồi ngoài cùng bên phải, cô Bích ngồi giữa

Lên lớp 11, tôi học Vật lý với thầy Vương Quốc Tấn , cũng mới ra trường. Kỷ niệm đầu tiên, đó là cái tội…chọc thầy của tôi. Nguyên tôi viết chữ đẹp nên được giao nhiệm vụ viết sổ đầu bài. Hôm đó vào giờ của thầy, tôi đã bắt con cào cào lớn bỏ vào sổ điểm rồi lấy sổ đầu bài giằng lên. Khi vào lớp thầy vừa mở sổ gọi đọc bài thì con cào cào búng thẳng vào thầy làm thầy sợ xanh mặt. Sau nầy tôi mới biết thầy bị bệnh yếu tim. Hối hận.

Không riêng tôi, các cô gái lớn và đẹp trong lớp tôi cũng nhè thầy chọc hoài, cứ một lát các người đẹp lại dài cổ ra gọi “ Th..ầ…y” rồi khúc khích cười khiến thầy trở nên bối rối…Sau này có một bài ca “tình yêu đến từ nơi đâu…” nhưng riêng tôi lúc ấy thì biết rằng tình yêu đến tứ cái chuyện chọc quê thầy giáo mới ra trường với kiểu gọi “Th…ầ…y” pha tí ti nũng nịu…

Tôi thương thầy Tấn nhiều vì thầy là cây vợt bóng bàn của ĐHSP Huế, đàn ghi ta cũng khá, có tâm hồn âm nhạc (hình như giống tôi). Về trường, thầy phụ trách bộ môn bóng bàn và tôi là vận động viên chủ lực của trường, đoạt các chức vô địch mang danh dự về cho trường, tham dự vòng chung kết toàn quốc… Dưới sự lãnh đạo của thầy, đội bóng bàn trường đoạt luôn chức vô địch thanh niên tỉnh làm thầy khoái qúa dẫn chúng tôi ra nhà hàng đặc sản Ngũ Châu ăn bồ câu quay. Hôm đó thầy ứng chi 105đ (thời 1961 là số tiền lớn, nghe đâu sau này trường không chịu hoàn lại làm thầy bị thiệt), nhưng tôi lại khoái mẫu đàn ông chịu chơi mà không chơi chịu, dám chơi, dám chi như thầy. Những ngày chủ nhật, thầy hay đạp xe ra nhà tôi chơi, đàn hát với tôi rồi chở tôi trên xe miti (tức ngồi đòn giông mi tóc) đi dợt bóng bàn. Mối liên hệ giữa tôi với thầy Tấn vừa là thầy trò vừa như anh em kể cả những lúc tôi chọc quê thầy khi bắt gặp thầy chở “nàng “ đi chơi trên xe Jeep ca pô cao ở vùng quê. Thầy thì chối biến, còn tôi lại tống cho thầy một quả ấm ớ hội tề cho thầy sợ chơi:

-Phần em thì em cứ “hê”, phần thầy nếu có oan uổng thì cứ việc thanh minh thanh nga, có sao đâu…

Tác giả 1961

Năm l997, đang đi trên đường XVNT, thấy dáng ai đi như dáng thầy Tấn 35 năm trước, tôi mừng qúa nhưng không thể quẹo trái được vì đường quá đông xe, tôi phải vừa ép trái vừa canh chừng bóng thầy. Rê khỏang trăm mét, tôi quay lại và gặp thầy, mừng ơi là mừng. Ngày 20-11 năm đó vì bận việc, tôi bảo tài xế mang quà đến tặng thầy, thấy tên tôi, thầy phán “Cậu này hồi xưa học giỏi lắm!”. Nghe nhân viên báo cáo lại, tôi sướng rên mấy đìu hiu.

Hồi học trường Cường Để 1960, tôi còn rất thương cô Bùi Khương, cô là cưu nũ sinh Marie Curie, dạy Pháp Văn đồng thời cũng là GV chủ nhiệm. Học trò miền Trung mà được một cô giáo học trường Pháp ở Saigon dạy Pháp Văn thì tuyệt cú mèo nên chúng tôi ái mộ cô lắm. Kỷ niệm “êm đềm” nhất với cô , là khi tham gia công tác hiệu đoàn, tôi hỏi cô thứ hạng tháng vừa qua, cô chỉ cười nói:

-Tháng nào cũng phê em giỏi, khá hoài nên tháng này cô phê khác…

-Cô phê sao cô?

Cô cốc đầu tôi rồi cười bí mật:

-Khi phát sổ liên lạc ra sẽ biết…

Quả nhiên đến giờ chủ nhiệm, cô phát sổ tôi thấy cô phê một lời phê rất đặc biệt, “không đụng hàng”, đó là :

-Hạnh kiểm: Ngoan!

-Học lực: Nhỏ mà học giỏi, đáng khen!

-Chuyên cần: Khá!

Tôi khoái chí nhìn cô cười và bắt gặp cô nhìn tôi đầy thương mến, cười trên đôi môi và cả trên ánh mắt. Tôi nhớ mãi lời phê ấy của cô như là một kỷ niệm khó quên thời đi học.

Kỷ niệm ngày xưa đi học đối với tôi là cả một dĩ vãng vàng son vì được rất nhiều thầy cô cưng. Tôi thuộc dạng “ngu trường kỳ, thông minh đột xuất” nên lấy đó làm tiền đề khai thác  để các cô bạn gái noi theo mà … cưng tiếp cho…đạt chất lượng 5 sao.

TTT

Read Full Post »

Hồ Ngạc Ngữ

Biển rất xanh nên lòng anh rất rộng
Cũng rất buồn khi anh nhớ đến em
Có những ngày mặt biển rất mông mênh
Những cơn sóng nhớ ai mà đầu bạc

Những cơn gió đã là cơn gió khát
Mang cô liêu trong nỗi nhớ nghìn trùng
Anh đã chìm vào đôi mắt xanh trong
Chợt hiểu tình yêu sâu hơn lòng biển

Anh biết biển đời là nơi hò hẹn
Những nỗi biệt ly, những cuộc sum vầy
Những dấu chân buồn trên cát đêm nay
Sóng sẽ xóa để mong người đừng nhớ

Anh yêu biển những đêm trời trở gió
Nghe mênh mông tiếng sóng lòng mình
Thấy cuộc đời như hoa sóng dưới chân
Buồn hiu hắt tiếng dã tràng xe cát…

Read Full Post »

Tình yêu “lì xì”

           Ngô Đình Hải      

                                  Ngày đó khi em nói :

                                 Không cần gì hết ngoài tôi
                                 Là lúc em đang bước vào bóng tối
                                 Tự giẫm lên chân mình bằng những bước lạc loài
 .
                                 Ngày đó khi tôi phải nói
                                 Với em : về những người đàn bà trong đời
                                 Là lúc tôi tự đào huyệt chôn vùi
                                 Những chuyện tình mong manh nông nỗi
 .
                                 Ngày đó khi em nói :
                                 Cho dù ngày vui ngắn ngủi
                                 Chấp nhận thiệt thòi bên cạnh tôi
                                 Là lúc em buộc tôi quay lại
                                 Với những ràng buộc tất nhiên của một con người
 .
                                  Ngày đó khi tôi kể với em :
                                  Những lần yêu vội
                                  Từ cảm xúc của trái tim chứ không phải bằng lời nói
                                   Là lúc tôi đang đắp đường ngăn lối
                                   Không còn chỗ nào cho em và tôi
 .
                                  Ngày đó khi em khóc với tôi
                                   Sau những lần gặp gỡ mệt nhoài
                                   Cuộc tình này
                                   Lẽ ra không nên tồn tại
                                   Có còn gì đâu để cho em chờ đợi
                                   Bởi quay mặt đi rồi tôi phải trở lại với tôi thôi !
 .
                                    Ngày đó khi em nói :
                                    Em không đòi hỏi
                                    Chút luyến lưu nào trong phần đời còn lại
                                    Đâu biết tôi vì ai mà trở thành gian dối
                                    Tự nguyền rũa mình sao không sớm chia tay
 .
                                    Ngày đó hình như
                                    Tôi có xin em nghe lần cuối
                                    Còn có nhau đây là đã sẵn những mất mát rồi
                                    Đừng bao giờ đem yêu thương trao đổi
                                    Lấy hạnh phúc nửa vời
                                    Tình yêu cho không
                                    Muôn đời
                                    Là tuyệt vọng ! em ơi !
                                         

Read Full Post »

Quán cũ

TRẦN QUANG KHANH


Hai mươi năm trước, chẳng hiểu vì sao sáng sáng chúng tôi lại chọn ngồi ở đó. Quán cà phê vườn bé nhỏ, bên đường, không có tên. Cây chanh sau cánh cổng nhỏ cứ bị mé nhánh dần để khỏi bị vướng vào khách càng trở nên khẳng khiu, cao lêu nghêu được chúng tôi mượn danh đặt tên cho quán. Quán Cây Chanh! Mà có lẽ cái tên ấy cũng chỉ dành riêng cho chúng tôi; chỉ của nhóm nhà báo, nhà thơ, họa sĩ… sáng sáng gọi tên và tụ tập.

Quán giản đơn với vài bộ bàn ghế nhựa cũ, cái bình trà sức vòi, cái tách trà mẻ miệng. Chủ quán là hai chị em gái cập kê không xấu và hiền lành; cà phê pha không dở nhưng cũng chẳng quá ngon. Vậy mà lạ, đám văn nghệ sĩ trẻ hoạt náo chúng tôi cứ chọn, cứ ngồi đồng sáng sáng hằng năm này qua năm khác. Câu chuyện mỗi sáng cũng chỉ là những thông tin trên báo, trong giới, rồi chuyện tiếu lâm, chuyện gái trai… Và những tràng cười vô tư lự. Đôi lúc cuộc tụ tập còn để nhà báo đặt bài cho nhà thơ viết báo hay nhà thơ phẩm bình nhà báo làm thơ. Sự tụ tập thường xuyên và sự thân thiết của nhóm bạn tụ tập đến nỗi có kẻ tò mò rình rập, hóng hớt…

Rồi nhóm bạn tụ tập ở quán cứ thiếu hụt dần… Người bận bịu, kẻ đi xa?… Và cũng chẳng nhớ tự lúc nào những người cuối cùng trong nhóm bạn cũng thôi ngồi cái quán ấy. Cũng chẳng ai hay cây chanh sau cổng quán bị bứng đi, bị sâu đục hay ngã chết từ lúc nào. Thỉnh thoảng đi ngang qua quán cũ, mỗi người trong nhóm bạn lại ngoái nhìn vào cổng quán thiếu sự hiện diện của cây chanh như nhìn vào khoảng trống của ký ức mình…

 

Rồi một chiều sau bao lần hẹn không thành, vài người trong nhóm bạn lại kéo nhau vào quán cũ. Vẫn những bàn ghế cũ, cái bình sức vòi, cái tách mẻ miệng… song đã thấy trên mỗi chiếc bàn có thêm cái dĩa nhựa ghi hàng chữ nguệch ngoạc trên giấy đè bên trên là lớp keo trong “dĩa đựng nước thừa”; chiếc ghế đệm bây giờ được phủ lên lưng ghế tấm vải mùng vàng ố màu cháo lòng… Mọi thứ khập khiễng…

Chủ quán vẫn là hai chị em. Họ cùng khu vườn nhỏ đã đón ngàn ngàn lượt khách đến uống cà phê. Song với ngôi nhà phía trong thì chưa hề một lần đón bóng đàn ông. Hai cô gái vẫn chưa có chồng! Nhìn lại họ sau hai mươi năm mới thấy sức tàn phá ghê gớm của thời gian với tuổi thanh xuân.

Chúng tôi gọi cà phê. Rất lâu cô chủ (là em) mới mang ra cái bình trà, mấy cái tách. Rồi lại rất lâu cô chủ (là chị) mới mang ra mấy ly cà phê có cái phin nhôm xỉn màu ở phía trên… Họ nhìn chúng tôi nụ cười héo hắt…

Tôi cảm nhận sự khác xa quá đỗi của quán Cây Chanh hai mươi năm trước.

Hai cô chủ quán đã chậm chạp rồi!

Và cả chúng tôi cũng khác. Cả bọn ngày xưa, điểm danh lại đã mất đi hẳn vài người. Bởi người thì vĩnh viễn đi xa, người thì “quay lưng” đến nỗi không thể ngồi chung bàn với người bạn cũ…

T.Q.K

Read Full Post »

(Dân trí) – Trong đợt kiểm phiếu đầu tiên vào ngày 11/11/11, tổ chức New7Wonders đã công bố danh sách tạm thời 7 kỳ quan tự nhiên mới của thế giới, trong đó có Vịnh Hạ Long của Việt Nam.

Theo trang web New7Wonders, theo kết quả cuộc kiểm phiếu đầu tiên, 7 kỳ quan thế giới mới bao gồm rừng rậm Amazon ở Nam Mỹ, Vịnh Hạ Long của Việt Nam, thác Iguazu ở Argentina và Brazil, đảo Jeju – Hàn Quốc, công viên quốc gia Komodo – Indonesia, dòng sông ngầm Puerto Pricesa – Philippines và núi Bàn -Nam Phi.

Kết quả trên được xếp theo thứ tự chữ cái, không phải theo thứ tự được bầu chọn.

Theo trang web này có thể sẽ thay đổi giữa những kỳ quan giành chiến thắng tạm thời trên, cũng như kỳ quan giành chiến thắng chung cuộc.

Hiện công tác kiểm phiếu bầu đang được kiểm tra, phê chuẩn và xác minh một cách độc lập. Kỳ quan chiến thắng cuối cùng sẽ được công bố vào đầu năm 2012, trong lễ công bố chính thức.

Rừng rậm Amazon

Hé lộ 7 kỳ quan thế giới mới
Rừng nhiệt đới Amazon, hay còn được biết đến với tên gọi Amazonia, rừng rậm Amazon hay Lòng chảo Amazon, trải rộng 7 triệu km2, mặc dù bản thân diện tích rừng chiếm khoảng 5,5 triệu km2. Rừng rậm Amazon nằm trên 9 quốc gia, chiếm hơn một nửa tổng rừng nhiệt đới trên toàn hành tinh và là rừng nhiệt đới lớn nhất, chứa đựng nhiều loài quý hiếm nhất trên thế giới. Sông Amazon cũng là dòng sông lớn nhất thế giới xét về lượng nước, với tổng dòng chảy lớn hơn top 10 dòng sông khác trên thế giới. Nó chiếm xấp xỉ 1/5 tổng dòng chảy của các dòng sông trên thế giới và có lưu vực thoát nước lớn nhất hành tinh. Không có một cây cầu nào được bắc qua sông Amazon, do nó quá rộng.
Vịnh Hạ Long
Hé lộ 7 kỳ quan thế giới mới
Vịnh Hạ Long nằm ở tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Vịnh có hàng ngàn núi, đảo đá vôi, với nhiều kích thước, hình thù. Vịnh trải trên 120km dọc bờ biển, và rộng khoảng 1.553km, với 1969 đảo. Rất nhiều đảo rỗng, với những hang lớn. Cũng không thể không nhắc tới các làng chài nổi trên các đảo này, với ngư dân tận dụng các vùng nước nông để nuôi trồng cá và các loại động vật thân mềm.  Một đặc điểm đặc biệt khác của Vịnh Hạ Long là vịnh có vô vàn hồ bên trong các đảo đá vôi.
Chòm Thác Iguazu

Hé lộ 7 kỳ quan thế giới mới

Chòm thác Iguazu trên sông Iguazu nằm trong những thác nước lớn nhất thế giới. Các thác này trải dài 2.700m, theo hình vòng cung. Trong số 275 thác cấu thành nên chòm Thác Iguazu, “Họng của quỷ” là tác cao nhất, cao 80m. Thác Iguazu nằm ở biên giới bang Paraná của Brazil và tỉnh Misiones của Argentina và được bao quanh bởi 2 công viên quốc gia (BR/ARG). Cả hai đều là những khu rừng cận nhiệt đới, với hàng trăm loài động, thực vật quý hiếm.

Đảo Jeju

Hé lộ 7 kỳ quan thế giới mới

Đảo Jeju là đảo núi lửa, nằm cách bờ biển phía nam của Hàn Quốc 130km. Đây là đảo lớn nhất nhưng là tỉnh nhỏ nhất Hàn Quốc. Đảo có diện tích nổi là 1.846km2. Trung tâm của đảo là Hallasan, ngọn núi cao nhất Hàn Quốc và là ngọn núi lửa không hoạt động. Núi vươn cao tới 1950m trên mực nước biển. Tổng cộng có 360 núi lửa vệ tinh quanh ngọn núi chính này.

Công viên quốc gia Komodo

Hé lộ 7 kỳ quan thế giới mới
Công viên quốc gia Komodo của Indonesia gồm 3 đảo lớn Komodo, Rinca và Padar cùng rất nhiều đảo nhỏ, trải rộng trên diện tích 1.817km2. Công viên quốc gia được thành lập vào năm 1980, nhằm bảo vệ loài rộng Komodo. Sau đó, công viên cũng có nhiệm vụ bảo vệ các loài khác, trong đó các động vật biển. Các đảo trong công viên đều có nguồn gốc núi lửa.

Sông ngầm Puerto Princesa

Hé lộ 7 kỳ quan thế giới mới
Công viên quốc gia Sông ngầm Puerto Princesa nằm cách thành phố Puerto Princesa, Palawan, Philippines, khoảng 50km. Công viên nổi tiếng với cảnh đẹp núi đá vôi và một dòng sông ngầm bên dưới dài 8,2km. Đặc điểm nổi bật của dòng sông là nó chảy qua một chiếc hang trước khi chảy trực tiếp vào Biển Đông. Công viên cũng có rất nhiều hang động rộng lớn, với nhũ đá đẹp mắt. Phần thấp hơn của dòng sông phụ thuộc vào ảnh hưởng của thuỷ triều. Đây là dòng sông ngầm dài nhất thế giới.
Núi Bàn

Hé lộ 7 kỳ quan thế giới mới

Núi Bàn là một biểu tượng của Nam Phi và là địa điểm tự nhiên duy nhất trên hành tinh có chòm sao được đặt tên theo nó, Mensa, có nghĩa là “bàn”. Ngọn núi với đỉnh bằng này đã đứng vững qua 6 triệu năm xói mòn. Đây cũng là vương quốc hoa phong phú nhất trên trái đất, với hơn 1.470 loài hoa. Núi Bàn còn tự hào là nhà của rất nhiều loài quý hiếm. Địa danh nổi bật nhất của Núi Bàn là Cape Town, cửa ngõ vào châu Phi, sở hữu những đỉnh núi bằng độc đáo, cao 1.086m trên mực nước biển.

Phan Anh

Theo New7Wonders

Read Full Post »

Ta ngồi lại soi xuống dòng suối rách
Vốc nước lên kỳ cọ mặt mày
Hồi ta ra đi hai bàn tay trắng
Giờ ta trở về trắng hai bàn tay
Giá như người xưa…gác gươm sườn đá
Tháo đôi giày cỏ thả trôi
Cởi áo vắt vai cười ha hả
Vời trông bốn hướng đất trời
Ta, một kẻ hèn – kẻ hèn đời mới
Hèn, không đáng mặt kẻ hèn
Đức bạc tài sơ, bảy chìm ba nổi
Sao còn vất vả đua chen ?
Dãy đồi bên kia là lau là cỏ
Có cây đa già tỏa mát trăm năm
Giá như người xưa … cùng bầy trẻ nhỏ
(Mặc áo Huyền Đoan đội mũ Chương Phủ)
Múa ca vui với trăng rằm
Ta còn gì chăng ? Trái tim nguội lạnh
Ta còn gì chăng ? Khối óc rỗng không
Tầm mắt yếu không đủ nhìn cuối dặm
Đâu bóng con trâu nhòa nhạt giữa đồng
Mặt sạm da mồi tóc râu ngã bạc
Ta trở về quê lỡ thợ lỡ thầy
Muốn theo Lão Tiều non Du hái củi
Sợ lưỡi rìu làm chảy máu thân cây

.

BÀI HÁT NGÀY VỀ CỦA TRẦN HUIỀN ÂN

CUỘC HÀNH TRÌNH THẦM LẶNG TRỞ VỀ CHƠN TÂM
            TÔI  có duyên được đọc thơ Trần Huiền Ân từ những sáng tác đầu tiên trên tạp chí Bách Khoa, tập thơ đầu tay THUYỀN GIẤY, cho đến những sáng tác đều đặn, những tập thơ vừa được xuất bản trong vài năm gần đây. Bên cạnh cái duyên thơ ấy, tôi cũng được có cái duyên quen biết, thân tình với anh (và cả gia đình) trong những năm tôi về dạy học tại Tuy Hòa, Phú Yên. Chính vì nhờ hai “trợ duyên” đặc biệt, thâm sâu ấy tôi rất hiểu anh và thơ anh… Bài thơ “Bài hát ngày về” đã thực sự làm cho tôi thấy được cái mới, cái chuyển hóa tâm thức trong anh đang nẩy mầm, đang có chiều hướng về tâm linh, về bản chất hồn nhiên – về cái sinh hoạt nhiệm màu mà theo tư tưởng Đạo Phật gọi là  “Phật Tánh”, và nhà Thiền gọi là  “Bản lai diện mục” của chính mỗi con người, mà  với cái tâm điên đảo, lăng xăng dính mắc… không thể hiểu và tìm thấy ra được.
          Nhà thơ đã bắt đầu có giây phút (hay chỉ vài “sát na” thôi) nhìn lại nội tâm, nhìn lại “cái đích thực là mình,  tuy rằng cái tâm (hay dòng sông dòng suối tâm linh) có vì bao đổi thay, bao gian truân của cõi đời vô thường bị gần khô cạn:
Ta  ngồi lại  soi  xuống dòng suối rách
Vốc nước lên kỳ cọ mặt mày.
          Đúng là anh đã có giây phút tuyệt vời mà không phải ai cũng có thể làm được. Có ai trong chúng ta có giây phút nhìn lại tận cội nguồn của chính tâm ta, để tự xét, tự hỏi một cách trung thực, nhi nhiên như thế chăng ? Kỳ cọ mặt mình cũng chính là kỳ cọ Tâm mình.
          Anh cũng đã nhận ra, sau khi cái Tâm đang dần trở lại trong sáng qua cái sát na “đốn ngộ” tự tâm: Rằng đời người là quá ngắn ngủi, trăm năm ở cõi ta bà cũng chỉ như “mộng, huyễn, bào, ảnh”, con người đến với cõi trần với hai tay trắng và lúc trở về với hư vô, cũng chỉ có từng ấy mà thôi ! Đó là  “Tánh KHÔNG”, cốt lõi của Phật giáo.
          Tôi cho giây phút chánh niệm ấy vô cùng quý báu bởi vì, tu sĩ quên cả đời học tập kinh sách, qua bao giới luật khổ hạnh, cũng chỉ mong “tự chứng” được như thế : Lòng từ bi chân chánh cũng bắt nguồn từ đó.
          Bắt nguồn từ cái “thức tỉnh” (hay nói theo Đạo Phật là giác ngộ ban đầu) nhà thơ đã ngược dòng thời gian (thời gian của tâm linh) để tự vấn lòng mình:
                             Giá như người xưa … gác gươm sườn đá
                             Tháo đôi giày cỏ thả trôi
                             Cởi áo vắt vai cười ha hả
                             Vời trông bốn hướng đất trời…
          Lại có chút lòng tự sám hối :giá như người xưa”. Nếu “người xưa” (một hình ảnh phân thân của tác giả ở quá khứ) sớm tỉnh giác, sớm hiểu ra cõi đời là “xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn”, là “vô thường và vô ngã”, tất cả pháp hữu vi đều giả tạm (Kinh Kim Cang Bát Nhã : “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Kinh Đại Thừa Kim Cang : “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc, như điệm”), thì đã sớm trở về với cội nguồn trong sáng, an tịnh của Tâm mình rồi. Đã “cởi áo vắt vai… vời trông bốn hướng…”.
          Nhưng thực tế thì không được như vậy. Hay nói theo triết lý nhà Phật thì nhà thơ đã bị “bức màn vô minh từ muôn ngàn kiếp” che phủ… Rồi phải tranh giành, bon chen, được mất, thành bại… Cuối cùng, khi chợt tỉnh “giấc mộng Nam Kha” ấy thì “Ta một kẻ hèn”. Ý chữ “kẻ hèn” ở đây phải được hiểu : Ta đã mù quáng vì vô minh, tham ái, sân si, nên không hiểu ra được cái Tâm thanh tịnh bản nhiên, hằng có, hằng sáng trong ta đã bao lâu, để không xứng đáng với “con người đích thực” như gã cùng tử con nhà giàu sang quyền quý đã “quên hạt châu vô giá trong thân” để đi lang thang sống đói khổ trong “Phẩm Thí Du” của “Kinh Pháp Hoa” vậy.
                             Ta, một kẻ hèn – kẻ hèn đời mới
                             Hèn, không đáng mặt kẻ hèn
                             Đức bạc tài sơ, bảy chìm ba nổi
                             Sao còn vất vả đua chen ?
          Tôi đã rất kinh ngạc và thích thú, khi được nghe lời tâm sự (cũng là lời tự thú, lời sám hối) quá đỗi khe khắt, nghiêm túc, tận cùng nỗi “tỉnh thức” của mình. Đúng như lời các vị Thiền sư đã từng nói : “Có giác mới có ngộ”. Không giác thì chẳng bao giờ ngộ được. Ấy là lẽ huyền nhiệm không thể lấy lời lẽ, ngôn từ mà bàn luận vậy ! Có thể gọi đó là “Trí tuệ vô lậu”.
          Sau giây phút “phản tỉnh” với tâm mình một cách rất trung thực, rất can đảm (vì không phải ai cũng dễ làm), nhà thơ đã lóe sáng niềm vui, niềm an lạc – có thể gọi là “Pháp hỉ” (nhờ hiểu theo Phật pháp mà có niềm vui, hạnh phúc).
                             Dãy đồi bên kia là lau là cỏ
                             Có cây đa già tỏa mát trăm năm.
          Kinh Phật có dạy : “Biển khổ mênh mông, quay đầu là bén”. Bên này là vô minh, bên kia là giác ngộ. Chỉ biết hướng về, quay lại – hay vượt qua “bên kia đồi” là sẽ có an vui, thanh tịnh, sẽ không còn quay lăn trong sinh tử luân hồi, không còn “hơn, thua, được, mất”, không còn có khổ đau, phiền não do tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến quấy nhiễu …
          Ở đây, qua đến giai đoạn tâm thức đã có chút lóe sáng, chút thanh tịnh hồn nhiên, mà nhà thơ vẫn hãy còn bị ray rứt, áy náy, hoang mang về “cái nghiệp” cũ của mình một cách hết sức đáng trân trọng :
                             Giá như người  xưa … cùng bầy trẻ nhỏ
                             (Mặc áo Huyền Đoan đội mũ Chương Phủ)
                             Múa ca vui với trăng rằm.
          Nếu như (lại nếu như) thuở xưa sớm tỉnh giác, sớm hiểu “tất cả các hành đều vô thường và khổ đau” (Kinh Pháp cú), mặc áo Thiền, đội mũ Lão Trang vui với thiên hiên, hoa lá, với “ánh trăng rằm” tròn đầy chưa từng thiếu mất của Phật Tánh, thì đâu có nỗi trầm luân, đâu còn sinh tử luân hồi nữa? Hình tượng “Trăng Rằm” trong từ ngữ Phật giáo Đức Phật thường chỉ cho “bản tâm, chơn như” của mỗi con người. Vui với cái “chơn như” hằng hữu trong sáng, tròn đầy ấy – thì có niềm vui nào lớn hơn đâu?
          Lại có sự soi xét, nhìn lại thấu đáo từ chính con người mình, chính sinh hoạt tâm linh đã từng dính mắc, nhiễm ô với danh lợi bấy lâu, để tuổi già gần kề, sự vô thường biến đổi đang tiến đến hủy diệt thân tâm, mới chợt biết :
                             Ta còn gì chăng ? Trái tim nguội lạnh
                             Ta còn gì chăng ? Khối óc rỗng không
                             Tầm mắt yếu không đủ nhìn cuối dặm
                             Đâu bóng con trâu nhòa nhạt giữa đồng?
          Cái “” và cái “không” ở đây phải hiểu là có phước đức, trí huệ, và không có phước đức, trí huệ, chứ chẳng phải là sự “có không” thường tình (được tính theo tiền bạc, tài sản, địa vị …). Đây là một cách “phản quan tự kỷ” nghiêm khắc thấu đạt tôn chỉ Thiền. Tự nhận mình là “đức mỏng tài hèn” hay “không có gì cả”, lời thơ tuy có hơi cường điệu (mà tính chất cuả thi ca là vậy) nhưng cho người đọc biết, nhà thơ đã có giây phút trực nhận của “trí huệ vô lậu”, đã theo cách nhìn của Đạo Phật, là nhà thơ đã “có” từ cái “không” rồi vậy!
          Hình ảnh “bóng con trâu” đã nói lên rõ nét sự quay lại, trở về, tìm kiếm chân tâm bị phủ lấp, lu mờ, nhưng buồn tiếc thay – nhà thơ đã phân vân chưa thấu rõ “đâu bóng con trâu nhòa nhạt giữa đồng”. Trong nhà Thiền, người tu Phật (hay chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo) đều phải biết mười bức tranh tu Thiền nổi tiếng “thập mục ngưu đồ”. Kẻ chăn trâu (là chính ta) đi tìm trâu, chăn giữ trâu, hàng phục trâu và đồng nhất với trâu (Tâm) là con đường đi đến giải thoát, an lạc, mà có lẽ tất cả chúng sanh đều ao ước. Tuổi đã về già, sức yếu, mắt mờ… nhà thơ đâu tìm thấy “bóng trâu” rõ ràng nữa để mà chăn giữ, hàng phục, hòa nhập với bản tâm thanh tịnh? Đây là một biểu tỏ thâm tình, chân thực nhìn nhận sự bất lực của chính mình, chứ không khoa trương, lộng ngôn, tự cho là mình đã chứng đạt.
          Đoạn cuối bài thơ làm sáng tỏ lên tâm từ, tâm bao dung, tâm hỉ xả – đây chính là cái còn lại quý báu của con người: “Sợ lưỡi rìu làm chảy máu thân cây”. Tuy nhà thơ không còn gì, có gì, nhưng quả thật anh đã có cái rất lớn, đó là tấm lòng yêu thương bao la đến muôn loài, ngay cả với cỏ cây :
                             Mặt sạm da mồi tóc râu đã bạc
                             Ta trở về quê lỡ thợ lỡ thầy
                             Muốn theo Lão Tiều non Du hái củi
                             Sợ lưỡi rìu làm chảy máu thân cây…
          Chúng ta đã hiểu nhà thơ muốn tâm sự điều này: “Đối với cỏ cây xưa nay được coi là vô tri vô giác, nhưng đã không nỡ “làm chảy máu” chúng – thì với cõi đời, với mọi người, làm sao anh không yêu thương, gắn bó, kiến tạo chúng cho tốt đẹp, để tất cả đều được hạnh phúc, an vui”. Quan yếu là ở cái Tâm từ bi chân chính ấy, chứ không phải ở những khoe trương, thủ đoạn, gian dối để mãi trôi nổi trong sinh tử khổ đau muôn ngàn kiếp.
          Tuy vẫn hiểu rằng từ thơ ca đến đời sống thực là một quãng đường dài, có nhiều đổi thay cách trở – nhưng qua cái phút giây tự vấn, tự soi lại tâm mình của nhà thơ cho ta một niềm tin yêu, rằng anh còn có những thời khắc can đảm, tỉnh giác như tếh trong cuộc đời để rèn luyện tâm mình theo dõi từng bước chân tìm về với chơn tâm, sống trong cuộc đời vô thường ngắn ngủi nhưng vẫn phải làm được đôi điều có ích cho số đông, cho quê nhà…
          Bài thơ thắm đượm sâu sắc tư tưởng Phật giáo, có chút âm hưởng của Lão Trang, là một sự hòa điệu rất vi tế, như cùng một dòng sông. Tóm lại, Bài ca ngày về của Trần Huiền Ân đã cho ta có được giây phút quý báu, để có thể tự nhìn lại đời mình, cõi tâm luôn luôn giao động của mình, để sống cho hữu ích một kiếp người vậy.
                                                         Huệ Thành –MANG VIÊN LONG                                                                                 Quê nhà

Read Full Post »

Nhớ nhà

TUTHUC (Cao Đình Thục )

Nhớ lúc tha hương nhớ cảnh nhà
Mây giăng đỉnh núi mịt mù xa
Bản làng giữ được hình trù phú
Dặm liễu còn chăng dáng thướt tha ?
Man mác nỗi niềm hồn lảng tử
Mênh mông hồi tưởng cánh Thiên Nga
Hành trang ký ức còn mang nặng
Bất chợt vui buồn chuyện đã qua.

Ngày Lập đông – 2011.nhớ nhà

Read Full Post »

Các quan chức ngành tư pháp người Thụy Điển đang chuẩn bị bán đấu giá các bức tranh được cho là do chính tay trùm phát xít Adolf Hitler vẽ.

 

Theo hãng tin Pravda (Nga), tiền thu được từ buổi đấu giá các bức tranh này sẽ được dùng để trang trải cho các khoản nợ của gia đình địa phương. Tên tuổi của “chủ nợ” này không được tiết lộ. Trong trường hợp chứng thực các bức tranh này do chính tay Hitler vẽ, họ có thể thu về 15.000 USD cho mỗi bức.

Trong khi đó, cộng đồng Do Thái tại thủ đô Stockholm đã bày tỏ sự phẫn nộ liên quan tới buổi đấu giá. “Thật là không hợp lý chút nào khi có ai đó có thể kiếm được tiền từ việc bán các vật phẩm như vậy” – David Lazar, người phát ngôn của cộng đồng này, lên tiếng.

Các quan chức cho rằng họ có thể không đặt vấn đề đạo đức trong việc cân nhắc giải quyết các tranh cãi liên quan tới các khoản nợ lớn.

Khi còn sống, Hitler đã không được Viện Hàn lâm nghệ thuật Vienna chấp thuận. Khi còn trẻ, trùm phát xít này từng kiếm tiền bằng cách vẽ tranh quảng cáo và bưu thiếp.

Hồi tháng Tư năm nay, 13 bức tranh vẽ tay khác của Hitler đã được bán đấu giá tại Anh. Những người bán đấu giá thu về trên 95.000 Bảng Anh. Theo trang Zeenews, bức tranh đắt tiền nhất được bán với giá 10.000 Bảng là một bức tự họa của Hitler.

Phong cách vẽ tranh của Hitler khá đa dạng, nhưng chủ yếu là với sơn dầu và màu nước nên rất khó để kiểm chứng tính xác thực về tác giả.

Sự trong sáng và bình yên trong các bức tranh của Hitler khiến cho người ta không thể hình dung ra tác giả lại là người gây nên cuộc chiến tranh Thế giới thứ 2 thảm khốc.

Ai cũng chỉ có thể tự hỏi là tại sao một người phải chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng triệu người lại có thể vẽ nên những bức tranh phong cảnh thanh nhã, màu sắc rực rỡ và những nhà thờ đẹp đến vậy.

Một số bức tranh khác của Hitler

Đức mẹ Mary và người con trai thần thánh Jesus Christ

   

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »