Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Mười Một, 2011

Trần Mai Hường
Mẹ ơi con đã trở về đây
Nơi chôn nhau,nơi nửa đời con gắn bó
Nơi tuổi ấu thơ với trò chơi tay không tay có
Bụi duối gốc bàng con trốn giấc ngủ trưa

Con trở về từ nơi mưa nắng hai mùa
Hòn ngọc Viễn Đông – người ta hay gọi
Giữa quê hương con thấy mình có lỗi
Uống nước xứ người giọng khang khác người thân

Mỗi bước con đi mỗi bước thăng trầm
Lăn lộn quê người mưu sinh cơm áo
Đã vấp phải bao cuồng phong dông bão
Bao mặn muối cay gừng đắng chát nhục vinh

Hôm nay con về lại nhà mình
Đi buổi chợ quê mẹ đã tảo tần hôm sớm
Phiên chợ nghèo với quả cà mớ muống
Con lặng người nhớ mẹ đếm từng xu…

Đêm nay trên quê hương đầy ắp tiếng ru
Con thao thức trở trăn không ngủ
Những kỷ niệm cứ ngỡ rằng xưa cũ
Lại ào ạt chảy về tươi mới trong con

Vạt cỏ bờ đê lối nhỏ đường mòn
Lùi nửa kiếp trở lại thời bé dại
Trong tim con bóng mẹ hiền dầu dãi
Đọng mát nỗi niềm mỗi bước con xa.

Read Full Post »

Ba và con gái

Trần Thanh Thiện

Như thường lệ, ông Năm ra khỏi giường từ 4 giờ sáng. Tắm sơ xong , ông bắt đầu tập yoga. Sau đó ông đun nước pha trà và khoảng 6g ,ông vào đánh thức vợ dậy. Hai vợ chồng ngồi nhâm nhi uống trà, vừa trò chuyện vu vơ. Cũng có lúc chẳng có chuyện gì để nói, họ lặng lẽ thưởng thức tách trà buổi sáng,Vừa uống, ông Năm vừa liếc nhìn vợ để đoán xem đêm rồi bà ngủ ngon không. Bà hay mỏi vai và đau lưng nên đêm nào trước khi ngủ ông cũng đấm bóp cho bà bằng dầu tràm để đêm bà ngủ say và không rên rỉ mỗi khi trở mình. Ông còn ít ngủ hơn bà, nhưng ông vẫn khỏe. Ông thường thức dậy từ 2, 3g sáng, cố nằm yên để không làm bà thức giấc.

Xong mấy tuần trà, bà đứng lên chuẩn bị bữa ăn sáng.  Nhìn dáng bà nhỏ loắt choắt liêu xiêu đi xuống bếp, ông thấy thương bà quá. Đã 40 năm là vợ chồng, ông bà hiểu nhau rất rỏ. Bởi vậy họ không trò chuyện với nhau nhiều, vì chỉ cần một cử chỉ, ánh mắt, điệu bộ, nhiều lắm là một câu nói, là họ đã hiểu người kia muốn gì. Lâu lắm rồi họ không nói với nhau những lời yêu thương mặn nồng, không còn những cử chỉ âu yếm, nhưng không phải vì thế mà họ bớt yêu thương nhau. Tất cả đã chắt lọc, cô đặc, kết tinh lại thành những cái nhìn thăm dò, những ánh mắt lo âu, nhắc nhở, những cử chỉ chăm sóc nhẹ nhàng kín đáo, ân cần và lặng lẽ, từ chuyện ăn chuyện ngủ chuyện mặc cho đến những sinh hoạt cá nhân hằng ngày. Tuy vậy nhờ ông có óc hài hước nên nhà cũng không thiếu tiếng cười. Ông bà còn có niềm vui chung là đọc sách, và sách là người bạn chung của hai ông bà.

Đã lớn tuổi nên dù chung chăn chung chiếu nhưng mạnh ai nấy ngủ. Có đêm đang yên giấc, bỗng bà trở mình choàng tay qua ôm ông rồi rúc đầu vào nách ông ngủ tiếp. Ông thức giấc, cảm nhận hơi ấm từ người bà, từ hơi thở đều và nhẹ của bà nhột nhạt bên sườn ông. Ông nằm yên tận hưởng niềm hạnh phúc ngọt ngào mà bà vô tình mang đến cho ông trong vô thức, rồi chẳng mấy chốc ông cũng ngủ tiếp.

Các con của ông bà đều đã có gia đình. Hai anh con trai lớn ở xa. Cô con gái út cũng đã có hai con, ở gần nhà mẹ nên vài ngày cô lại ghé thăm chừng xem hai ông bà có ổn không. Thỉnh thoảng đem đến mớ rau, vài con cá, nói năm điều ba chuyện rồi về. Chủ nhật nào hai đứa cháu ngoại cũng qua chơi, quậy phá tưng bừng ngoài sân ngoài vườn, hái ổi và khế ngọt ăn chán chê. Thỉnh thoảng hai vợ chồng có việc đi đâu lại mang con đến gởi ông bà. Gia đình nhỏ này là niềm vui lớn của ông bà lúc về già. Ao sen trước nhà chừng hai chục mét vuông là niềm mơ ước của lũ trẻ nhưng chúng không bao giờ được phép đến gần.

Mồng một Tết năm nay các con và các cháu nội ngoại tụ họp nhà ông đông đủ làm ông bà rất vui. Vài ly bia làm ông vui hẳn lên và nói nhiều hơn. Bà vẫn ít nói nhưng cười nhiều hơn mọi ngày. Đến tối, căn nhà lại yên tĩnh. Bà vất vả cả ngày nên tối đi nằm sớm, để ông một mình với bình trà nóng. Cảnh gia đình sum họp làm ông nhớ lại thời tuổi trẻ lúc các con ông còn nhỏ. Kỹ niệm xưa mà ông vẫn cố quên đi, tưởng đã vùi sâu qua năm tháng, nay bỗng ùa về..

Thuở ấy ông tốt nghiệp sư phạm cấp tốc, dạy ở trường tiểu học Hòa Duân, một làng quê ven biển Thuận An. Năm năm sau ông yêu một cô giáo người địa phương mới tốt nghiệp và vừa được nhận về trường. Sau khi vợ sinh con đầu lòng, ông bắt đầu học hàm thụ để lấy bằng tú tài II. Và sau một kỳ thi đặc cách của trường trung cấp sư phạm, ông được chuyển về trường trung học thành Nội, Huế. Lúc đó con trai của ông mới ba tuổi, vẫn phải sống với mẹ ở làng quê vì vợ ông chưa thuyên chuyển theo chồng được. Rồi ông bị động viên. Sau khóa học thì ông về đóng quân tận Quảng Ngãi. Lúc đó vợ chồng ông đã có hai con trai. Đã bao lần ông định đưa vợ con vào Quảng Ngãi để vợ chồng con cái sum họp nhưng vợ ông không thể bỏ dạy. Bà cũng đang xin thuyên chuyển theo chồng nhưng chắc còn phải chờ đợi lâu. Vợ chồng ông đành tạm thời sống xa nhau. Biết vợ buồn nên tuần nào ông cũng gởi về những lá thư thật dài, kể về cuộc sống của ông ở nơi xa, không quên kèm theo những lời yêu thương thắm thiết và nỗi nhớ nhà khôn nguôi làm ông mất ăn mất ngủ. Mỗi lần nhận được thư của vợ, ông mừng hơn bắt được vàng. Ngoài những tin tức nóng hổi về  hai đứa con thân yêu mà ông nhớ quay quắt, nàng viết “…em nhớ anh đến phát điên anh ơi! Một mình trên chiếc giường rộng, em nhớ quá chừng vòng tay anh …”.Ông thường mất ngủ sau khi đọc những dòng thư như thế.

Tháng 8 năm đó ông xin nghỉ phép về Huế giỗ Ba ông, tiện thể thăm vợ con. Mới đi xa có 8 tháng mà ông tưởng chừng đã mấy năm. Ông về Hòa Duân thăm vợ con trước rồi sau đó đưa cả nhà lên nhà Mẹ ông ở Huế. Trong lúc vợ ông ở nhà trong lo chuyện bếp núc thì ông lo cắm hoa, xếp dọn bàn thờ, chuẩn bị bàn ghế để đón khách mời.

Tối hôm đó về nhà vợ ông bị nôn và đau bụng. Ông nghĩ bà trúng gió nên cạo gió và xoa dầu như mọi khi. Sáng hôm sau bà vẫn nôn, da tái xanh và rất mệt nên ông vội đưa bà đi khám bịnh. Kết luận của bác sĩ làm ông choáng váng: Bà đã có thai 5-6 tuần. Ông đứng lặng nhìn bà ngỡ ngàng, không tin vào mắt mình. Nhưng giấy trắng mực đen sờ sờ ra đó! Bà chỉ cúi mặt khóc nức nở.

Ông không về nhà cùng với vợ mà một mình đi ra biển. Ông ngồi trên bãi cát, đăm đăm nhìn ra khơi xa. Tít ngoài  kia, nơi bầu trời và mặt biển gặp nhau, ông nhìn thấy vợ ông đang tươi cười khoác tay ông, tay kia cầm bó hoa cưới. Rồi ông thấy nàng trong đêm tân hôn, rạng rỡ, đẹp tuyệt trần trong tấm áo ngủ ngát hương thơm da thịt con gái trinh nguyên, háo hức đợi chờ nhưng đòi ông phải tắt hết đèn ngủ. Đã bao đêm như thế trôi qua ông không nhớ nổi. Rồi ông thấy nàng ngời ngời hạnh phúc bên ông mỗi khi ông về thăm. Nàng dịu dàng, đằm thắm và tận tụy xiết bao những lúc cùng ông chia xẻ những buồn vui sướng khổ trong cuộc sống. Nàng và hai đứa con là lẽ sống của cuộc đời ông bao lâu nay rồi. Ông đã quá quen với ý nghĩ nàng là của riêng ông, không phải trong ý nghĩa chiếm hữu, nhưng ông quen nghĩ rằng nàng là một phần của thân thể ông, của cuộc đời ông, không thể thiếu và không thể tách rời. Bao nhiêu năm tình nghĩa mặn nồng, ông mặc nhiên xem đó là một điều tất yếu. Rồi ông thấy nàng trong vòng tay một người đàn ông khác! Cũng là nàng, cuồng nhiệt, đắm say như khi nàng trong vòng tay ông. Ông nhắm mắt, lắc đầu như muốn xua đi hình ảnh phũ phàng rồi hét lên thật to, thật dài. Như tiếng gầm đau đớn của con hổ bị thương. Như tiếng hú tuyệt vọng của con sói bị trúng đạn. Biển trưa vắng ngắt. Tiếng hét của ông lồng lộng trong gió át cả tiếng sóng biển ầm ào, vang vọng thật xa rồi tan dần trong hư vô. Nhắm mắt lại ông vẫn thấy nàng. Mở mắt ra ông vẫn thấy nàng. Ông ước sao mình có thể ngủ một giấc thật dài để tạm quên đi sự thật đau lòng này. Ông thấy mình thật nhỏ nhoi và tuyệt vọng trước nỗi khổ lớn lao quá sức chịu đựng này. Và ông nằm thiếp đi trên bãi biển dưới nắng và gió.

Một cảm giác lạnh buốt chạy dọc xương sống và hai vai làm ông thức giấc. Vừa bừng tỉnh, ông nhớ ra ngay mọi chuyện và tim ông nhói đau.Trời đã về chiều. Có nhiều người trên bãi biển, tắm hoặc hóng gió. Bụng cồn cào làm ông nhớ ra hôm nay chưa ăn gì. Ông lửng thửng bước đi. Bỗng một ý tưởng lóe sáng trong đầu ông như tia chớp: ông mơ hồ thấy mình cũng có lỗi trong chuyện này. Tại sao ông không tìm mọi cách, bất chấp mọi trở  ngại đưa vợ con vào Quảng Ngãi để vợ chồng sớm tối có nhau và các con ông được sống gần ba. Một cách vô thức, ông vui mừng nhận ra rằng mọi chuyện không phải hoàn toàn do lỗi của vợ ông, rằng việc này còn có thể cứu vãn được, miễn là… Ông thấy lòng nhẹ nhàng hơn. Một chút lạc quan làm ông bước đi nhanh hơn trên đường về nhà. Ăn vội chén cơm do vợ ông lặng lẽ dọn ra, ông đi ra phòng khách, nằm trên divan và ngủ ngay. Chiều hôm sau ông trở về đơn vị. Trước khi đi ông nói mà không nhìn vợ:

_ Đừng có phá bỏ cái thai đi nghe không! Tôi là phật tử đấy! Để tôi còn suy nghĩ đã…

Ông lặng lẽ sắp đặt mọi việc và tháng sau ông xin phép đặc biệt về Hòa Duân đưa cả nhà đi theo ông vào Quảng Ngãi. Nhờ sự giúp đỡ của chỉ huy đơn vị, các con ông sẽ vào ngay trường mẫu giáo. Vợ ông thì đầu niên khóa sau sẽ đi dạy ở trường tiểu học gần chỗ đóng quân. Ông không thư từ cho bà trong thời gian đó, nhưng nhận thư bà 2 cái mỗi tuần. Thì ra anh ta là người Hòa Duân, và là mối tình đầu của bà khi hai người cùng học phổ thông ở trường huyện. Sau đó gia đình anh ta chuyển đi xa và họ mất liên lạc. Bây giờ anh ta về thăm nàng, nhân tiện thăm lại quê cũ. Và chuyện đó đã xảy ra trong một lúc nàng không kiềm chế được mình. Nàng cầu xin ông tha thứ, vì thật ra đã từ rất lâu bà đã quên anh ta và kỹ niệm xưa đã ngủ yên trong ký ức. Và bà khẳng định : “…em chỉ yêu mình anh thôi “

Đã hơn 30 năm trôi qua. Vợ chồng ông đã cùng nhau nuôi dưỡng Lan, từ một đứa bé quặt quẹo nay ốm mai đau, trở thành một thiếu nữ xinh đẹp giống mẹ như tạc. Lan tốt nghiệp Đại học Sư phạm Anh văn, dạy tại trường chuyên Lê Khiết, lấy chồng dạy cùng trường và đã có 2 con. Mấy đứa cháu ngoại được ông bà hết mực yêu thương.

Thời gian như nước chảy qua cầu, và bên dưới dòng nước ấy, Ân, Nghĩa, Tình với những kỹ niệm buồn vui đã lắng đọng lại thành một lớp bùn đặc quánh, mầu mở. Trên lớp bùn đó đã nở ra những đóa sen tỏa hương tinh khiết. Và ngày qua ngày, những cánh hoa vẫn thanh thản bung ra, thanh thản tàn như những năm tháng cuối đời của họ.

Sáng hôm đó, nhắp xong ngụm trà, ông ôn tồn bảo vợ:

_ Bọn mình cũng gần đất xa trời rồi, không biết ra đi lúc nào. Theo tôi thì bà nên cho con gái biết cha đẻ của nó là ai để nó còn kịp báo hiếu trước khi quá muộn.

Vợ ông nói ngay không cần suy nghĩ :

_Thì là ông chứ còn ai vô đây! Ông đã xem nó như con bao năm nay thì nó là con ông chứ con ai nữa.

Ông âu yếm nhìn vợ, cố dấu nụ cười mãn nguyện sau chiếc tách trà còn nóng hổi .

Không biết nên nói gì, ông khẽ tằn hắn rồi đánh trống lảng:

_Sáng nay sen nở nhiều lắm, Bà ra mà xem. Thơm ngát cả sân.

.                            Trần Thanh Thiện

Read Full Post »

Cõi Không

 Văn Công Mỹ

 

Thơ Buồn

Viết vài câu thơ ngắn

Ngỡ tìm chút an nhiên

Đọc lên sao môi đắng

Trong thơ có ưu phiền.

 

Tha  Hương

Đá núi thấm hơi sương

Giữa non ngàn rớt lệ

Mây xám trời tha hương

Cõi người mênh mông quá.

 

Cõi Không

Nm nga mt bên sông


Ngó trờ
i xanh mây trng


Thấ
y gì cõi không


Tiế
ng đi rơi tch lng.

 

 

Cỏ Cú

Nguyện làm thân cỏ cú

Ngóng em về cuối sân

Bởi trong ngày tháng cũ

Đã oằn một bước chân.

 

 

 

 

Read Full Post »

Khoảng trời bình yên

Truyện Ngắn

TRẦN MINH NGUYỆT

 

Có những chuyện không thể nhưng thành ra có thể, có những chuyện khó tin nhất lại trở thành sự thật hiển nhiên hiện hữu như mặt trăng ngày rằm tròn đầy và sáng vằng vặc giữa trời không gợn chút mây vậy. Câu chuyện của tôi sắp kể ra đây bắt đầu vào một ngày hè trời chuyển mưa giông cách đây ba năm ….

Mưa giông ngày hè vốn rất đỏng đảnh, đang nắng gắt bỗng dưng trời sầm lại và đổ mưa xối xả, mưa đột ngột và chấm dứt cũng rất đột ngột. Những hành khách đang lưu thông trên đường thường là tấp vào hai bên tìm chỗ trú mưa dưới mái hiên hay vĩa hè của một ai đó nếu không muốn mình bị ướt nhẹp. Hôm đó tôi đi thư viện về với nhiều sách báo mượn đem vế nhà để đọc trong những thời gian nhàn rỗi, vì vậy tôi vội vã tránh mưa dưới mái hiên của một ngôi nhà bên đường, để khỏi ướt mấy quyển sách đang bỏ nằm trống trải trong giỏ xe. Người thanh niên nhanh chân vào trú mưa trước tôi cứ nhìn tôi chằm chằm khiến tôi cảm thấy rất khó chịu. Tôi lén nhìn lại anh ta – anh hơi thấp, nhỏ và nét mặt không điển trai một chút nào. Nước da  ngăm ngăm đen, gương mặt khắc khổ, mái tóc bù xù và ướt nhẹp vì nước mưa. Nói thật là tôi không có chút thiện cảm nào với người cùng trú mưa ấy, mà còn cảm thấy khó chịu vì sự hiện diện của anh ta lúc nầy. Tôi nép mình vào sát tường, và chăm chú nhìn lại những cuốn sách mà cả buổi chiều tôi vất vả lắm mới moi tìm ra để mượn được. Ba quyển Tam Quốc, và cuối cùng là Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Tôi đang mê mải xem chương “ Nước Việt Nam  thời Thượng cổ đại” thì người thanh niên đang đứng bên cạnh tôi nói bâng quơ bắt chuyện. Tôi hơi khó chịu, nhưng cũng thờ ơ – ngập ngừng trả lời…

–         Mưa mùa hè như thế này đáng lẽ mau dứt lắm chứ, sao lại dai dẳng, lai rai hoài, đúng là chán thật!

–         Mưa vì mấy đám đám mây đen kia thôi mà, một lát nữa sẽ hết thôi.

–         Mà cô là nhà sử học à? Sao mượn toàn là sách lịch sử thế?

–         Tôi không học sử, nhưng tôi thích đọc sách về lịch sử thôi.

Dường như biết tôi hơi bực mình vì câu hỏi của mình, nên yên lặng – một lúc, anh ta giả lả: “ Cô có tin không? Tôi cũng rất mê đọc lịch sử đó. Mà nói chung tôi thích đọc sách, loại sách nào cũng thích đọc hết. Việt Nam sử kí tôi đã đọc hai lần rồi, còn Tam Quốc không biết tôi đã đọc bao nhiêu lần nữa…”. Tôi nhìn anh ta thoáng chút nghi ngờ nhưng cũng ngập ngừng đáp lời: “ Tôi cũng xem rồi, nhưng vẫn muốn xem lại. Trong Tam Quốc, anh thích nhất là nhân vật nào? ”. Như bắt đúng sở thích, vẻ mặt của anh ta rạng rỡ hẳn lên, anh hào hứng : “ Ở trong Tam Quốc nhân vật nào cũng đặc biệt cả, mỗi người mỗi tính cách rất hay. Khổng Minh thì thông minh tài trí, Quan công thì hào hiệp, trợng nghĩa, vũ dũng kiêu hùng. Tào Tháo đa nghi, quyết đoán. Mỗi vị tướng chúng ta có thể học được từ họ một đức tính tốt đó cô à …”. Người thanh niên xa lạ kia và tôi trở nên gần gũi hơn từ mấy ông vua quan thời Tam quốc xa lơ xa lắc ấy. Câu chuyện giữa chúng tôi về các nhân vật Tam Quốc cứ kéo dài ra, tưởng như không bao giờ dứt:

–         Cô còn nhớ trận Khổng Minh gảy đàn đuổi Tư Mã Ý không?

–         Nhớ chứ sao không? – Tôi mơ màng nhớ lại, chưa kịp nói – thì anh đã nhiệt tình kể: “ Tư Mã Ý kéo 15 vạn quân đến Tây Thành. Các tướng nghe tin đều khiếp vía. Vì lúc này bên cạnh Khổng Minh chỉ có 2500 quân già yếu và Quan văn mà thôi, đánh cũng chết mà chạy thì chắc chắn sẽ bị bắt. Vậy mà ông ta đủ bình tĩnh truyền cho các tướng rằng nội bao nhiêu tinh kì phải ngả cả xuống. quân sĩ đâu cứ giữ đấy, không được nhốn nháo. Bốn cửa thành cứ việc mở toang.
Tư Mã Ý tiến quân đến thành, thấy Khổng Minh ngồi gảy đàn, miệng cười tươi như hoa, tả có một đồng tử cầm bảo kiếm hữu có một đồng tử cầm phất trần đứng hầu hai bên           .
Ý xem xong lấy làm nghi lắm, liền rút binh về…”

Anh thoáng nhìn lên mặt tôi bằng đôi mắt biết nói :

–         Đúng là tài thật phải không cô? Đánh trận không những dựa vào quân đông thế mạnh mà còn dựa vào kế sách của người làm tướng cầm binh. Phải nói là Khổng Minh trên thông thiên văn, dười tường dịa lý, trận bát quái biến đổi khôn lường của ông bao lần bắt được tướng của Tư Mã Ý.

–         Tôi cũng nghĩ như anh vậy! Tôi mỉm cười – anh đang làm nghề gì mà có thời gian để mê đọc sách dữ vậy?

–         Tôi cũng như cô thôi – anh lại nhìn thật chậm lên mặt tôi – làm một nghề mà chẳng liên quan một chút nào đến sách vở cả.

Anh còn nói nhiều chuyện nữa –  nói về Lạn Tương Như dâng ngọc, tình bằng hữu Bá Nha – Tử Kì, Phụ chính Lý Thường Kiệt, và Trần Hưng Đạo ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông… Tôi lắng nghe. thỉnh thoảng chỉ chen vào một vài câu đồng cảm. Trời đã ngừng mưa từ lúc nào rồi mà hai chúng tôi vẫn còn mãi mê nói chuyện như thể là bạn thân lâu ngày mới gặp lại.

Ông bà chủ nhà về đến, chúng tôi giật mình – nhìn ra ngoài trời và cùng cười bẽn lẽn. Vậy là ai đi đường nấy, vội vàng. Tôi không biết anh là ai, ở đâu, tên là gì nữa, nhưng với tôi đó là một khoảnh khắc tuyệt vời như tình cờ bắt gặp một bông hoa dại xinh xắn bên đường.

Mọi gặp gỡ của con người trên đời có lẽ là bởi do nhân duyên nhiệm mầu sắp đặt ? Tôi chỉ biết sau những phút giây tuyệt vời đó một tuần khi tình cờ nghe chương trình quà tặng âm nhạc trên sóng FM có một lời đề nghị tặng nhạc nực cười như sau: “ Tôi tên là Khoa! Tôi muốn gởi tặng một cô gái trú mưa cùng tôi dưới mái hiên ngày nào bài hát: “ Giòng máu Lạc Hồng”. Với lời nhắn là trong cuộc sống hi vọng chúng ta có cơ hội gặp lại nhau”. Tôi nghe bài hát mà thấy lòng bâng khuâng một cảm giác khó tả thành lời.

Gặp gỡ giữa tôi và anh giống như chuyện liêu trai vậy, cứ mỗi lúc rảnh rổi là tôi ghé lên nơi mà chúng tôi cùng trú mưa hôm nào xem anh có quay lại tìm tôi không? Nhưng không một lần nào tôi gặp lại anh nữa cả. Anh đã như chiếc lá giữa dòng, hòa mình vào biển người mênh mông, biết đâu mà tìm? Cánh chim đã vời bay xa…

Lúc trong tôi dường như niềm hi vọng đã lụi tắt thì lại gặp anh – cũng với một tình huống thật bất ngờ. Hôm đó đường kẹt xe, đông nghẹt người, vì đoạn đường phía trước đang thi công. Trong dòng người bị nghẽn lại – tôi thấy anh. Anh đang mặc một bộ đồ màu xám, đội mũ nhựa trắng, đang điều khiển chiếc xe lu cán phẳng mặt đường. Tôi muốn gọi to, muốn vẫy tay gọi anh nhưng không hiểu sao tôi không dám làm điều đó, đành cứ ngồi trên xe mà nhìn anh. Trong khi dòng người, dòng xe cứ vẫn chen chúc nhích dần về phía trước để mau thoát khỏi tình trạng khó chịu này thì tôi đứng khựng lại. Và dường như có một mãnh lực giao cảm siêu hình nào – trong một giây ánh mắt anh bắt gặp ánh mắt nhìn theo của tôi. Anh mỉm cười đưa tay vẫy và gọi to : “ Cô gì ơi? Đợi tôi một lúc, tôi có nhiều chuyện muốn nói với cô …”. Dòng người qua lại nhìn tôi lạ lẫm, ngạc nhiên. Anh quay sang người bên cạnh nói nhỏ gì đó, chiếc xe lu dừng lại, anh nhảy xuống tiến dần lại phía tôi. Vậy là lần thứ hai anh và tôi gặp nhau ở một quán nước bên đường. Anh và tôi cùng nhìn nhau cười. Sau vài câu xã giao thông thường, cuộc trò chuyện giữa chúng tôi trở nên vui vẻ và thân tình hơn rất nhiều. Anh và tôi chuyển cách xưng hô từ lúc nào không biết.

–         Anh đúng là vô tâm thật, lúc đó nói chuyện với em lâu vậy, mà không biết em tên gì, nhà ở đâu? Sau đó anh muốn tìm gặp em nhưng biết đâu mà tìm đây?

–         Em cũng có hơn gì anh đâu? Nhất là sau khi em nghe bài hát anh tặng em trên kênh FM, em mới biết anh tên Khoa, em cũng có ý tìm anh để cảm ơn. Nhưng biết đâu mà tìm…

–         Anh là Trần Ngọc Khoa! Tài xế lái xe lu, anh quê ở Đà Nẵng nhưng vì công việc nên luôn rày đây mai đó em à. Em giờ có thể “ kê khai lí lịch “ của em một chút cho anh biết được không?

–         Em là Huỳnh Ngọc Bảo Trang, là kế toán của công ty gỗ An Lợi.

–         Tên em đẹp quá. Cô kế toán viên xinh đẹp hàng ngày tiếp xúc với những con số, sao mà có sở thích giống anh đến vậy chứ?

–         Sở thích gì hả anh?

–         Là cả hai chúng ta đều thích xem sách cũ, tuồng xưa, và đọc những thứ ít ai đọc thời nay. Chỉ có những ai “ hâm” như anh em mình mới làm chuyện đó thôi em à…

Cả hai anh, em cùng cười rạng rỡ.

Sau đó tôi và Khoa có dịp gặp nhau nhiều hơn. Với tôi Khoa là một kho tàng kiến thức bí ẩn mà tôi không thể nào khám phá hết được. Anh điềm tĩnh và chín chắn, tôi có cảm giác anh lái xe lu lâu năm nên có tính cách đằm đằm như vậy. Đặc biệt anh rất mực quan tâm đến tôi. Bên anh, tôi cảm thấy mình được che chở, được vỗ về, và trái tim tôi trỗi dậy vũ điệu thiên thần khao khát yêu thương. Khoa cũng đáp lại tình tôi nồng ấm, như cơn gió mát dịu buổi sáng đầu xuân trong lành quyến rũ.

Chuyện tình của hai chúng tôi gần như đến hồi nở hoa, kết trái – thì xảy ra một chuyện – cũng thật bất ngờ ( chữ “ ngờ “ không ai hiểu nổi ?), khiến nó tan vỡ như những bóng bóng mưa lạnh lẽo âm thầm ngày nào…

Một hôm lúc tôi đang làm việc ở phòng kế toán, một cô gái khá xinh, ăn mặc model đến tìm tôi, và mời tôi ra quán cà phê bên cạnh công ty. Cô ấy không vòng vo mà nói thẳng với tôi rằng : “ Anh Khoa mà cô đang theo đuổi là chồng sắp cưới của tôi, chúng tôi đã in xong thiệp cưới rồi. Còn chỉ nửa tháng nữa là lễ cưới tiến hành. Tôi xin cô hãy tha cho anh ấy!”.  Nghe xong, tôi không thể tin vào tai mình nữa.  Như có một cái gì đang lảo đảo, quay cuồng trong đầu tôi. Tôi cảm thấy hụt hẩng, choáng váng. Đầu óc lơ lửng, trống rỗng. Tôi cũng muốn nói một lời gì đó để phân trần nhưng cuối cùng chỉ là sự im lặng đáp lại. Giọng cô gái vẫn trầm trầm như rót từng lời bên tai: “ Cô không tin sao? Đây là thiệp cưới, sẵn tôi gặp cô ở đây, xin mời cô đến dự tiệc luôn  cho vui vậy? ”. Tôi cầm tấm thiệp cưới đầy mầu sắc có tên anh và tên của cô ta trên tay, vụt dứng dậy. Không một lời từ biệt – tôi đi như chạy ra khỏi quán. Hôm đó cũng vào một ngày trời mưa, tôi băng qua đường dưới cơn mưa lớn – nước mắt của tôi hòa lẫn với nước mưa đẫm ướt khuôn mặt. Không ai có thể biết là nước mắt tôi hay mưa đã làm cho khuôn mặt trở nên lạnh léo, tái xanh đến vậy. Tôi chợt cảm thấy mình như một con ngốc, con thiêu thân – đã lao theo một cuộc tình mà không dành cho mình, không có sự sống của ngày mai – dù rất ngắn ngủi!

Tôi đã trốn Khoa – tôi không muốn gặp lại anh, con người đã đem tình yêu của tôi ra làm trò đùa từ nhiều tháng qua mà tôi không hề hay biết! Tôi đổi số điện thoại và hàng ngày nhờ đứa em họ làm cùng công ty chở tôi đi. Nó đóng vai người yêu của tôi, vì chỉ làm vậy tôi mới thấy đỡ xấu hổ, đỡ tủi khi chạm mặt anh. Hôm nào cũng vậy, Khoa thường ghé chờ tôi trước cổng công ty, ngày nắng cũng như ngày mưa. Anh chỉ đứng đó và nhìn tôi đang bá vào vai thằng em họ chuyện trò đi khuất rồi mới về. Tôi thấy cứ như vậy, rồi đến một ngày nào đó tôi sẽ xiêu lòng và phạm tội cùng anh mất. Tôi quyết định xin nghỉ việc ở công ty để đi học Thạc Sĩ kinh tế. Thế là tôi vào Sài Gòn và bặt tin nhau từ đó.

Tôi lấy bằng Thạc sĩ kinh tế xong, nhiều công việc lương cao phù hợp với tôi, nhưng tôi không muốn ở lại thành phố ồn ào, náo nhiệt này một chút nào – bởi dường như nỗi buồn đau không thể thích nghi với cành náo nhiệt? Tôi lại khăn gói về quê nhà xin việc. Tôi nhanh chóng xin được việc làm ở công ty du lịch Viễn Đông. Tôi hi vọng cuộc sống của tôi sẽ trôi qua. Mọi nỗi phiền muộn sẽ lắng dịu – êm đềm; vậy mà sáng nay bỗng dưng tôi lại nhận được tin nhắn của Khoa:  Anh bảo anh sẽ chờ tôi ở quán cà phê Vô Thường lúc 5h30 ( vì anh thừa biết công ty của tôi nghỉ việc lúc 5h). nếu tôi không đến, anh sẽ ngồi ở đó đợi suốt đêm.

Trời đang chuyển mùa vào đông. Mới 5 giờ thôi mà không còn thấy mặt trời, tối sầm lại, cộng với mưa rả rich ảm đạm suốt ngày, những ai trên đường đều vội vã về nhà để tìm chút hơi ấm của gia đình. Tôi cũng muốn làm như họ nhưng cứ nghĩ rủi đâu Khoa chờ mình cả đêm thì thật là tội cho anh ấy quá. Tôi băn khoăn : mà anh ta gặp tôi vì việc gì nữa chứ, chắc là anh ta đã có gia đình và có những đứa con xinh xắn rồi cũng nên? Tôi quyết dịnh : Thôi thì cũng gặp lại Khoa một lần, xem anh ta nói gì, với lại không đến được với nhau, thì cũng xem như là bạn bè – không có gì phải lo ? Bạn bè gặp nhau uống ly cà phê có gì quá đáng đâu?. Tôi tự trấn an mình, và lái xe chạy về hướng quán Vô Thường mà đã có đôi lần tôi đã ngồi cùng Khoa suốt buổi sáng chủ nhật…

Quán vắng khách. Khoa ngồi co ro trong một chòi nhỏ tách biệt với mấy gian nhà sàn gỗ của quán. Tôi cảm thấy hơi khó chịu vì thường những chòi nhỏ tách biệt này chỉ dành riêng cho những cặp tình nhân mà thôi. Còn tôi với Khoa giờ chỉ là những người bạn mà thôi. Ngồi ở đó không khéo ai thấy rồi hiểu lầm thì phiền phức. Tôi nghĩ vậy nên đưa tay chào Khoa và chọn một bàn  trên căn nhà sàn ở giữa quán. Khoa đi lại bàn tôi – mỉm cười  : “ Em vẫn cố chấp như ngày nào? Anh đi tìm em mãi đến nay mới tìm được ! Em trốn anh đến khi nào vậy? May mà thằng em họ của em xót thương anh đã nói cho anh biết là lí do tại sao em rời bỏ anh ”. Tôi không nghe anh giải thích mà hỏi : “ Anh với cô ấy sống hạnh phúc chứ? ”. Anh cười – thoáng nhìn tôi: “ Em nói đúng một nửa thôi? Chỉ có cô ấy hạnh phúc thôi, còn anh hôm nay mới tìm thấy em thì làm sao mà hạnh phúc được đây? ”. Tôi mím chặt môi: “ Anh đùa dai quá rồi đó, tôi không thích vậy đâu? Tôi không ngốc như xưa nữa…”. Khoa cười buồn – giọng khẻ khàng: “ Hung dữ quá cô bé, nghe anh giải thích với chứ, lúc trước cũng vì em không cho anh cơ hội nào để giải thích mà chúng ta đã lạc mất nhau, Trong khi em nghĩ anh vẫn sống vui vẻ, em có biết anh buồn lắm không?  Anh không biết vì sao em lại phản bội anh? Sau đó em đi học thạc sĩ, anh lại nghĩ vì em chê anh nghèo, và không có tương lai nên anh đành phải rời xa em để em tiếp tục đi trên con đường mà em đã chọn.”. Tôi tròn mắt ngạc nhiên – nghĩ thầm: “ Sao anh lại nghĩ oan quá nhiều về tôi như vậy chứ? Tôi có nghĩ vậy đâu? Anh lừa dối tôi mà !”. Anh nhìn tôi với đôi mắt khẩn khoản – dường như muốn nói tôi hãy nghe hết những gì mà anh muốn nói, đừng ngắt lời anh. Anh vẫn miên man : “ Mãi gần đây trước khi cô ấy đi lấy chồng mới nói với anh những chuyện cô ấy đã làm với em. Cô ấy là bạn anh, cô ấy rất thích anh, nhưng giữa bọn anh chỉ là tình bạn bè mà thôi.  Cô ấy tự làm thiệp cưới giả em à. Nhưng anh nghĩ đó không phải là lỗi của cô ta, mà là lỗi của em, Em đã không tin anh, tin vào tình yêu của anh dành cho em. Nếu đã yêu nhau thì phải tin tưởng vào nhau chứ, sao chỉ vì một tấm thiệp cưới ngụy tạo mà em vội rời xa anh vậy? ”.  Nghe anh nói mà lòng tôi nhói đau – đúng là lỗi của tôi, mà tôi lại giận, hờn oán trách anh bao năm qua. Tôi không biết nói gì, chỉ biết cúi đầu mà khóc. Khoa đến bên tôi, lấy khăn trong túi ra lau dòng nước mắt và ghé vào tai tôi thì thầm : “ Chúng mình đừng bao giờ để lạc mất nhau nữa em nhé ?. Anh sẽ không để em phải khóc lần nào nữa…”.

Ngoài trời vẫn mưa to, vẫn gió giật – gió mùa đông bắc thổi về rét buốt – nhưng tôi chợt cảm thấy trong sâu thẳm của lòng mình một nỗi ấm áp kỳ diệu, lạ thường đang bừng lên một khung trời bình yên vẫy gọi…

Read Full Post »

Nguyễn Hữu Duyên
Tôi chưa bao giờ học thầy trong những tiết học chính khóa, bởi thầy dạy  lý hóa cấp hai còn tôi lại học lớp mười hai, nhưng thầy là người thầy tôi nhớ và kính trọng nhất. Tên đầy đủ của thầy là Hoàng Văn Xê, người Huế, năm một ngàn chín trăm bảy ba về dạy trường Trung học Đào Duy Từ (nay là trường PTTH An Nhơn 1) thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. May mắn đã đưa tôi đến với thầy. Đó là một buổi chiều vào đầu tháng mười một năm đó, sau khi tan học, tôi cầm còi điều khiển sinh hoạt vòng tròn và tập hát cho một lớp bảy, giúp các em chuẩn bị đợt cắm trại của trường vào cuối năm. Thầy đến bên tôi sau khi buổi sinh hoạt kết thúc.
– Em học lớp mấy?
– Dạ, em học lớp mười hai A2.
– Sao em không tập trung nhiều hơn vào việc học, em không sợ rớt   tú tài sao?
Tôi cúi đầu im lặng.
          -Em có gì khó nói?
          -Thưa thầy, em ham chơi nên bị hổng kiến thức cơ bản, đã tháng mười một rồi, có tập trung  cũng không kịp, thầy ạ!
Thầy nắm tay tôi, hai thầy trò bước chầm chậm trong sân trường như hai anh em, bởi năm đó tôi mười chín, thầy khoảng hai ba, hai bốn tuổi.
–          Không có gì là muộn cả, cứ vô ở với thầy, thầy sẽ giúp.
    Tôi thực sự như người “buồn ngủ gặp chiếu hoa”. Bởi thời điểm ấy ở đất này không có những lớp dạy kèm cũng không có những “cua” luyện  thi, học sinh phải tự học. Thế là tôi mang sách vở đến nơi thầy ở phía sau trường khoảng một trăm mét, cùng với một thằng bạn nữa, cũng ham chơi như tôi, học lớp mười hai A1.
     Buổi đầu tiên, thầy nói :
         -Nhìn các em điều khiển vòng tròn sinh hoạt, xử lý tình huống rất nhạy bén, thầy tin các em sẽ học tốt nếu tập trung.
 Có thể nói, đây là lời động viên thật quý giá giúp tôi và thằng bạn tự tin hơn. Sau khi kiểm tra kiến thức cơ bản, thầy đã phải dạy lại từng bài toán lý hóa chương trình lớp mười một, có khi phải rà lại chương trình lớp chín, lớp mười. Đây là những ngày học tập thật vất vả, bởi cùng một thời điểm mà phải vừa hoàn thành các bài học trên lớp, vừa phải tập trung ôn lại kiến thức lớp dưới để tiếp thu được kiến thức lớp trên, nhất là trong thời gian nửa tháng đầu tiên. Nhưng vất vả nhất là thầy. Vì thầy phải sinh hoạt chuyên môn, soạn bài, chấm bài, lên lớp các tiết học chính khóa, rồi phải lục tìm sách vở liên quan, soạn bài giảng dạy cho hai đứa nữa. Trong suốt thời gian dạy kèm, đâu phải thầy giảng một lần là hai đứa hiểu liền, nhưng thầy không hề nhăn nhó, phàn nàn hay trách mắng. Ngược lại còn kể chuyện vui khi thấy chúng tôi căng thẳng khi không làm bài được. Đó là chưa nói trong quá trình dạy kèm chúng tôi, mỗi khi đứa nào giải được bài toán khó, thầy thường thưởng năm chục hay một trăm đồng, có tiền sáng mai ăn bánh mỳ, ăn chè. Bây giờ nghĩ lại tôi cũng không thể lý giải được vì sao thầy lại chịu khó và thương hai đứa tôi như vậy. Hằng đêm sau khi học xong, khoảng mười giờ đến mười giờ rưỡi, thầy ôm đàn măng-đô-lin, tôi cầm ghi-ta, ba thầy trò cùng hát những ca khúc viết về đồng quê, sinh hoạt cộng đồng. Nhờ thầy nên chỉ sau nửa tháng, tôi và thằng bạn đã cơ bản nắm được kiến thức, có chiều hướng theo kịp các bạn trong lớp, nhất là môn lý hóa. Điều quan trọng nhất là thầy đã làm cho tôi và thằng bạn tự tin, có động cơ học tập, không còn ham chơi, tập trung học. Nhờ vậy nên kỳ thi năm một ngàn chín trăm bảy tư, tôi và thằng bạn đều đậu tú tài toàn phần. Gần bảy tháng kèm hai đứa tôi học, đầu tư công sức rất nhiều, thầy chỉ lấy hai bản sao văn bằng tú tài bằng thư bảo đảm của chúng tôi gửi ra Huế vì lúc đó thầy về Huế nghỉ hè. Khi gặp lại, thầy ôm tôi như ôm một đứa em trai bé bỏng, bóp bóp tay tôi và nói:
–          Hai đứa đã không phụ lòng thầy.
Tôi biết thầy rất vui vì đã thực hiện được lời hứa giúp đỡ trực tiếp hai đứa học trò đầu tiên của thầy đậu tú tài.
        Sau ngày giải phóng, thầy được phân công về dạy trường Trung học cơ sở xã Đập Đá ( nay là thị trấn Đập Đá ). Lúc đó tôi theo học trường Cao đẳng sư phạm QuyNhơn. Thỉnh thoảng, vào chiều thứ bảy, hoặc sáng chủ nhật, tôi đón xe từ Quy Nhơn về thăm thầy đang ở trọ tại Đập Đá. Thầy đi chợ nấu ăn, không cho tôi làm gì cả ngoài việc lặt rau, bởi với thầy thì tôi như một cậu học trò nhỏ, được ưu tiên chăm sóc giống như ngày xưa thầy chuẩn bị nồi chè hay bữa bánh nếu tôi và thằng bạn học khuya đói bụng. Rồi hai thầy trò, một măng-đô-lin, một ghi-ta cùng hát những bài sinh hoạt cộng đồng, hoặc những ca khúc của thầy viết vừa được giải ở tỉnh. Tôi ra trường, trở thành đồng nghiệp của thầy, nhưng thầy mãi là người thầy mà tôi yêu thương nhất trong cuộc đời mình. Năm hai ngàn linh năm, thầy định cư ở Mỹ cùng với gia đình. Thầy ở cách xa tôi nửa vòng trái đất, và lâu lắm rồi hai thầy trò không gặp nhau. Nhưng với tôi khoảng cách địa lý không quan trọng, bởi tôi luôn mãi  nhớ thầy. Dù trước mặt thầy, chưa bao giờ tôi nói những lời biết ơn hay ngợi ca thầy, nhưng làm sao tôi có thể quên những ngày bên thầy với chiếc đèn dầu hằng đêm được nghe thầy giảng bài, nghe thầy hát của gần bốn mươi năm về trước. Thông thường, thời gian làm cho trí nhớ người ta bị bào mòn, thậm chí mất hẳn, nhưng với thầy thì ký ức trong tôi lại được lưu giữ mãi. Bởi thầy đã đưa tôi qua một khúc ngoặt quan trọng nhất của đời học trò- một việc không thực sự dễ dàng đối với một người thầy mới ra trường, vừa phải hoàn thành  nhiêm vụ chuyên môn ở cấp hai vừa phải dạy kèm hai đứa học trò lớp mười hai thuộc loại “ dốt đặc cán mai”.
      Lớn lên tôi đi đây đi đó, lập gia đình, có hai đứa con đi học. Tôi làm ban điều hành hội cha mẹ lớp và  nhà trường trong nhiều năm liền nên có điều kiện tiếp xúc với nhiều thầy cô giáo. Nhưng riêng tôi vẫn thấy ở thầy, hình ảnh thực sự của một người thầy có tâm và có nghề. Thầy là người thầy duy nhất mà cả gia đình tôi, từ ba má, đến các em tôi, vợ con tôi đều biết và kính trọng. Cuộc sống luôn đổi thay, tôi cũng đã gần sáu mươi tuổi, nhưng trong tôi vẫn còn in đậm hình ảnh rất đẹp của thầy với giọng  Huế không trộn lẫn vào đâu được. Và, thằng học trò ham chơi, biếng học ngày nào xin cầu chúc thầy mãi mãi sức khỏe, hạnh phúc !


 

Read Full Post »

Lữ Vân

Tranh Đỗ Duy Tuấn

Chụp xuống tấm khăn choàng màu rêu
Những vết nứt của thời gian mọc đầy cỏ dại
Anh đã yêu trần gian này
Yêu từng ngày ra đi không trở lại
.
Có thể trong ký ức anh thời gian đọng lại như những giọt sương
Thấm màu cô tịch
Có hương thơm dịu dàng của năm tháng ấu thơ
Có nỗi nồng nàn của ngày mới lớn
Có tình yêu một thời xao xuyến
Có em, người con gái tóc dài đi qua giông bão
Những cơn bão cuốn cuộc đời về phía nhiễu nhương…
.
Những giọt sương
Cũng mong manh như tình yêu của em dành cho anh
Những giọt lệ buồn trong đại dương xanh
Nỗi xót xa trong mùa biển động
Chúng ta sống qua ngày khốn khó
Mới hiểu những phút giây cuộc đời là hạt ngọc trăm năm
.
Đâu thể gửi nỗi buồn trốn vào thơ
Vào ly rượu nhạt
Anh đành cất chúng trong trái tim mình
Nếu có một ngày em đến
Vườn anh sẽ nở những bông hoa giọt lệ
Lung linh trong đôi mắt em

15.11.2011

Read Full Post »

(ĐVO) “Huệ tiếng nói như chuông, mắt lập loè như ánh điện, là người thông minh, giỏi chiến đấu, người người đều kinh sợ”, Sách Đại Nam chính biên liệt truyện của triều Nguyễn chép.

Vương triều Tây Sơn đứng đầu là Hoàng đế Quang Trung, là triều đại phong kiến đã mang lại nhiều vinh quang cho dân tộc ta ở nửa sau thế kỷ XVIII, mà trung tâm đầu não lúc bấy giờ là kinh đô Phú Xuân.

Tượng đài Hoàng đế Quang Trung tại TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

Vua Quang Trung còn có tên khác là Nguyễn Văn Bình, quê ấp Kiến Thành thuộc Tây Sơn Hạ Đạo (phủ Quy Nhơn, Bình Định).

Là em trai của Nguyễn Nhạc, Thủ lĩnh phong trào Tây Sơn, Nguyễn Huệ (1751 – 1792) là một tướng lĩnh có vai trò quan trọng. Ðặc biệt vào năm 1785, khi đánh tan quân xâm lược Xiêm ở Rạch Gầm – Xoài Mút, năm sau (1786) Nguyễn Huệ tiến ra Thuận Hóa và chỉ trong mấy ngày, đạo quân Tây Sơn đã quét sạch quân Trịnh ra khỏi Phú Xuân; rồi trên đà thắng lợi, tiếp tục hành quân ra Bắc. Sau khi tiêu diệt xong thế lực chuyên quyền họ Trịnh, Nguyễn Huệ đã trao lại quyền bính cho vua Lê và rút quân trở về Phú Xuân…

Năm 1788, triều đình Mãn Thanh mượn cớ giúp vua Lê, đã đưa binh hùng tướng mạnh theo chân Lê Chiêu Thống cướp nước ta. Ðược tin cấp báo, tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ cho lập Ðàn Nam Giao làm lễ tế trời đất ở núi Bân để tuyên bố lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và phát động cuộc hành quân ra Bắc đánh dẹp giặc ngoại xâm.

Với thiên tài quân sự kiệt xuất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã làm nên đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu (1789) lừng lẫy, quét sạch mấy chục vạn quân xâm lược, giữ vững biên cương của Tổ quốc, mang lại cuộc sống hòa bình cho nhân dân. Sau chiến thắng lịch sử đó, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng chỉ đạo sắp xếp công việc chính trị ở Bắc Hà, rồi kéo đại quân trở lại Phú Xuân. Suốt hơn mười năm sau đó (1789-1802), Phú Xuân là kinh đô của nước Ðại Việt thống nhất thời Tây Sơn. Tại đây, vua Quang Trung đã ban bố và thực hiện chỉ đạo nhiều chính sách quan trọng về nội trị và ngoại giao nhằm xây dựng và phát triển đất nước.

Hoàng đế Quang Trung và Ngọc Hân công chúa. Ảnh minh họa

Như vậy, công danh hiển vinh của Hoàng đế Quang Trung – hậu bối ai ai cũng rõ và kính phục. Song, có điều rằng diện mạo và thần thái của người anh hùng áo vải – đến nay vẫn là một ẩn số. Theo sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, một quan viết sử dưới thời Nguyễn đã ghi: “Huệ tóc quăn, mặt đầy mụn, có con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì thế thắng uy nghi, anh hùng lẫm liệt, cho nên mới bình định được phương Nam, dẹp phương Bắc, tiến đến đâu thì không ai hơn được… Óc thông minh đó sẽ làm nên sự nghiệp lớn, tiếng nói sang sảng như chuông sẽ là lệnh truyền hiệu nghiệm đầy sức thuyết phục. Với đôi mắt như ánh điện, thay được đèn soi sáng cả chiếu vào lúc ban đêm, có thể xuyên thấu mọi tâm can sâu thẳm của mỗi con người, của đối phương nên đã làm người người đều kinh sợ. Cái nhãn quang đó cùng bộ óc thông minh của ông đã làm nên sự nghiệp phi thường như lịch sử đã ghi lại”.

Trong Minh đô sử, hình ảnh Nguyễn Huệ ra Thăng Long diệt quân Trịnh vào năm 1786 được ghi: “Văn Huệ mặc áo ngân giáp, đầu đội mão thêu đỏ, thúc hai đội quân đột ngột xông thẳng vào quân Phùng Cơ, lúc đó đang ăn cơm không kịp sắp hàng ngũ, đành vỡ tan. Văn Huệ tiến quân đến bên Tây Long, ngồi đĩnh đạc trên chiếc tấm ván cao trong thuyền, dung mạo hùng vĩ, nhung phục chỉnh tề. Các tướng sĩ đứng vòng hai bên tả hữu trông thấy ai cũng nói: Bắc Bình Vương là vị thần sông vậy. Rồi cùng nhau tấm tắc khen ngợi mãi không thôi”.

Các tác giả trong Hoàng Lê nhất thống chí đều thừa nhận Quang Trung là “người thông minh quyết đoán. Lúc Nguyễn Huệ vào kinh đô Thăng Long, vua Lê sai các quan lần lượt đến yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng”.

Thậm chí, những kẻ đối địch cũng phải nhận xét: “Nguyễn Huệ là tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân, xem ông ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường biết. Ông bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Võ Văn Nhậm như giết một con lợn. Không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt ông; thấy ông trở tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu sợ hơn sấm sét…”.

Có thể nói, những dòng miêu tả kỹ lưỡng diện mạo, thần thái của vua Quang Trung là điều hiếm hoi trong sử Việt.

 

 

Read Full Post »

Độc thoại mưa

Nguyễn Quy

 
Bỗng dưng
rơi nhẹ giữa đời
Bỗng dưng
trút xuống
bồi hồi trần gian
 .
Bỗng dưng
thác đỗ ngỡ ngàng
Bỗng dưng
rả rích
bàng hoàng đời nhau ! …
 .
Bỗng dưng
thích,
bỗng dưng
đau
Bỗng dưng tủm tỉm
thâm sâu đất trời
 .
Bỗng dưng
đón,
bỗng dưng
mời
Bỗng dưng
mơ ngủ
thốt lời – mưa chi ? …
 .
Mưa rừng Xuyên Mộc
   Tháng mười 2011

Read Full Post »

TTCT – Khách du lịch đến thăm mộ Hàn Mặc Tử (Quy Nhơn, Bình Định) những ngày này đã bất ngờ trước một phụ nữ nước ngoài miệt mài khắc thơ Hàn Mặc Tử bằng bút lửa (*).

 

 
Bà Ginette Lâm với bút lửa bên mộ Hàn Mặc Tử – Ảnh: Trường Đăng

Người phụ nữ ấy gốc Pháp, tên Ginette Lâm. Đã 74 tuổi nhưng bà còn nhanh nhẹn, hoạt bát. Thấy khách bước vào, bà hỏi bằng tiếng Việt lơ lớ: “Xin chào! Bạn cần viết câu gì?”. Đôi mắt vẫn trẻ trung tinh anh, bà thân thiện, cởi mở trò chuyện với mọi người.

Duyên

Chồng bà người Việt, quê ở Trà Vinh. Ông sang Anh học nghề in ấn, bà sang Anh làm nghề giữ trẻ. Bà yêu ông vì ông rất tốt bụng, lịch sự và khéo léo trong đối xử. Hai dòng máu Pháp – Việt hòa quyện, họ có năm người con.

“Người Việt ai cũng thế. Hơi nhút nhát nhưng hòa nhã, thân thiện. Tôi đến Việt Nam nhiều và đã ba lần ăn tết ở TP.HCM” – bà trải lòng. Trước kia làm việc tại một trung tâm văn hóa – xã hội ở Pháp, bà đi nhiều, đọc nhiều, thích trải nghiệm và tìm hiểu văn hóa các nước. Bà chia sẻ: “Nước bạn rất đẹp, có chiều sâu văn hóa dễ làm say mê người khác”.

Cách đây hơn một năm, trong chuyến du lịch đến mộ Hàn Mặc Tử, thăm Bãi Trứng, nghe những câu chuyện về các danh nhân, danh lam ở đây bà rất cảm phục. Rồi bà phát hiện ngay bên ngôi mộ thi sĩ họ Hàn có một người ngồi vẽ thư pháp bằng bút lửa. Đó là Trương Vũ Kha (nghệ danh Dzũ Kha, theo cách gọi của người địa phương). Yêu thơ Hàn Mặc Tử, nghệ sĩ thư họa này đã dựng lều vẽ tranh, họa thơ, viết thư pháp bằng bút lửa 30 năm nay bên mộ Hàn Mặc Tử. Bà quyết định ở lại xin học nghề. Vốn đã học viết thư pháp trên giấy ở TP.HCM từ bốn năm trước, nên lần gặp Dzũ Kha, bà xem như cái duyên lớn với đất Quy Nhơn. Bà ở lại học bút lửa, học thêm tiếng Việt.

Nghệ sĩ Dzũ Kha giới thiệu ngắn gọn: “Đây là học trò lớn tuổi nhất nhưng có niềm đam mê và miệt mài kỳ lạ. Điều đáng khâm phục là nghị lực, sự năng động, cởi mở và độ sâu tâm hồn của bà”.

Bà thích nghe nhạc Trịnh, đàn tranh, dân ca và những bài hòa tấu nhạc dân tộc Việt… “Viết thư pháp phải tập trung cao độ, suy ngẫm mà không vướng bận gì khác nên nghe những dòng nhạc này giúp tập trung hơn” – bà tâm sự. Thỉnh thoảng bà cao hứng hát “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng…”.

“Để gió cuốn đi”

Đến thăm nhà, bà vui vẻ tiếp đón như một người bạn đồng niên. Trong căn nhà nhỏ nhắn thuê gần mộ Hàn Mặc Tử là một không gian của hồn Việt. Trên tường bà treo những bức thư pháp mình vẽ bằng bút lửa. Bức thư pháp lớn nhất – chữ “Tâm” kèm dòng chữ “Cuộc đời sẽ rất đẹp nếu chúng ta biết sống bằng một trái tim yêu thương và độ lượng” – bà treo giữa nhà, bên cạnh là những câu thơ Hàn Mặc Tử và ca từ trong nhạc Trịnh…

Lật tập thơ Trăng Hàn của Hàn Mặc Tử để ngay ngắn trên bàn, bà dừng lại đọc Đây thôn Vĩ Dạ, bài thơ bà tâm đắc. Tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy một bức tranh minh họa câu thơ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay do chính bà vẽ. Chỉ vào nét mờ ảo hư hư thật thật như vào cõi mộng, bà nói đùa: “Ghềnh Ráng cũng đẹp, lãng mạn như bến sông trăng. Tôi đến với Hàn Mặc Tử là một cái duyên nhưng Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/Ai biết tình ai có đậm đà. Thơ Hàn Mặc Tử rất lãng mạn và gần gũi với thiên nhiên”. Bà nói chuyện, lẫy cả thơ Hàn Mặc Tử như một người bản địa. Lưu loát, tinh tế.

Trên kệ sách là tập nhạc Trịnh viết bằng song ngữ Pháp – Việt. “Nhạc Trịnh thấm đẫm tình người, giai điệu miên man vào suy ngẫm tĩnh lặng. Tôi thích nhạc Trịnh còn vì tinh thần phản chiến, nhất là bài Đại bác ru đêm gợi điều gì đó khủng khiếp và sự chán ghét chiến tranh”.

Tôi hát cho bà nghe, bà cũng nhẩm theo Hàng vạn tấn bom dội về thành phố/người phu quét đường dừng chổi đứng nghe”, nét mặt lúc say sưa, bà gõ nhịp. Giọng hát chưa tròn, tôi ngỏ ý sẽ chỉ bà hát một số bài nhạc Trịnh, đôi mắt bà long lanh sáng lên: “Lúc trước ở Pháp chúng tôi có nghe giảng về nhạc Trịnh nhưng ít người hát được. Nhất định tôi sẽ tập hát nhiều nhạc Trịnh để về Pháp hát cho bạn bè nghe”.

Mỗi ngày bà cố hoàn thành một bức thư pháp qua bút lửa. Bà tâm sự: “Mỗi lần cầm bút đầu óc trống rỗng như đang thiền định, gội rửa tất cả phiền muộn, hòa suy tư trong nét bút”.

Chiều nào bà cũng ra biển, đọc một bài thơ Hàn Mặc Tử rồi đi bộ dọc Ghềnh Ráng. “Đứng trên đồi Thi Nhân nhìn ra xa, gió biển Quy Nhơn cuốn mình vào một cảm giác rất lạ – người phụ nữ đã bước qua tuổi thất thập cổ lai hy tâm sự – Tôi học bút lửa không phải vì nhu cầu việc làm mà chỉ… để gió cuốn đi”. Còn nghệ sĩ Dzũ Kha thán phục: “Làm việc với bà tôi cứ nghĩ đó là một thanh niên trai tráng. Không có biểu hiện tuổi già, phân biệt quốc gia hay văn hóa trong con người này. Tôi xem bà như một người bạn để cùng thổi lửa vào thư pháp sưởi ấm thơ Hàn”.

VŨ NGỌC

__________

(*) Nghệ thuật bút lửa là cách viết bằng bút có ngòi là dây lò xo xoắn, được làm nóng bằng điện (5 ampe) để làm cháy gỗ. Khi viết, ngòi chạm vào gỗ phát ra lửa, bốc khói. Bút lửa thường viết trên gỗ thông, gỗ mít mềm dễ cháy theo ý muốn, riêng nghệ sĩ Dzũ Kha đạt đến trình độ viết bút lửa trên giấy thường.

Read Full Post »

Đạo đi chơi

Phạm Văn Phương

Tặng cậu Thái Thành Đôn

 

Ta có “ đạo “ đi chơi

Vui cùng nước non hoa cỏ

Cái đẹp vẫn thiường sẵn có

Ẩn tàng trong đá trong cây

Đói, mệt-tìm nơi quán gió

Có hôm trời đổ mưa mây

Gặp em trên dường thiên lý

Tặng ta một khóm hoa này

Nào biết ta về đâu nhỉ?

Bồi hồi tay nắm bàn tay

Ngẫu gặp nguời xinh bên tháp

Thương trao mấy trang sách vàng

Chiều muộn nụ cười không tắt

Qua đồi lòng thật xốn xang

Vui cùng nước non hoa cỏ

Ô hay mua hạ đã tàn

Còn lại dăm cành phượng sót

Phố phường xe ngựa xênh xang

Chào người  , lên lưng ngựa sắt

Xuôi theo gió nội hương ngàn

Ta như con chim bay liệng

Như vầng mây trôi lang thang…

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »