Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Trương Văn Dân’

Trương Văn Dân                                                                                                                                                                                                                               

Tôi và vài người bạn  xa nhau hơn 30 năm rồi một hôm gặp lại! Bỡ ngỡ nhìn nhau, tưởng như một sự tình cờ, nhưng ngẫm lại thì cuộc hội ngộ này đã  được sắp đặt bỡi một người đã khuất. Điều kỳ lạ là đối với  người giờ đây đã thành thiên cổ, tất cả chúng tôi đều biết, nhưng chẳng mấy ai quen. (more…)

Read Full Post »

Một người đàn ông gặp Chúa và thỉnh cầu: “ Lạy Chúa, con rất muốn biết thế nào là Thiên Đường và Địa Ngục”. Chúa dắt ông ta đến trước hai cánh cửa.Ngài mở một cánh cửa và bảo ông ta nhìn vào bên trong. Ông ta thấy, một chiếc bàn tròn thật lớn, giữa bàn bày rất nhiều thức ăn, mùi thơm phưng phức làm ông ta thèm chảy nước miếng. Nhiều người  ngồi quanh bàn, nhưng trông họ gầy gò, nước da xanh tái, bệnh hoạn. Họ có vẻ rất đói. Trên cánh tay họ gắn những chiếc muỗng nhưng cán rất dài. Họ có thể với lấy thức ăn nhưng vì cán muỗng dài hơn cánh tay nên không thể đưa  thức ăn vào miệng .

Người đàn ông rùng mình khi nhìn thấy đau khổ của họ .

Chúa  phán : “Con vừa nhìn thấy Địa Ngục”

 

Sau đó  Chúa dẫn ông ta đến chiếc cửa thứ hai. Chúa mở cửa. Quang cảnh mà người đàn ông nhìn thấy vẫn giống như lần trước. Có một chiếc bàn thật lớn bày biện nhiều thức ăn làm ông ta  chảy nước bọt. Nhiều người ngồi quanh bàn có những cánh tay gắn những chiếc muỗng cán dài. Nhưng  lần này ông ta thấy mọi người đều khoẻ mạnh và vui vẻ nói cười.

Chúa phán “ Đây là thiên đường”

Người đàn ông ngạc nhiên, “Lạy Chúa,  con không hiểu!”

– “Đơn giản thôi”, Chúa  trả lời, “những người này  biết là cán muỗng quá dài, không thể tự đút ăn cho mình được…Tuy nhiên họ có thể đút thức ăn cho người ngồi cạnh mình. Bởi vậy họ đã thực hành việc người này đút thức ăn để  nuôi người kia.  

Chúa tiếp: “ Con biết không, ta còn muốn nói thêm một điều này nữa… Trên trái đất này có đủ thức ăn để thoả mãn nhu cầu của tất cả nhưng không thể thoả mãn lòng tham lam của một nhóm người.  Những ý nghĩ của chúng ta, dù có tốt lành đến đâu cũng chỉ là những viên ngọc giả nếu nó không được biến thành hành động. Con phải là sự thay đổi mà con muốn nhìn thấy điều đó xảy ra trên thế giới[1]

                                                                             Trương Văn Dân

                                                                        ( Tuyển dịch từ tiếng Ý )


[1] Mahatma Gandhi

Read Full Post »

Từ Sâm

Tôi quen  vợ chồng Trương Văn Dân và  Elena đã lâu nhưng nay mới có dịp tiếp anh chị ở nhà.
Anh Trương Văn Dân, quê Bình Định, là Việt kiều ở Ý trên 40 năm. Anh là chuyên gia về dược học, là nhà văn,  là dịch giả mấy đầu sách. Chị Elena, người Ý, tiến sĩ văn học nước ngoài chuyên nghành văn chương Pháp.
Tôi quí mến anh chị qua tác phẩm. Tôi đọc anh qua tiểu thuyết          “Bàn tay nhỏ dưới mưa” đẫm tính nhân văn. Nó, như bác sĩ tiên đoán căn bệnh thế giới hiện đại đang mắc phải do “sự toàn cầu hóa” đang đến thời di căn. Tôi đọc Elena qua những phóng sự về trẻ em nghèo Campuchia, đất nước bị lãng quên sau nạn diệt chủng. Những bài  báo của chị như tiếng chuông đồng hồ báo thức trong giấc ngủ say của thế giới no đủ Phương Tây, như chiếc gạc nhỏ băng bó vết thương tâm hồn những  người nghèo khổ  trên thế gian này.


Sáng, bước vào nhà, chị chào chúng tôi bằng cách chắp tay trước ngực, đầu hơi cúi như người Nhật. Nhưng không phải như người Nhật cúi khom sâu mà là đầu hơi cúi như cách đây mấy chục năm mẹ tôi cũng làm như thế. Tuy phát âm tiếng Việt chưa chuẩn lắm nhưng có lẽ nhờ trực giác của người rành ngoại ngữ chị đoán và hiểu khá nhiều.
Khi vợ tôi  hỏi theo chồng về định cư ở Việt Nam có buồn không, chị nói không buồn vì có nhiều bạn bè. Chị tâm sự, sáng cà phê vỉa hè, đọc báo, thăm thú nhau và nói chuyện văn chương. Rồi đi chợ, chị nói đi vài lần là quen mặt hết. Hôm nào bạn hàng vắng, khoảng trống ở chợ vẫn còn đó mà như xa người thân. Cởi mở và hòa đồng, chị đi chợ mà như  mua nụ cười và tình cảm nhiều hơn mua hàng, ít khi trả giá mà không bao giờ bị mua hớ… Phần lớn bạn hàng biết chị thích món gì thì dành riêng, nụ cười thân thiện của chị đã chinh phục được cảm tình của  các bạn hàng. Ở Ý không có được điều đó vì toàn siêu thị. Ở đó người và máy móc săm soi nhau, giám định nhau và không thể mặc cả. Thế mà người ta đang có ý dẹp chợ để xây siêu thị, tôi chia sẻ và nghĩ là đi theo lối cũ của phương Tây là  bào mòn văn  hóa Việt.
Dịp cuối tuần, chị thường ra ngoại ô, vào chợ cóc, ở làng quê chưa khoác áo thành thị. Người dân lam lũ mang ra chợ thứ họ nuôi trồng, chăm bón. Mớ rau ngót xanh ngắt ngậm sương, tôm tép nhảy tanh tách trên rổ, vịt ruộng, gà vườn béo mập, chắc lẳn. Chị nói cách đây nửa thế kỷ, ở Ý cũng như Việt nam bây giờ, chị thường theo mẹ tìm hương thơm của lúa mì vùng ngoại ô. Rảo bước giữa chợ quê, chị như trở lại thời thơ ấu, được hít thở không khí trong lành và tươi mát của miền cây trái. Một lần chị nói rất buồn vì biết là  chỉ vài năm nữa, nơi họp chợ sẽ trở  thành khu công nghiệp.


Điều làm tôi ngạc nhiên là chị thích canh bầu, tôm chua và mắm nêm mà vợ tôi lúc đầu sợ chưng ra mâm. Chả là, có mấy đứa cháu sang Tây vài năm, về nhà khó chịu mấy món nhà quê. Chúng nó toàn ốp la, bít tết và khoai tây chiên. Nhìn tay chị cuốn bánh tráng rau sống hơi vụng một tí nhưng thích thú và hạnh phúc, tôi cũng vui theo. Chị thích bánh  xèo, thích được ngồi đợi, quan sát thao tác của người đúc bánh, chờ đợi dọn ra dĩa chiếc  bánh nóng và giòn. Chị thường tự tay múc nước chấm, hơ hơ đôi tay vào hơi ấm của  bếp lò trong cơn bấc đầu mùa. Mùi dầu chiên ngào ngạt, khói bốc nghi ngút. Chị thích mùi khói, vừa ăn vừa nhìn những người lam lũ ngồi xổm trên ghế nhựa, áo nhem nhuốc bụi đường. Có lần tôi bắt gặp cái nhìn thương cảm của chị về  đứa trẻ ăn miếng  to đùng như ăn lần đầu, sợ hết, sợ ai gắp mất. Bên cạnh, người mẹ chống đũa trong hạnh phúc vì tiền công được vài đĩa bánh. Thứ dân giã mà chị coi là của ngon vật lạ, nó đang bị mai một, bị xua đuổi trong phố thị, bị xâm lấn, bởi chỗ ngồi vỉa hè sẽ không tồn tại.  Chị không tin là nó  rẻ thế, một người ăn chưa hết 10 ngàn, chưa bằng ly cà phê sáng. Tôi cho chị biết, ít người ăn nên không thể nâng giá hơn được. Bà chủ có mấy chục năm ngồi ở đây, nay sắp  dời  đi vì phường không cho phép. Thế giới ẩm thực quyến rũ  như ma tuý, người ta lao vào món đắt đỏ để làm sang, để tức thời. Người ta mời nhau vào nhà hàng chứ có ai mời nhau ra vỉa hè hóng bụi bao giờ. Tôi thực sự ngạc nhiên khi chị giải thích sự cân bằng âm dương của các món rau, của gia vị, của lửa và nước. Món ăn mà tôi ăn gần hết cuộc đời nhưng ăn chỉ mà ăn, còn chị ăn để hiểu, để biết,  ăn bằng miệng, ăn bằng mắt, bằng đầu, bằng sự chiêm ngưỡng và khai phá gía trị nhân bản truyền thống.
Môt hôm, tôi được xem những tấm ảnh chụp một đám cưới lúc chị về quê chồng ở Qui Nhơn. Cô dâu chủ rể là Việt kiều trong bộ váy nhiều tầng, màu sắc lòe loẹt. Trang sức đeo kín cổ, đầy các ngón tay nhẫn to nhẫn nhỏ như trưng cái giàu sang trước thiên hạ. Tóc nhuộm nâu nâu, đỏ đỏ, phủ  hoe vàng. Không thua kém Việt Kiều, những qúi bà, quí cô trong nước không biết giàu hay nghèo, làm chủ hay làm thuê. Họ giống nhau ở chỗ đầm dài đầm ngắn, tóc rối bù tổ chim, sắp hàng ngang như thi hoa hậu. Quá hơn nửa trong số họ từ chối màu tóc đen nguyên thuỷ cha mẹ sinh ra. Trong ảnh, đối chọi với mô đen lối Tây, một người phụ nữ mặc áo dài, chiếc áo dài truyền thống viền thêu bằng tay, kết khuy theo lối cổ, tóc ánh kim, một màu qúi phái, nguyên thuỷ, đó là Elena. Chị tìm đến và giữ màu sắc văn hóa Việt, sợ nó biến mất, mà sợ hơn cả là biến mất trong lễ truyền thống của đời người chỉ có một lần thì nguy hiểm quá. Trông chị lẻ loi giữa sự thô thiển của thời trang nửa mùa, lai căng. Tôi  nghĩ chiếc áo dài của chị là số ít nhưng là tâm điểm. Số ít nhưng là hạt nhân để số đông như electron  quay quanh tạo thế cân bằng, cuộc sống   trở  nên bền vững  và  tồn tại  vĩnh cửu.
Chia tay chị khi bóng chiều chìm xuống, chim về tổ, con người tìm về hơi ấm gia đình. Phía  mặt trời lặn là quê hương chị. Phía ấy có người thân yêu và bạn bè của chị khiến lòng tôi bùi ngùi thương cảm và quý mến. Làm dâu, không chỉ theo chồng, không chỉ hoà nhập vào lối sống, mà chị còn muốn níu giữ cái hồn quê, nếp Việt nơi chồng mình sinh ra.
Nha trang cuối năm  2011

Read Full Post »

Một giấc mơ hoa

Trương Văn Dân

Tranh Ðinh Cường.

Chỉ còn một tuần nữa là vợ chồng tôi sẽ ly hôn. Mọi việc thế là chấm dứt. Cả hai chúng tôi đều mệt mỏi và chẳng còn muốn cứu vớt cuộc hôn nhân hay hàn gắn chắp vá gì thêm nữa. Sau mười năm chung sống, bây giờ chúng tôi sẽ phải chia tay vì “ không có nhau cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn!” Sự tan vỡ tưởng chẳng còn gì hối tiếc.
Ngồi nhìn những tình nhân đang âu yếm nắm tay, hôn nhau say đắm trên ghế đá công viên, tôi chỉ biết cay đắng thở dài. Thì mới mấy tháng trước thôi, vợ chồng tôi cũng hạnh phúc như họ. Nhưng một hôm, vì một lý do không đáng gì, vô lý nữa là khác ( mà sự cãi vã nào không bắt đầu bằng một lý do ngu xuẩn? ) chúng tôi đã xúc phạm nhau bằng những ngôn từ vô cùng khiếm nhã.
Một hạt sạn có thể làm đổ một gia đình sao? Tôi tự hỏi lòng rồi mơ hồ  lục trong trí nhớ hình dạng những chiếc gai đâm xước vào da thịt.
Chiều đó về nhà tôi vô cùng mệt mỏi. Không phải sau mười giờ trải qua ở văn phòng mà do căng thẳng vì bất đồng quan điểm giữa tôi và ông tổng. Vợ tôi cũng chẳng vui vì đợi cơm đã lâu mà tôi  về trễ, không báo trước.
Hai chúng tôi ngồi vào bàn ăn trong im lặng. Cái nhìn có vẻ trách móc của vợ làm tôi vừa thấy có lỗi vừa thấy bực mình.
“ Crac!”.
Tôi phun phì phì, nhổ hạt sạn lẫn trong cơm ra bàn tay rồi bỏ xuống bàn.
– Khổ quá! Cơm nước thế này làm sao sống nổi!
Mặt vợ tôi lạnh ngắt.
– Ai làm khổ anh?
– Khổ! Khổ! Khổ nhiều!
Vợ tôi  cũng bắt đầu trả treo:
– Thôi anh ăn tiếp đi! Tại sạn trắng em không thấy chứ chẳng lẽ em đem bỏ vào sao?
Thế là tôi gầm lên
– Không thấy được thì đổ hết đi! Vợ con gì mà từng tuổi này nấu bữa cơm không xong!
Tôi thả sức gào to hơn nữa.
– Số tôi số khổ, đi đâu cũng khổ, đi làm cũng khổ. Về nhà còn khổ hơn! Trời ơi trời!
Nàng cười nhạt, da mặt nàng bắt đầu tím tái.
– Em nấu ăn như bình thường. Chỉ có hạt sạn nhỏ mà sao anh làm lớn chuyện vậy!
–  Nói vậy mà lớn chuyện à? Cô chỉ làm khổ tôi thôi!
Thấy tôi to giọng, cô ấy nhỏ nhẹ hơn. Nhưng lý lẽ của cô càng có lý thì tôi lại càng tức giận, rồi bất ngờ trở nên vô lý:
– Thế mà xưa nay cứ tự cho mình là vợ ngoan!
Có lẽ câu nói này đã vượt quá giới hạn. Tôi thấy nàng cũng to giọng, đáp:
– Tôi chăm sóc chồng như mọi người. Tốt hơn mọi người. Tôi có làm gì đâu mà anh trách móc tôi quá vậy?
Lần đâu tiên nàng xưng “tôi” với tôi. Lúc đó, vừa nhận ra mình quá đáng, lẽ ra tôi nên nín lặng. Sự dừng lại đúng lúc có thể xoá bỏ một tai hoạ vừa chớm xuất hiện. Nhưng lúc ấy tôi đã không làm thế. Tôi lao vào cuộc chiến một cách vui thích:
– Hừ, đã sai còn ngoan cố. Thật là mất nết!
Sững sờ. Nàng ngỡ ngàng nhìn tôi. Có lẽ  đã thấm đòn:
– Có phải anh  vừa nói tôi là con đàn bà mất nết, phải không?
Tôi hét lớn:
– Tôi nói. Chứ còn ai ! Mất nết! Mất nết!
Âm thanh và cú dằn chén làm rung chén bát trân bàn. Có lẽ linh tính là chúng tôi sắp xô xát nên nàng cố lấy lại bình tĩnh:
– Anh nhận xét không đúng! Anh không công bằng khi nhận xét về vợ mình!
Tôi cũng thấy mình quá đà. Đang tìm cách  dừng lại thì nàng lại nói: “ Anh phải xin lỗi tôi” thì thay vì thắng lại, tôi đã tăng tốc.  Đột ngột, tôi gầm lên. Tôi hò hét.
Hò hét những gì đến giờ tôi không còn nhớ. Lúc đó tôi hoàn toàn mê muội. Hoàn toàn bị ám ảnh bởi một ý nghĩ: Phải thắng! Mình là người duy nhất có lý trong  gia đình này! Phải hét lớn, vì nhỏ nhẹ, nín nhịn đồng nghĩa với đầu hàng!
Là yếu hèn! Là thua cuộc!

Một điều quá quắc như  vậy lại có thể xảy ra giữa chúng tôi sao?  Xưa nay chúng tôi luôn nhỏ nhẹ  và lòng sẽ ray rứt lắm, nếu lỡ làm điều nhỏ nhoi gì  khiến phật ý nhau, mà!
Tưởng mọi việc rồi sẽ trôi qua, nhưng ai ngờ là vết sẹo của những lời trút ra trong cơn giận đã hằn lên đậm nét. Bữa cơm ngày hôm sau tôi đã chờ cô ấy gọi nhưng đến bữa chỉ có kẻ trước người sau ăn trong lặng lẽ.
Tình hình đóng băng, khó xử. Chung một mái nhà mà chúng tôi chỉ sống vì trách nhiệm chứ không còn chia sẻ những khó khăn. Những mẩu đối thoại là những lời  trống không. Vô cảm. Có khi còn ngụ ý  đổ lỗi và kết tội,  ngu ngốc nhìn người kia… nổi giận.
Ngày tháng trong nhà không còn êm ấm như xưa; Tình cảm vợ chồng giữa tôi và nàng đâm ra nhạt  nhẽo. Vẫn còn ở bên nhau mà đầu óc chúng tôi cách biệt như hai thanh sắt của đường ray. Lạnh! Chắp nối đôi bờ chỉ là những khoảng dài im lặng. Sự đồng cảm đã không còn và bầu không khí ngột ngạt làm chúng tôi thường lánh mặt nhau. Hay thậm chí tìm cách đi xa vì  lý do công việc.
Hững hờ. Nhạt nhẽo. Khoảng riêng của mỗi người quá lớn đã lấn ép và áp đảo khoảng trời chung, thế mà chúng tôi vẫn hồn nhiên đi quanh bờ vực thẳm; Chẳng ai sẵn lòng thực hiện bước nhượng bộ đầu tiên.

Thực ra cũng có lúc tôi thấy mình cô đơn hay tình cờ thấy vợ lặng lẽ khóc, đã  nghĩ đến việc làm lành, nhưng mặc cảm  thua cuộc đã trồi lên làm tôi “nghĩ” lại. Ý tưởng bệnh hoạn, xem tiếng nấc và nước mắt của nàng như một lời trách móc! Một sự thách thức! Thế là máu nóng nhồi lên, tôi cố tạo vẻ mặt bất cần rồi đứng lên khép cửa, bước ra khỏi nhà.

Tôi không biết trong cuộc chiến ngu xuẩn này, trong chúng tôi ai là kẻ lì lợm và chai ì hơn? Lửa căm tức trong mắt nàng chưa tắt hay tảng băng trong lòng tôi vẫn còn bốc khói? Chỉ có chắc một điều là chẳng có ai thắng thế. Chẳng có ai có được cái gì khác ngoài cảm giác thất vọng và chán chường. Bề ngoài, chúng tôi điềm nhiên cố giấu nỗi đau nhưng trong thâm tâm có lẽ cả hai cũng đã nhận ra nỗi  khủng khiếp vì đã làm tổn thương người mình quý mến; Tiếc thay cả hai không có khả năng đối đầu với tình huống, mặc nhiên và thụ động để lòng tự ái  dìm hai người xuống đáy sâu địa ngục.

Giờ thì  tôi sắp mất nàng!
Lòng tôi trĩu nặng. Vậy là người đàn bà một thời tôi rất yêu thương, sắp tới sẽ không còn thuộc về tôi nữa! Chúng tôi sẽ biến thành hai người xa lạ và sẽ chẳng còn quan tâm gì đến nhau!
Nỗi đau nhói lên giữa hai lồng ngực.
Tim tôi buốt!
Thắt!
Xưa nay những chuyện ly hôn, vợ chồng tan vỡ…tôi cứ tưởng là chỉ có thể xảy ra cho người khác, còn vợ chồng mình sẽ là ngoại lệ. Ngờ đâu …
Mặt đất dưới chân tôi như chao đảo.

Từ công viên tôi chạy vội về nhà. Căn nhà vắng tênh và tẻ lạnh như từ lâu lắm thiếu vắng hơi người.

Đêm đó tôi không sao ngủ được. Tôi mang mãi sự trống trải và nỗi đau của mình đi vào cơn mê mệt.
Trong trạng thái mơ màng tôi thấy mình và cô sinh viên văn khoa đang hồn nhiên nắm tay nhau bước những bước nhịp nhàng trên bờ biển hay tung tăng dạo gót trên những con đường đầy hoa. Đất trời xanh ngát. Gió thổi vi vu làm tà áo dài thanh khiết cuả nàng lất phất bay mà nàng không  buồn giữ lại. Tiếng cười trong vắt  vỡ ra trong hạnh phúc ban đầu.
Nhưng … rắc! Một cành khô rớt xuống. Tôi ngước lên, nhìn lá cành chuyển động. Mây đen kịt không biết từ đâu kéo đến, trong phút chốc từng mảng nhập vào nhau, che kín bầu trời.  Trên không trung có tiếng sấm ù ù…mỗi lúc mỗi gần, thi thoảng gầm lên như bực tức.
Những hình ảnh trước mắt tôi đang rõ nét, bỗng chốc chắp nối nhau loạn xạ, đen trắng trộn lẫn vào nhau.
Trời tối đột ngột!
Tiếng gió ào ào, thổi tung như giận dữ!
Chúng tôi nắm tay nhau tìm đường trốn chạy. Một tiếng sấm làm mây hốt hoảng. Mấy lằn sáng vạch những tia lửa màu xanh và những đóm vàng nhấp nháy khắp không gian rồi tiếp đó sấm nổ liên hồi, gầm gầm thét thét trên những cánh đồng. Bầu trời rền vang, liên tục phát  ra những âm thanh kinh dị. Cỏ bị gió dập vùi, cúi rạp mình xuống thấp.
Cây cối run lập cập. Hoa lá tung bay tơi tả.
Trên nền trời ngầu đục, những tia chớp không ngớt  sáng, tắt, làm mọi vật như bị hút xuống vực thẳm tối đen. Mặt trời như sa xuống bên kia dãy núi. Những túp lều tranh không ngừng lắc lư như những tổ chim trong bão. Mái nhà mà chúng tôi đứng ẩn mình như run sợ trước cơn giận của đất trời.
Chớp, sáng…chớp, tắt…bóng người tôi yêu hiện ra…rồi biến mất. Chớp sáng…nàng nheo mắt nhìn tôi…chớp tắt…nàng trốn mất. Nàng hiện, biến trong ánh sáng và bóng tối. Khi vầng sáng chói lọi…nàng nhắm mắt, áp nhẹ bờ môi lên má tôi…và khi bóng tối ập đến nàng như bay theo những cụm mây màu xám rồi mất hút trong hư vô bát ngát.
Rồi gió ngừng. Cảnh vật đột nhiên tĩnh lặng. Tôi như nghe được cả tiếng suối reo giữa những cụm rừng. Nhưng ngay lúc đó lòng bàn tay tôi trống rỗng, vuột mất mấy ngón tay đang nắm chặt của nàng.
Trong phút hốt hoảng tôi bị trợt chân, té ngồi xuống vũng nước bên lề đường. Khi chống tay ngồi dậy tôi thấy  một đám tang đang đi qua.
Tôi đứng một mình  nhìn đoàn người lặng lẽ bước theo chiếc quan tài để tiễn đưa linh hồn người xấu số đến nơi an nghỉ. Mắt tôi chớp chớp, tự nhiên thấy lòng mình buồn vương nhè nhẹ. Gió lộng. Buổi chiều mùa đông đầy mây xám.

Khói thuốc trên môi làm mắt cay cay. Đột nhiên tôi ném điếu thuốc đang hút dở lên vệ đường, đưa ngón tay dụi mắt. Lúc mở mắt, trái tim tôi nhói lên một cách bất ngờ. Và đột ngột rú lên. Tôi vừa nhìn thấy khung ảnh của người đàn bà trên linh cửu. Khuôn mặt thân quen xa vời như từ kiếp trước hiện lên.Tôi bàng hoàng: Đó là  bức hình  của người vợ thân thương!
Sững sờ. Tay chân tôi bủn rủn, tê dại.
Mồ hôi vã ra đầm đìa. Đưa tay xoa xoa hai bên mí mắt, tôi hiểu đó chỉ là một cơn mộng dữ nhưng những đầu ngón tay của mình hình như ươn ướt. Trái tim tôi thót lại khi nghĩ đến cuộc sống về sau vĩnh viễn không có nàng.
Từ đấy  tôi sẽ mãi mãi đơn côi. Niềm vui, nỗi buồn… sắp tới sẽ không còn ai để chia sẻ nữa.

Từ phòng khách tôi tung chăn ngồi dậy.Tần ngần. Do dự một lát, rồi thẫn thờ bước sang phòng ngủ, giang sơn và tổ ấm của thời tình yêu lãng mạn.
Không gian lúc này như chìm trong băng giá.
Lúc đó vợ tôi đang ngồi trên mé giường, hai tay chống lên cằm, đăm chiêu. (Nàng vừa thức giấc hay đêm qua cũng không ngủ được?). Tôi nhẹ nhàng bước tới, trong ánh sáng mờ ảo ngắm nhìn gương mặt trẻ trung và buồn bã của nàng, tôi đứng im giữa phòng, mãi không nói lấy lời nào. Đôi chân tôi run lên từng chập. Lòng xốn xang, bức rứt. Trong đớn đau, tôi chợt hiểu cái giá của sự mất mát. Chao ôi! nhường một bước, đâu có phải  thiệt thòi hay thua cuộc. Còn câm lặng, chia lìa mới là nỗi đau canh cánh trong niềm ân hận suốt đời. Trong khoảnh khắc tôi nhìn thấy khuôn mặt của vợ chồng tôi trong những  ngày mới cưới. Hình ảnh êm đềm xưa ấy, giờ xa vắng mơ hồ, và dường như còn có mang thêm một chút gì diễu cợt và cay đắng!
Xa xa, tiếng còi tàu cô đơn rúc lên trong sương lạnh.
Bất giác, tôi lướt đến ngồi bên cạnh, khẽ khàng vuốt mái tóc gợn sóng của nàng. Đôi mắt nàng khẽ chớp:
“Gì vậy anh?”.
Âm thanh của câu hỏi vang lên như một nốt nhạc thánh thót trong đêm trường; bởi giọng còn hờn trách nhưng tôi  hiểu những lớp sóng âm đó chính là chiếc cầu nối qua hai bờ vực để sẻ chia những cảm xúc đang trào. Cố thu can đảm tôi nhìn sâu vào đôi mắt vừa mở to, vụt khép lại, của nàng: “ Em…chúng mình còn…định…làm khổ nhau đến bao giờ nữa?”
Và lúc ấy…
Phép lạ, xảy ra.
Nàng như ngã vào lồng ngực rồi bất giác ôm chầm lấy tôi như  đã từng chờ đợi  những lời khó nói này từ lâu lắm. Can đảm không biết ở đâu tràn đến, giọng tôi còn vỡ ra, gấp gáp: “Không bao giờ anh sống xa em được. Em mãi là phần đời tốt đẹp và hạnh phúc nhất của anh…Anh…x…xi…xin lỗi”. Nàng không nói gì nhưng bàn tay huyền diệu đang ôm lấy đầu tôi, ve vuốt.Và ngay lúc đó cả hai chúng tôi đều nhẹ hẳn lòng.
Tôi nhìn vợ tôi. Hai mắt nàng cũng long lanh chiếu sáng. Chúng tôi  nhìn nhau như vừa cùng  trải qua một cơn ác mộng: Trong khoảnh khắc chúng tôi vừa đánh mất, vừa tìm được hạnh phúc bên nhau, bước qua những mặc cảm ngu xuẩn để quay lại tình yêu của thuở ban đầu.
Trên mặt trùng dương bừng bừng giông bão của cuộc sống chung, bao con thuyền mỏng mảnh đã  bị nhấn chìm. Còn chúng tôi, do một may mắn tình cờ của định mệnh đã lèo lái được để cuối cùng cập bến, gắn liền số phận của đời nhau thêm một lần nữa. Vậy thì, cảm ơn Chúa, đâu phải cơn ác mộng nào cũng mang đến kinh hoàng hay đổ vỡ, bởi nó cũng có thể mang lại những điều tốt hơn mong đợi.
Lòng ngập tràn hạnh phúc, nhưng nước mắt chúng tôi cứ rơi lã chã, ướt đẫm vai nhau.

Trương Văn Dân

Viết tặng Gianni và Angela

Read Full Post »

Mộng trong giấc mộng

             Trương Văn Dân

Khi tỉnh giấc, tôi không nhớ gì về mùi vị của nụ hôn đêm ấy, nhưng chẳng sao quên nỗi rạo rực của mình như cậu thanh niên vừa bước qua lứa tuổi dậy thì. Toàn thân  lâng lâng, tôi như chiếc bong bóng lờ lững trên mây, lòng miên man với cảm giác diệu kỳ của kẻ vừa giã từ cõi thực. Điều kỳ lạ ấy bắt nguồn và phát xuất từ đâu, khi nó đã quá xa cái thời mới lớn và dĩ nhiên sự tiếp xúc của đôi môi hôm ấy không phải là nụ hôn đầu? Cái gì đã khiến một người đã dạn dày mưa nắng như tôi, lòng bỗng nhiên chùng xuống trong vòng tay của người con gái đang chập chững bước những bước đầu vào cõi yêu đương?
Chìm trong không gian mờ ảo của hoàng hôn đang bắt đầu buông xuống, tôi không còn can đảm nhìn sâu vào hai nguồn sáng hình hạnh nhân đang phát ra những tia thơ ngây và cuồng nhiệt. Khuôn mặt nàng lấp lánh như gương, trên đó có đôi môi mọng đỏ khi tôi vừa buông ra để chiêm ngưỡng trong một giây ngắn ngủi. Mùi thơm da thịt của nàng làm tôi ngây ngất và tôi như hoàn toàn lịm đi trong nỗi đam mê và cuối cùng chỉ còn nhớ là mí mắt của nàng mở ra, khép lại để vĩnh viễn nhốt mình bằng chiếc vòng kim cô tình ái.
Mặn? Ngọt? Đó là dư vị của hương thơm hay mật đắng? Nó mơ hồ hay cụ thể ra sao tôi không còn nhớ, nhưng tôi biết là từ nụ hôn ấy, cuộc đời tôi và nàng đang đi vào một khúc quanh; nó sẽ dẫn về đâu, chưa biết, chỉ biết là từ ngã ấy, hai cuộc đời đã được nối với nhau bằng những sợi tơ định mệnh. Linh cảm ấy khiến lòng tôi vừa vui vừa buồn và tâm trạng phức tạp  đã khiến tôi muốn bước ra ngoài giới hạn của cuộc phiêu lưu…nhưng cũng chính lúc đó, tôi bỗng nhận ra là quá trễ, và trong khoảnh khắc trôi qua tưởng chừng ngắn ngủi, chúng tôi đã cùng bay bằng vận tốc  ánh sáng một quãng không gian bất tận.
Nhưng rồi cũng đến lúc chúng tôi phải buông ra, thẹn thùng và say đắm nhìn nhau trong một thứ ánh sáng của buổi chiều đang tắt nắng.
Lúc ấy, tiếng chim chiều bay về tổ  đang quang quác trên cao.
&


Tôi không nhớ mùi vị của nụ hôn nhưng khi người con gái sắp quay đi thì dường như mình vừa cảm thấy dư vị của nó mằn mặn rồi để lại chút gì đăng đắng trên đầu lưỡi. Tôi khẽ khàng bóp nhẹ đôi bàn tay khẳng khiu nhưng mềm mại của nàng, quyến luyến vuốt ve cánh tay dài đang buông xuôi trong giây phút giã từ như một sự chạy trốn, để chợt nhận ra rằng nụ hôn đầu nhưng có dáng dấp của một cuộc chia ly.Tiếng guốc của nàng đều đều đập lên nền đất và từ từ lan xa, nhưng  âm vang của nó như vẫn còn vang vọng mãi trong nỗi trống trải của trái tim tôi.
Tôi đứng bất động nhìn theo thân hình mảnh khảnh đang hối hả bước đi, như không dám quay đầu lại. Gió thổi vi vu làm tà áo dài màu hoàng yến lất phất bay lên mà nàng không buồn giữ lại; và hình ảnh ấy ngưng lại một khoảng rất lâu trong mắt. Bất giác thở dài, tôi không còn nhớ là đã bao nhiêu năm, một hình ảnh tương tự như thế đã từng in đậm  vào lòng mình, khắc ghi từ bấy đến nay, và giờ dường như hai hình ảnh ấy đang bắt đầu chồng lên rồi cuối cùng chập vào nhau.
Hai hình ảnh xưa, nay chồng lên rồi nhập vào nhau, phát ra những đợt sóng,lan xa…tưởng chừng như biến mất…nhưng thoắt một cái, chuỗi âm thanh từ cõi xa xôi của ký ức bỗng vọng về như tiếng rền trong thạch động…bất giác gợi lại trong lòng tôi những  kỷ niệm tưởng đã ngủ quên một thời.
Người con gái xa xưa, từ lâu tôi cứ ngỡ là đã không còn nữa, đã thuộc về một đời sống khác, đâu đó còn ở lại trên quê hương, hay cũng như tôi, lẫn lộn trong đám người chạy loạn… không biết trôi dạt về đâu, thoát ra được nước ngoài hay bất hạnh bỏ thân giữa trùng dương giá lạnh? Nàng còn sống hay đã chết? Có còn nghĩ đến tôi hay đã vĩnh viễn quên, an phận với chồng con, và kỷ niệm xưa đã mãi mãi phai mờ? Thời thế đổi thay, bao nhiêu biến cố dồn dập đổ lên đời sống, tôi sẽ không bao giờ oán trách vì năm tháng dạy cho tôi là mỗi người đều có một hoàn cảnh cho riêng mình và không phải lúc nào cũng có thể làm chủ được tình thế.
Bao năm rồi tôi không một tin tức của nàng !
Thân nhân, bạn bè từ khi khoiù lửa bùng lên đều tán loạn, táo tác như bầy ong vỡ tổ và  dung mạo người xưa xa vời rồi bặt tăm, giống như hòn sỏi rơi xuống mặt hồ, chìm xuống đáy rồi âm thầm trả lại sự tĩnh lặng cho mặt nước. Nhưng trong chuyến về thăm ngắn ngủi và…thoắt một cái, trong giấc mơ đêm ấy, những bọt nước từ dưới tầng sâu lại đột ngột sủi lên, rồi trong khối cầu ngũ sắc của bọt bong bóng có mang theo hình ảnh của  tà áo dài phất phơ trong gió .
Tất cả những ảo giác đó làm gợn lên trong lòng tôi những con sóng, lan xa và lan ra mãi.

Thời gian từ cuộc chia tay ấy đến nay đã xa, xa lắm. Mọi vật đều đã đổi thay. Cố nhân ra sao tôi không hề biết, còn tôi thì như cành cây bị bứng  rễ  rồi tiếp tục gửi thân nơi đất khách quê người.
Người xưa…có làn da trắng, cặp mắt đen huyền và  thân hình mảnh khảnh, luôn tha thướt yêu kiều trong chiếc áo dài màu cỏ biếc. Ở nàng có cái gì đó cứ bắt tôi phải quan tâm và ước muốn được chở che, bảo bọc. “Mãi mãi anh sẽ không bao giờ làm những gì mà em không thích” tôi thường thì thầm vào tai nàng như thế và nàng thường nhìn sâu vào mắt tôi, cảm động.“Em cũng xin hứa là sẽ không bao giờ để anh buồn, nhưng anh phải nói cho em biết những gì  làm  phật ý để em cố tránh”.
Làm sao tôi quên nổi kỷ niệm một đêm trăng sáng bên nàng. Tiếng nói ấm áp của nàng như vẫn còn văng vẳng đâu đây.“Lên thành phố mới có hai năm mà có lúc em tưởng mình đã quên là trên trời còn những đêm trăng sáng. Trăng ở quê em đẹp lắm, khi trăng lên thì sáng cả bầu trời chứ chẳng phải chiếu sáng nơi này mà đẫm tối nơi kia. Lúc ở quê, em  và bạn bè thường ra bến sông La Ngà, ngắm mặt nước lấp lánh như muôn ngàn vảy bạc”.  Tôi nhớ đã quay lại nhìn nàng. Khuôn mặt trái xoan ướt đẫm ánh trăng cũng đang ngước nhìn tôi. Trong đôi mắt của nàng, tôi như thấy hai vì sao đang long lanh chiếu sáng. Ánh trăng đêm huyền diệu đêm ấy đã xoá tan những nhọc nhằn và bất trắc của đời sống. Một đêm yên bình. Có cái gì huyền ảo  trong không khí và tôi có cảm giác như vừa trút bỏ những phiền lụy  để bay về một chân trời mơ ước, trong đó chẳng còn đạn bom, súng nổ, trong đó không còn những toan tính thấp hèn hay những tan tác đổi đời, những cuộc chia xa.

Tình yêu đầu đời của chúng tôi trong sáng và đẹp như thơ, tôi luôn nhắc nàng hãy nghĩ đến tôi mỗi khi gặp buồn bã khó khăn, để trút bỏ những ưu tư sầu muộn hay có thể ẩn mình như con tàu tránh bão trong vùng vịnh an lành. Nàng đã cảm động xiết bao, chỉ tiếc là ông trời quá quắt đã không cho tôi giữ tròn lời hứa, rồi chúng tôi mất nhau, trong những ngày tao loạn của biến cố 1975.
Sau đêm trăng huyền diệu đó, chúng tôi còn gặp lại nhau vào một buổi chiều…mà có lẽ không ai nghĩ đó là lần cuối  thấy nhau. Và, có lẽ từ nỗi đau âm ỉ ấy mà hình ảnh tà áo dài thướt tha bay trong nắng chiều tuy chỉ thoáng qua mắt tôi trong khoảnh khắc mà ăn sâu vào trí nhớ suốt cả đời người.

Đời sống của tôi và  nàng từ đó đã hoàn toàn thay đổi.
Trong cuộc sống quay cuồng vật chất của xã hội phương Tây, tôi bị đời bắt phải lao theo nhịp sống xô bồ, nhưng cũng có lúc tìm ra vài phút giây bình lặng và chợt nghĩ đến nàng; cái nhớ không quay quắt làm mất ăn mất ngủ, nhẹ nhàng nhưng ngấm sâu vào máu thịt. Hoặc cũng có lúc vì tình cờ bắt gặp một dáng dấp yêu kiều, một nụ cười, khoé mắt, một vạt áo dài, mái tóc của ai đó trong một  dáng đi hao hao từa tựa …hình ảnh người xưa chợt trở lại trong lòng tôi như một gợi nhớ không thể phôi phai.
Đó là những kỷ niệm êm ái…và ngọt ngào nhất mà tiềm thức đã cất giữ trong một ngăn nào đó của tâm hồn mà tôi đã mang theo như một thứ hành trang trong những năm tháng sống ở xứ người. Nó đẹp đến nỗi có lần tôi nghĩ, nếu có thể mãi mãi mang theo một hình ảnh trong tim suốt cuộc nhân sinh thì tôi sẽ chọn lấy vóc dáng thon thả của nàng bước trên thảm cỏ  xanh  và những vạt áo dài phất phơ bay trong nắng chiều còn vương lại.
&

Sau bao năm, trong giấc mơ tôi đã gặp lại nàng, cũng chiếc áo dài tha thướt, cũng cái nhìn đoan trang và nụ cười dễ mến,  tựu  trung thì đây vẫn là một hình ảnh cũ, chỉ khác là người con gái trong giấc chiêm bao hãy còn rất trẻ, còn tôi thì tóc đã điểm sương và tâm hồn thì dạn dày mưa nắng. Tôi trở lại quê hương, để đặt lại vấn đề an nghỉ cuối đời vì mệt mỏi sau nhiều cuộc hành trình vinh nhục ở  những nơi chẳng phải quê mình. Tôi sẽ tìm thấy gì ở đây sau nhiều năm xa xứ? Mọi vật đâu có còn như xưa, tất cả đã đổi thay và lòng tôi cũng đã nhiều thay đổi. Nhưng dẫu sao thì  tôi cũng dễ dàng chấp nhận, vì cuối cùng cũng quay về nơi tôi mở mắt chào đời, nghe lại tiếng hò điệu hát đã ru tôi  suốt quãng đời thơ ấu. Tôi mong là mình sẽ không đến nỗi bơ vơ như nơi chốn nào bên bờ Địa Trung Hải, xin cảm ơn mảnh đất đã cưu mang và nuôi sống tôi từ bấy đến nay, nhưng tuổi đời sắp chất chồng đã không giúp tôi hội nhập như xưa. Những năm tháng sau này tôi đã chiêm nghiệm  rồi ngán ngẩm cái đời sống lạc lõng, không hội nhập của người già, và nếp sống điên cuồng, thực dụng quá đáng của  lớp trẻ. Mọi vinh nhục, mất còn, thành công, thất bại, bây giờ đối với tôi, chúng chẳng còn mang sức quyến rũ như xưa. Trong tôi chỉ còn nỗi ngậm ngùi và xót xa của người con xa xứ, rồi chợt  nhớ  hai câu thơ  của Nguyên Sa :
Một đời phơ phất hành nhân
Thấy còn, thấy hết, cuối cùng thấy đau
Rồi tự hỏi lòng, suốt những tháng năm qua mình đã mất và được gì ?

-Anh nói gì cho em nghe đi !
Trong giấc mơ, lúc mông lung nhìn vào khoảng trống, tiếng thỏ thẻ của nàng đã làm tôi giật mình quay lại. Khi thấy đôi mắt  mở to, tôi bất giác rùng mình vì  thấy trong đó cái chiều sâu mênh mang của linh hồn người con gái trẻ, trong đó có một niềm vui vừa mãnh liệt vừa hoang dại. Tôi sẽ phải nói gì với em đây? Thế giới của em và của tôi vô cùng khác biệt, những gì tôi sẽ kể hay nói cho em, có thể em sẽ hiểu, nhưng làm sao thấu được ; lẽ đơn giản  bỡi vì  em chưa từng sống những kinh nghiệm đó. Tôi tuyệt nhiên không biết nói gì, chỉ im lặng nắm lấy bàn tay bé nhỏ của em, đặt lên đó một chiếc hôn rất khẽ.
Khi ngẩng lên nhìn khuôn mặt của người con gái, màu da  trắng mịn, không một vết nhăn ở bất cứ nơi đâu, lòng tôi vừa thoáng một chút ganh tị, vừa mơ hồ nuối tiếc cái tuổi xuân không còn nữa của mình rồi bất giác áy náy vì mới tạo nên một nếp gấp trong tâm hồn son trẻ của nàng. Lòng bỗng dâng lên một niềm hối hận. Người con gái hiện ra trong giấc mộng Trang Sinh hãy còn quá trẻ, có lẽ chưa có nhiều sầu muộn cho hiện tại hay mang nhiều lo lắng cho tương lai, và chắc chắn quan hệ trong phút giây ngắn ngủi nầy là vết rạn đầu  tiên mà nàng vừa hứng chịu mà có thể chính tôi là tác nhân của vết xước đầu đời.
Niềm ân hận dâng trào trong tôi. Tôi muốn tự trách mình. Phải chăng tôi vừa mở toang cánh cửa  quá khứ, cố níu vào hình ảnh người xưa như cái nạng  để chống cho khỏi ngã vào tình cảm của người con gái trẻ? Điều xảy ra là mộng hay thực? Tôi và nàng vì đâu lại gặp nhau trong giấc mộng oái ăm, của người đã đi gần đến cuối quãng đường đời, còn kẻ khác hãy còn đang khập khễnh bước những bước đầu tiên? Người con gái ấy là một người hoàn toàn khác hay chỉ là hình ảnh người xưa đã dừng lại trong lòng tôi, khi thời gian bên ngoài vẫn ào ào tuôn chảy, bỡi thế những nếp gấp của thời gian không ghi lại dấu vết nào trên khuôn mặt kiều diễm của nàng? Người mới hay cố nhân? Sự khác biệt tuổi đời là thực hay chỉ là ảo ảnh? Những câu hỏi dồn dập đến rồi đi, không tìm được câu trả lời.
Mở ra cánh cửa quá khứ, tiềm thức tôi muốn biện minh điều chi hay sợ phải “yêu” nàng? Bao nhiêu dư luận phán xét sẽ nổ ra nếu không dừng chân kịp? Nhưng thật ra, nghĩ cho cùng, thì giữa tôi và nàng chẳng có rào cản nào quan trọng, ngoại trừ sự chênh lệch tuổi tác ; và thấy mình  không nên xem nặng quy ước xã hội hay ép mình theo thói quen suy nghĩ của người đời.Nhưng vấn đề có thể nằm ở chỗ khác : Liệu người con gái “này” có thể thay thế cái khoảng trống mênh mông mà từ bao nhiêu năm cuộc đời đã để lại cho tôi? Rồi chợt nghĩ đến những kinh nghiệm khác biệt về môi trường và kinh nghiệm sống của hai người, đến tương lai mờ mịt của những ngày sắp tới…tôi lại giật mình, thấy như đời mình vừa bước hụt một bước, lại chông chênh sắp hụt thêm bước nữa.

Lúc đặt môi lên trán trong chiếc hôn từ giã, tôi thoáng thấy hai hàng mi cong và dài của người con gái mở ra rồi buông hờ như phó mặc cho số phận…và cũng chính trong khoảnh khắc chênh vênh giữa mộng và thực đó, tôi thấy đôi mắt nàng long lanh, đẫm ướt. Những ngấn lệ ấy là niềm vui? nỗi buồn? Hay chính là sự hoà hợp của hạnh phúc lẫn thương đau, của tiếng cười, giọng khóc luôn ẩn tàng trong quyến rũ muôn đời của  đam mê và vực thẳm? Dường như trong giây phút mơ màng, tôi đã thì thầm : chuyện đôi ta giống như tiểu thuyết …rồi nghe tiếng đáp lại của nàng giống như tiếng nấc : em hy vọng là nó sẽ không có một đoạn kết bi thương.
Tôi cũng muốn một đoạn kết nhân hậu, sắp nói lên như thế nhưng tôi lại lặng im khi hình dung về những ngày sắp tới. Tôi sẽ phải làm gì? Và nàng sẽ ra sao? Xung quanh tôi, đời sống còn bao nhiêu hệ luỵ, những mạng nhện chằng chịt xung quanh cuộc đời tôi, mà mỗi đầu mối đều có liên quan đến một số vấn đề. Tôi có thể cắt bỏ tất cả? Đoạn tuyệt với quá khứ?  Quên bẵng hiện tại? Và có thể chỉ nghĩ đến một tương lai, bên nàng? Nghĩ thế, băn khoăn đến thế  nhưng liệu tôi có đủ can đảm để  chối từ một cơ hội sống những xúc cảm bồng bột của thời mới lớn mà cuộc đời đã dành cho tôi và nàng ? Tôi sẽ phải từ bỏ niềm ước mơ của  kẻ đã từng trải những tháng ngày gian nan nơi xứ lạ, khi tri thiên mệnh gắng quay về cố quận để tìm phương thuốc trường sinh? Hay sẽ lao vào cuộc tình “mới”, như gã lái đò lưng còng tóc bạc, sau bao năm chẳng thèm đếm xỉa đến thác ghềnh, bỗng một hôm sóng gió bừng bừng réo gọi, chợt thấy máu mình nóng lại rồi khăn gói lên đường để tìm lại sức sống ào ạt của biển khơi …nhưng cuối cùng bão táp sẽ chẳng buông tha  kẻ không tự lượng sức mình?

Tôi lặng người, châm một điếu thuốc, hờ hững gắn lên môi, nhìn khói bay lãng đãng lên bầu trời xám xịt vì những đám mây đen đang ùn ùn kéo đến rồi bất giác buông ra một tiếng thở dài. Tôi thừa biết những giới hạn của ước mơ và quá hiểu là chuyện đời còn rất nhiều điều đang nằm ngoài tầm tay của mình.

Trương Văn Dân

Viết tặng B T
Milano 13-11-2003

Read Full Post »


Lời giới thiệu

BÀN TAY ẤY VẪN THANH XUÂN

Vẫn là câu chuyện về tình yêu và cái chết.

Vẫn là câu chuyện khổ đau và hạnh phúc

Vẫn là câu chuyện hỗn loạn và bình an.

Nhưng Bàn tay nhỏ dưới mưa vẫn mang một phong vị đặc thù.

Người đàn bà tên là Gấm tìm kiếm sức mạnh để sống và để chết trong một phối cảnh đáng sợ: trái đất đang chết dần.

Con người tham lam

Và trái đất cạn kiệt.

Thiên nhiên, bà mẹ của phong nhiêu, từ nhiều năm qua đã sống lây lất đoạn trường giữa một nền văn minh điên loạn.

Nhiên liệu sống liên tục bị đốt cháy một cách phí phạm và vô ích trong cuộc đời hối hả cuồng quay.

Người đàn bà khát sống ấy đã chết trên một cõi đất hoàng hôn hấp hối:

“Nhìn nét thanh thản và mãn nguyện trên khuôn mặt Gấm tôi hiểu là người tôi yêu đã chết, nhưng không phải vì ung thư. Cô ấy chết vì ngộp thở khi bay đến đỉnh cao và hạnh phúc. Tình yêu và sợ hãi mất mát đã gặm nhấm buồng phổi, nó đốt cháy nhiên liệu sống và triệt tiêu toàn bộ năng lượng sinh học của nàng.

Thế giới bừng lên rồi chìm trong màn đêm đen kịt, chỉ có một tia sáng duy nhất là từ trái tim tôi, cháy bùng như ngọn đuốc, bay vút lên trời, quán chiếu vũ trụ này trong một niềm đau vô cùng vô tận.

Cái phong vị nồng thắm của tác phẩm nằm trong những nghịch lý mà nó muốn hóa giải: sống – chết, khổ – lạc, sáng – tối, mất – còn, ngã – tha, cũ – mới, tự nhiên – văn minh, vô thường, vĩnh cửu,…

Chọn điều này sẽ phải bỏ điều kia, và như vậy khác nào đánh mất cả hai?”

Nhân vật và người kể chuyện muốn vượt qua vô vàn tình huống phân biệt đó để trải nghiệm cái nhất như hoan lạc, một tư tưởng nhuốm màu sắc Phật giáo, đặc biệt phảng phất hương vị Kinh Duy Ma.

 

Bàn tay nhỏ dưới mưa là một tác phẩm đương đại, pha lẫn tiểu thuyết và tiểu luận, trữ tình văn xuôi và ký sự báo chí. Lằn ranh giữa những thể loại ấy dường như bị xóa nhòa, như một chiếc cầu trong mưa trong một bức tranh ấn tượng.

Dù vậy, ta vẫn nhìn thấy “bàn tay nhỏ dưới mưa” của tác giả, một bàn tay vẫy gọi của tình yêu?

Tác giả Trương Văn Dân không còn trẻ, nhưng bàn tay ấy vẫn thanh xuân.

Để viết những dòng văn đầy xao xuyến, đầy nhục cảm, đầy tâm linh, đầy kích động mà cũng đầy bình an.

Nhà Văn Nhật Chiêu

Bàn tay nhỏ dưới mưa

Trích đoạn 2        Ám ảnh

Tóm tắc: Sau một thời gian chung sống cực kỳ hạnh phúc thì “tôi chợt hiểu  rằng hạnh phúc không phải là thứ mà ai cũng được quyền sở hữu. Có hay không, đó là ý muốn của thần linh. Chỉ có các thần  thánh mới có thể tạo nên điều hoàn hảo; còn con người, dù tài hoa cách mấy cũng không được phép.” Và sự tồn tại tình yêu tuyệt vời của tôi và anh là một sự xúc phạm. Mà một khi đã xúc phạm đến thần linh thì trước sau cũng bị trừng phạt.”

Khi người đàn ông đi công tác, bị tai nạn và phải nhập viện ở xa. Và cũng trong thời gian này Gấm lại phát hiện mình bị ung thư.

Đây là trích đoạn về nỗi ám ảnh và cơn ác mộng của Gấm:

 

 “….Tôi chả tâm sự với ai về những gì đang xảy đến với mình. Bởi cái làm tôi đau thì chỉ mình tôi cảm thấy đau. Điều làm tôi lo lắng chỉ mình tôi lo lắng. Trong nỗi đau này chắc chẳng ai hiểu được tôi mà có lẽ tôi cũng chẳng hiểu được ai. Tôi nghĩ mọi an ủi xã giao vô thưởng vô phạt của bạn bè đều vô ích. Nó chỉ làm mình tủi thân. Vả lại, do tính cao ngạo, tôi hoàn toàn không muốn biến thành đối tượng cho sự thương hại của bất kỳ ai.

Nhưng còn anh? Tôi cũng chưa nói gì với anh về căn bệnh!

Tôi sẽ phải làm gì đây? Nói cho anh biết sự thật hay âm thầm trốn chạy? Tôi sẽ phải làm gì? Thế nào là chọn lựa “đúng” trong lúc này?Tôi không biết. Băn khoăn, tôi thường hay đến bên cửa sổ, ngơ ngẩn nhìn người qua lại. Mỗi con người đều có  vẻ vội vã, hấp tấp đến, vội vàng đi. Tôi nhìn họ,  một chút hờn ghen  trỗi dậy vì tất cả đều biết mình sẽ đi đâu, còn tôi chẳng biết mình sẽ làm gì.

Chẳng có ai nói cho tôi biết.    ”

………

 

“…Trời gần sáng nhưng người tôi ê ẩm, không dậy nổi. Đột nhiên tôi nghe có  tiếng động nhỏ trên sàn. Tiếng động như cào nhẹ, tôi nhìn thấy những vết màu đen, to bằng ngón chân cái, như những trái táo tàu nằm rục rịch trên sàn. Ban đầu ít, thưa thớt. Thoắt cái,  táo từ trần nhà rớt xuống. Mỗi lúc mỗi nhiều. Lăn. Di chuyển. Chậm chạp. Bỗng một trái chạy lướt qua, bất ngờ hiện thành một con gián. Rồi một con đen đúa khác chạy theo, con thứ  ba, thứ tư…những bước chân nhỏ xíu thoăn thoắt chạy. Vài con đứng giương râu nhìn quanh quất. Có một con chạy lạc, bò lên tấm chăn đang đắp trên vùng ngực. Tôi hốt hoảng, muốn hất nó nhưng  cánh tay cứng đờ, không vung lên nổi.

            Thế rồi nhiều con gián khác, mười, hai mươi… hằng trăm con đổ ra từ mọi phía. Chúng leo lên giường, bò lên tủ, chạy trên  thảm, tràn ngập khắp  căn phòng. Thoắt một cái, chúng hiện diện khắp nơi…có con còn dám chui vào chăn. Tôi lạnh mình, hai tay bấu chặt mép chăn, ép người sát nệm. Nhưng cảm giác rùng rợn của những que chân bò lướt trên da, bò lên bò xuống dọc theo cơ thể vẫn không chấm dứt.Tôi giãy dụa, ngồi bật dậy, tung mền, huơ tay cố hất …nhưng  hai bàn tay lạc lõng, quơ vào khoảng không.

Hoảng, tôi hét lên và muốn nhảy xuống đất, nhưng đôi chân cứng ngắt, không đỡ nổi thân mình. Có một sức lực vô hình giữ lại khiến không cựa quậy.

Tôi thu mình, nửa nằm  nửa ngồi. Lưng dựa vào thành giường.

Chết ngất.

Những con gián vẫn hùng hổ chạy. Tôi chỉ nhớ là cảnh đó diễn ra rất lâu. Không dứt.

Cuối cùng tôi ngã lăn ra.

Mất hẳn mọi ý niệm về thời gian.

Rồi tôi tỉnh lại thấy mình nằm dưới đất. Đau đớn. Khắp người ê ẩm. Một nỗi khiếp sợ vẫn bám lấy. Toàn thân tôi mệt mỏi một cách tuyệt vọng.Tôi cảm thấy như gã thần chết đang sờ mó trên thân thể mình. Trong đời người sao lại có thể cảm thấy cái chết đến gần mình đến thế. Tôi nghe được hơi thở của gã. Một thứ mùi khét lẹt như nhựa cháy.

Căn buồng mất ánh sáng, tối lờ mờ.

Màn đêm đắng nghét.

Có một bàn tay vừa chạm lên người tôi.

Tôi hét lên….

 Kinh hoàng.

Lúc mở mắt thì thấy anh ngồi trong phòng đang ve vuốt lấy đầu tôi.

            Thế là người đàn ông quan trọng nhất thế giới này đã trở về!

            Xương thịt của tôi mà định mệnh đã từng muốn cắt lìa!

 

Anh đặt một bàn tay lên trán tôi. Hơi ấm của bàn tay chồng lên nỗi lạc lõng, lo âu. Anh giữ lại thật lâu và cho tôi cái cảm giác là tôi sẽ không còn bơ vơ nữa. Anh áp đầu tôi vào ngực anh rồi thì thầm: “Em vừa  mới đi qua địa ngục phải không?”

 

Read Full Post »

Elena Pucillo Truong ( Italia)

Nguyên tác : Sempre mano nella mano

( Bản dịch của Trương Văn Dân)

 

Tiến sĩ ngữ văn Elena Pucillo Truong là một cô dâu Việt quốc tịch Ý. Vì cây dây leo, có thời chị đã theo chồng sang TPHCM dạy tiếng Ý tại nhạc viện TPHCM. Chồng chị là dược sĩ Trương Văn Dân, dịch giả văn học Ý sang tiếng Việt. Tự nhận mình là “người yêu Việt Nam” ( L’amoureuse du Viet Nam) – đúng vậy, không yêu sao lấy chồng Việt lại cả gan làm dâu trưởng nữa?- chị và chồng quyết định sống đời hưu trí ở TPHCM để phụng dưỡng mẹ già và viết văn. Từng cộng tác với một số tờ báo văn học Ý, Elena còn viết truyện ngắn nữa. Truyện Bàn Tay Trong Một Bàn Tay vừa viết ở Sài Gòn của chị do anh Dân dịch sang tiếng Việt, là tiếng nấc cho kiếp người, Ý hay VN thì cũng thế. Một tiếng nấc bất khả kháng nhưng không buồn mà nồng ấm, không thảm mà nhen nhóm hy vọng, dù mơ ước da diết nhất của hai nhân vật yêu nhau đến phút cuối đời chỉ là được chết bên nhau. Truyện rất ngắn, chỉ là vài nhát cắt, nhưng có bề dày và sức nặng của hai cuộc đời biết sống, đáng sống, ai bảo truyện ngắn là ngắn?

Nguyễn Quang Thân  

Lớp trẻ, tuổi ba mươi, bốn mươi…lúc nào cũng vội vàng, hấp tấp, đi và đến trên các phương tiện tân thời, xe hơi, bus, taxi…họ chìm giữa tiếng ồn ào của cuộc sống bon chen đô thị, giữa những cao ốc nguy nga, hàng dãy bảng hiệu với ánh đèn chiếu sáng, biểu tượng của một thế giới hiện đại và lý tưởng đang phát triển, mang vẻ ngoài đẹp đẽ và trẻ trung…

Có hai người già lạc lõng, rải bước đến chiếc băng gỗ quen thuộc đặt ở góc công viên. Tay trong tay, nụ cười như in trên hai khuôn mặt đã có nhiều nếp nhăn theo năm tháng. Ông lão nắm tay bà, cẩn trọng đỡ người bạn đời của mình, nhẹ nhàng giúp bà ngồi xuống một cách thoải mái. Mỗi cử chỉ của ông đều lịch sự, chậm rãi và cẩn thận, cùng những lời yêu thương ngọt ngào, như ông đang che chở và ve vuốt một chú chim non.

Ngày nào cũng thế… tôi chẳng biết bắt đầu từ lúc nào, nhưng có lẽ từ lâu lắm. Mỗi ngày mỗi khác và nhìn qua cũng dễ nhận ra tình cảm giữa hai người vẫn thiết tha, mạnh mẽ. Nó tương phản hoàn toàn với thế giới ồn ào xung quanh như một nghịch lý.

Cái vũ trụ thu hẹp của họ, có những vụn bánh cho vài chú chim sẻ, có những cái vuốt ve cô mèo con bị lạc hay tiếng cười rạng rỡ của một em bé đang tập đi đang ngã vào vòng tay người mẹ nào đó. Hai người luôn mang theo chiếc dù, để che nắng hay phòng ngừa sự chòng ghẹo trái nết từ những cụm mây. Riêng bà thì không bao giờ quên chiếc khăn quàng khổ rộng, sau khi ngồi vững, bà liền âu yếm quấn quanh cổ ông, những cơn gió lạnh đang thổi về.

Tôi tưởng đó là một bức tranh đang đặt trước mắt mình; cảnh thực đó đang nằm ngoài thế giới này. Chẳng biết gì về họ nhưng lâu nay tôi không thể làm gì khác là nhìn ngắm và quan sát họ cho đến khi, sau chừng một giờ, bằng những cử động ban đầu yếu ớt, về sau mạnh mẽ hơn, họ chống tay đứng dậy rồi tay nắm tay bước đi cho đến lúc mất hút giữa dòng người vô cảm.

Rồi sau đó thì sao? Họ sẽ làm gì quãng thời gian còn lại trong ngày? Tôi tưởng tượng  mình đang tò mò theo dõi, bị cuốn hút bởi thứ hào quang hạnh phúc bao quanh họ. Một cuộc đời đơn giản. Chỉ có những cử chỉ quen thuộc nhưng ngọt ngào và trìu mến dành cho người thân. Dĩ nhiên tôi khó mà tưởng tượng ra họ thường có những cơn ác mộng hoặc trong lòng họ đang chất ngất bao điều ưu tư. Đương nhiên, hằng ngày họ có thể vẫn lo lắng và đau khổ, có thể một nỗi đau khủng khiếp sẽ cướp mất hơi thở tối cần cho cuộc sống của người già.

*

Trong bóng tối buổi chiều tàn, bà vợ mắt nhắm nghiền, nằm bất động trên chiếc giường đôi. Hai bàn tay bà đặt trên ngực, những ngón tay nắm chặt chuỗi tràng hạt. Trên chiếc ghế đẩu đặt cạnh giường, ông chồng ngồi gục đầu, kiệt sức sau một cơn khóc tuyệt vọng. Ông liên tục lau mặt bằng chiếc khăn giấy đã ướt rã nước mắt. Rồi, bất thình lình, trong tay ông loé lên ánh thép lạnh lẽo của một khẩu súng. Ông đăm đăm nhìn họng súng, những giọt nước mắt vẫn tiếp tục rơi, làm ướt nòng súng lạnh giá. Ông thì thầm vài lời gì đó, rồi bằng một cử chỉ thật nhanh đưa họng súng chỉa vào màng tang mình. Chỉ trong tích tắc.

Bàn tay rớt xuống! Chẳng có tiếng nổ nào xảy ra.

Hình như trong phút chót sự can đảm đã biến mất…

Cuối cùng ông dợm đứng lên, lấy lại tự chủ, rồi đặt khẩu súng trong ngăn kéo chiếc bàn đêm đầu giường.

*

Bây giờ tới phiên ông.

Ông nằm bất động trên chiếc giường đôi, mắt nhắm nghiền và cũng với chuỗi tràng hạt trên tay. Bà vợ, thận trọng và run rẩy đặt một bàn tay lên trên quyển sách nằm trên ngực chồng. Đó là quyển sách mà ông đã viết và nó sẽ theo ông làm bạn trong thế giới bên kia. Một vài giọt nước mắt ứa ra, rớt xuống trang bìa và làm ướt những ngón tay khẳng khiu, gầy yếu… Rồi bà lão như kiệt sức, ngã gục xuống chiếc ghế đặt cạnh giường. Những ngón tay bà cố gượng vuốt ve, lướt nhẹ lên thân thể thân thương. Bà vuốt đôi mắt, vành môi, khi vuốt đến ngực, bà ngập ngừng dừng lại, như muốn vuốt ve cả trái tim ông… Cuối cùng bà áp tay mình lên bàn tay ông, bàn tay đã từng nâng đỡ và che chở bà suốt một cuộc đời. Nước mắt bà vẫn tiếp tục lăn xuống nhưng bà chẳng có chiếc khăn nào để ngăn chúng lại. Sau những tiếng rên rỉ, bà thì thầm bên tai ông những lời ngọt ngào như đã làm thế trong suốt một đời. Rồi gượng đứng lên, bà áp môi mình lên môi ông, thêm một lần nữa, nụ hôn cuối cùng.

Run run, bà với tay lấy khẩu súng đặt trên chiếc bàn đêm. Một tay nắm chặt tay chồng, còn tay kia, rất tự tin, bà đưa họng súng chỉa vào màng tang mình. Cũng chỉ một tích tắc. Rồi bà ngã xuống trên xác chồng, muốn ôm lấy ông một lần cuối.

Cứ thế, từ hai tháng nay mỗi buổi tối cảnh đó luôn được lập lại như đang diễn trong rạp hát.

Mọi chuyện bắt đầu từ sau hôm đi khám bác sĩ. Trước đó bà thường thấy mệt, nhiều lúc thở rất khó khăn, như bị ngạt, như có một khối đá đè lên lồng ngực trong những chuyến cùng chồng đi dạo. Tay trong tay, trong nước mắt, họ lắng nghe phán quyết của thầy thuốc.

“Tôi rất lấy làm tiếc nhưng trái tim của bà nhà rất yếu…giải phẩu là điều không thể thực hiện nữa… Rất tiếc là tôi không biết phải làm gì để có thể giúp bà, nguy cấp lắm rồi, bà yếu quá…”. Trả lời câu hỏi thầm lặng từ đôi mắt đau đớn và khẩn cầu của họ, ông bác sĩ ngập ngừng nhưng xúc động thành thật:

“Rất tiếc…điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào….”

Sau đó thì hai người già vẫn tiếp tục sống như đã từng sống, nhưng ý nghĩ là bà sẽ đột ngột ra đi, bỏ ông lại một mình vẫn ám ảnh ông mỗi ngày. Bà, người chưa bao giờ rời xa, chưa bao giờ phản bội ông.

Bởi, suốt một đời họ đã luôn sống bên nhau. Trong một thoáng bà hồi tưởng thời hai người còn trẻ, những cử chỉ ngập ngừng và vụng về trong mối tình đầu, trái tim bà chỉ đập khi chờ đợi ông, chỉ vì ông, người đàn ông duy nhất có thể lấp đầy cái khoảng trống trong tâm hồn bà; cũng như chỉ cái nhìn nhân ái của ông mới có thể xoa dịu đi nỗi đau hay mang lại cho bà niềm hạnh phúc. Cứ thế, họ đã sát cánh bên nhau đi qua cuộc đời này. Rồi họ cùng nhau nổi tiếng với các nhà hát kịch trên thế giới. Trên tường nhà họ hiện vẫn còn treo đầy các biểu ngữ giới thiệu các vở kịch Shakespeare, Mann, Eliot, Racine, Molière, Pinter…. có tấm in khuôn mặt, miệng mỉm cười của họ, có tấm chụp họ đang mặc đồ diễn trên sân khấu, đứng giữa những bạn diễn thân thiết mà đến nay tên tuổi vẫn còn sáng chói. Hình như hào quang hạnh phúc đã bao quanh họ từng ngày. Và họ luôn ở bên nhau.

Có lẽ trong cuộc sống hạnh phúc và bình an đó, chỉ có một nỗi đau trong trái tim bà, đó là họ không thể có một đứa con… điều duy nhất của riêng họ, chỉ của họ mà thôi. Nhưng mỗi lần bà vật vã, chỉ cần những lời ngọt ngào của chồng “ Em yêu ơi, xin em đừng tuyệt vọng, không có con chúng ta sẽ yêu nhau nhiều hơn…” là có thể làm dịu đớn đau, xua nó đi, dù chưa hoàn toàn xoá mất.

Rồi cuộc sống đổi thay. Thăng trầm. Chìm nổi. Có lần họ cũng rơi vào cảnh nghèo túng vì từ chối các vai diễn không phù hợp hay không chịu ký hợp đồng với những công ty ca kịch không hoạt động vì nghệ thuật… và cuối cùng, với tuổi tác, họ bình thản từ giã ánh đèn sân khấu, chấp nhận cuộc sống giản đơn, bùi ngùi nhìn lại những kỷ niệm sáng ngời trong quá khứ. Nhưng họ luôn ở bên nhau, luôn luôn hạnh phúc vì người này chỉ sống cho người kia. Và ngược lại.

*

Là những diễn viên tài hoa nên mỗi buổi tối họ đều tự chuẩn bị vai diễn của mình, cố thể hiện thật xuất sắc vai được giao cho họ trong kịch bản cuối cùng.

“ Cái chết. Sự chia lìa sẽ bất ngờ là điều không thể tránh khỏi. Nhưng người nào đi trước sẽ không phải hứng chịu nỗi cô đơn ở thế giới bên kia”.

Ông thường đi lập lại rất nhiều lần:“ Ước muốn lớn nhất là chúng ta có thể chết cùng một lúc, nhưng dễ gì Chúa ban cho ta ân sủng này!”

*

Nhưng, ông đã lầm…

Vài tháng trôi qua. Và chỉ có vài hàng trên một tờ báo.

Trong lúc ngủ trái tim mệt mỏi của bà đã vĩnh viễn ngừng đập. Và ông, bất thình lình thức giấc, tin là còn có thể cứu bà, ông lao tới chụp ống điện thoại để gọi xe cấp cứu nhưng không kịp nữa. Trái tim của ông cũng ngừng đập vì đau đớn, nó chỉ cho ông một tích tắc để đưa cánh tay nắm lấy tay bà.

Đúng là sự việc chỉ xảy ra trong tích tắc.

Sai Gon tháng 8/2011

Elena Pucillo Truong

 

Read Full Post »

LÒNG YÊU SỐNG

 

PHẠM XUÂN NGUYÊN

 

 

Sinh thời, nhà thơ Hoàng Trung Thông khi đang còn là Viện trưởng Viện Văn học, nhân một lần trò chuyện văn chương chữ nghĩa ông bảo tôi là ông không thích cái tên dịch một truyện ngắn của nhà văn Mỹ Jack London là “Tình yêu cuộc sống” (Love of Life). Nhà thơ bảo nên thay chữ “tình yêu” bằng chữ “lòng yêu”. Ông nói chữ “tình yêu” trong tiếng Việt như đã đặc dụng cho đôi lứa nam nữ, còn chữ “lòng yêu” là dùng cho mọi đối tượng. Dịch cái tên truyện của Jack London thành “Lòng yêu cuộc sống” đúng và hay hơn. Tự nhiên tôi nhớ câu chuyện này khi ngồi gõ phím bàn tính viết đôi lời mở đầu cho cuốn tiểu thuyết đầu tay của tác giả Trương Văn Dân mang tên Bàn tay nhỏ dưới mưa. Nội dung cuốn truyện là kể về tình yêu của một người con gái tên Gấm. Gấm đã trải qua hai cuộc hôn nhân không tìm thấy hạnh phúc. Trong lúc đau khổ và tuyệt vọng nhất Gấm đã gặp được người đàn ông của đời mình, người đã mang lại cho Gấm không chỉ một tình cảm lứa đôi (tuy không làm vợ chồng) trọn vẹn, đằm thắm, mà còn cả một cuộc sống làm người đầy đủ, phong phú. Có lẽ vì số phận nhân vật như thế, nội dung truyện như thế, nên tự nhiên mà đọc xong xui tôi nhớ đến cách dùng chữ của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Và tôi nghĩ cuốn tiểu thuyết của Trương Văn Dân là một khúc ca trầm về lòng yêu sống. Không chỉ yêu tình yêu mà còn yêu sự sống, một sự sống đang có nguy cơ bị hủy diệt bởi chính con người. Tình yêu của Gấm và người đàn ông lý tưởng của cô được tác giả đặt vào trong một môi trường xã hội và tự nhiên đang bị con người vấy bẩn, làm ô nhiễm, tàn phá, hủy hoại. Khác với những khung cảnh lãng mạn nên thơ của tình yêu truyền thống. Phần này của truyện lồng ghép một cách trực tiếp, trực diện, có thể chưa phải đã tự nhiên, khéo léo về nghệ thuật, nhưng thông điệp tác giả muốn truyền đi thì đã rõ. Nó giúp tác giả nói lên lòng yêu sống toát ra từ tình yêu của Gấm.

Tôi gọi Bàn tay nhỏ dưới mưa là khúc ca trầm vì tác giả dùng hình thức kể chuyện ở ngôi thứ nhất thông qua cuốn nhật ký của Gấm ghi chép về cuộc đời mình. Những ghi chép này làm thành phần đầu cuốn truyện. Chúng được nhân vật người đàn ông của cuộc đời cô tìm thấy và công bố khi cô không còn hiện hữu về thể xác trên cõi đời. Và đó là phần sau cuốn truyện. Trong những ghi chép của mình, Gấm soi chiếu toàn bộ cuộc đời cô dưới ánh sáng  của cuộc tình cuối cùng. Chủ yếu ở đây là chiêm nghiêm tâm trạng. Những sự kiện, tình tiết được kể lại hay nhắc đến chỉ để khơi gợi nỗi yêu và nỗi đau của Gấm, cho cô những trường hợp để trăn trở nghĩ suy về cuộc đời, tình yêu, và lòng người. Nhân vật người đàn ông nhà báo đã cứu vớt cuộc đời cô, đã yêu cô làm cô hồi sinh và hạnh phúc, được Gấm ngợi ca như một con người toàn bích, lý tưởng. Nhưng lắng sâu vẫn là nỗi buồn lo, phấp phỏng cho sự mong manh của kiếp người, của cái đẹp, cái thiện trong đời. Tác giả dùng lời cho Gấm nhiều những câu dài miên man cảm xúc, nhiều những nhịp điệu thăng trầm tâm trạng. Đồng vọng tương cảm với những ghi chép của Gấm là những cảm nhận, suy tư của người đàn ông nhà báo khi đọc chúng. Người đọc tiểu thuyết vì thế được dòng tình cảm của hai nhân vật cuốn đi mê mải buồn. Dừng ngắt ở chỗ nào cũng là chưa đủ. Mà bắt đầu từ ở chỗ nào cũng vẫn kịp. Có thể đấy là một dụng công viết của tác giả, phải chăng. Câu truyện trong tiểu thuyết có thể là một phần đời đã sống của tác giả, cũng có thể chỉ là hư cấu, điều này tùy thuộc cảm nhận của mỗi người đọc sách. Nhưng khát vọng sống, khát vọng yêu cho con người hạnh phúc giản dị thường ngày, vượt qua và vượt lên những oan trái, khổ đau, cả những bất trắc rình rập từ những hiểm họa thiên tai và nhân tai, đó là điều tác giả tìm mọi cách trình bày và truyền tải đến người đọc qua nhiều lớp ngôn từ được huy động và sử dụng. Cảm tưởng như tác giả muốn rung lắc độc giả lay động theo từng con chữ anh viết để chia sẻ cùng anh những điều tin lo.

Trương Văn Dân nhiều năm sống xa xứ, làm một ngành nghề không dính tới văn chương. Nhưng anh cầm bút trước hết để được sống cho mình, sống với mình, từ những hồi ức kỷ niệm về quê hương, người thân, mà đã là người Việt nặng tâm tình thì dù ở đâu đi đâu làm gì cũng đều canh cánh bên lòng và vấn vương trong hồn. Lòng yêu sống ở anh thấm vào trong câu chữ mộc mạc, chân tình, ngay ở tác phẩm đầu tiên – tập truyện ngắn Hành trang ngày trở lại. Viết tiểu thuyết với Trương Văn Dân còn hơn một sự thử bút ở thể loại dài, đó là sự trang trải, giãi bày một tình yêu, một lòng yêu, của mình cho mình, và cho người. Đọc Bàn tay nhỏ dưới mưa, tôi không để mình bận tâm lắm về kỹ thuật viết, tôi để lòng mình cho rung động theo lòng tác giả và nhân vật, và tôi thương cô Gấm như tác giả thương.

Có một lòng thương người như thế mới có một lòng thương đời đến thế. Và khi đã chạm vào chữ thương thì “người đọc người thương nhau” (Chế Lan Viên). Cuốn tiểu thuyết này vì vậy là một bàn tay vẫy trong mưa với ai cho ai từng có/gặp một người như Gấm. Đấy là sự sẻ chia của/với tác giả.

 

Phạm Xuân Nguyên

( Nhà phê bình văn học)

Hà Nội 29.8.2011

 

Tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa”

     Trương Văn Dân

 

Công ty văn hoá Phương Nam & Nhà xuất bản Hội nhà Văn

Phát hành toàn quốc theo hệ thống  PhuongNam Book

 

Trích đoạn 1

 

 

Tóm tắc : Sau hai cuộc hôn nhân đổ vỡ  và những lần tự tử bất thành,  sau bao vật vã, trong một đêm mưa em đã tìm lại được nửa kia của mình. Cái nửa mà Thượng đế, nhằm trừng phạt về tội tham lam và độc ác, đã chia mỗi con người thành hai mảnh, buộc họ phải bôn ba khắp quả địa cầu để tìm lại nửa kia thì mới có được  bình an. Kể từ ấy, tự mấy nghìn năm nay, con người đã vất vả, lao đao. Không mấy ai trên cõi đời may mắn tìm thấy nửa phần thất lạc của mình. Phần lớn chỉ làm những ghép nhặt không ăn khớp. Để thay vì khoả lấp nỗi cô đơn, trống trải lại nhân lớn thêm lên. Để thay vì sống chung hạnh phúc, họ chỉ gây cho nhau nhiều điều bất hạnh. Để thay vì vui hưởng bình an, họ chỉ nhấn chìm nhau vào cơn bão lửa, hận thù. Còn em… Em đã  gặp được anh, như tìm thấy nửa mảnh khít khao của mình. Anh ơi, em yêu anh lắm. Gặp anh, em như đã có đầy đủ những gì em khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát.

và sau mấy tháng quen  nhau và hút nhau,  người đàn ông của nàng phải đi công tác  ở nước ngoài.

Đây là khoảng thời gian Gấm đang đợi chờ ngày tái ngộ…

 

“….Anh về  sớm hơn ba ngày mà không báo trước.  Lúc anh gọi từ sân bay Tân Sơn Nhất tôi cứ tưởng cuộc gọi từ nước ngoài. “Em thu xếp  và đến với anh đi. Đến ngay nhé! Căn nhà  ở ngoại ô, qua cầu  Bình Triệu, nằm bên dòng sông đó!”

Tôi kêu lên mừng rỡ. Thu xếp vội vàng công việc, tôi phóng như bay đến với anh. Chưa kịp chống xe, anh đã bế lấy tôi  làm chiếc xe máy ngã lăn kềnh trước ngõ. Bước vào nhà, hấp tấp. “Anh mong em quá. Đêm nay ở lại với anh đi!”. Tôi run lên vì cảm động. “Còn bé gái. Em không thể ở qua đêm”. Nói thế nhưng tôi đã thu xếp và ở lại nhà anh ba ngày, hai đêm. Suốt thời gian “trăng mật” cả hai không hề bước ra khỏi nhà, và tôi, tôi chỉ  quanh quẩn bên anh như con mèo ngoan ngoãn, lúc nào cũng cuộn tròn trong lòng anh. Để được vuốt ve. Vỗ về. Che chở.

Khi anh đặt nhẹ tôi trên giường  thì tôi vội ôm chầm lấy anh. Kéo xuống, cả hai lăn xả vào nhau, quấn quít, những giọt mồ hôi rịn ra từ trán anh  như hoà với nước mắt của tôi đang tuôn trào vì hạnh phúc. Môi anh mơn man trên khuôn mặt tôi đầm đìa nước mắt. Tôi hớp lấy từng giọt, từng giọt, tham lam nuốt chửng như sợ phí phạm những giọt tình yêu  đang chảy trên má mình. Anh ơi mùi vị này thật ngọt ngào sau bao ngày khát khao, chờ đợi. Cảm xúc  của tôi tăng dần khi toàn thân cảm nhận những nụ hôn cháy bỏng từ đôi môi thèm muốn của anh.  Có lúc anh vít lấy đầu tôi, rót vào tai một âm điệu du dương ngọt ngào :” Hãy buông thả đi em.” “Dạ, dạ … anh làm gì em cũng chịu hết! “. Hơi thở đứt quãng làm tiếng tôi như khàn đục. Tôi cuống quít như bị hớp mất hồn. Nhắm mắt, tôi nghe máu nóng chảy rần rần trong cơ thể. “Anh ơi, em chết mất”. Anh quàng lấy thân người tôi đang run rẩy ” Em hãy bay đi!” rồi siết mạnh và tình tứ nhìn tôi. Cái nhìn vuốt ve, đắm đuối, cái nhìn như cơn bão xoáy, cuốn hút rồi lốc tôi rơi vào giữa đại dương êm ái. Tôi miên man ngụp lặn. Bờ môi tôi cuống quít áp lên cổ rồi trườn xuống lồng ngực đầy nam tính của anh đang phập phồng. Tôi hôn anh nhẹ nhàng. “Anh ơi, em si mê anh…lúc nào em cũng khao khát thèm muốn anh” “…Anh ơi ôm chặt em đi, mau đi anh…”. Rồi…Những tiếng rên rỉ  làm không gian rung lên. Đất trời vần vũ, chuyển mình trong lôi cuốn huyền hoặc của tình yêu. Ngọn lửa đam mê trong lòng như đốt tôi  thành hơi nước, thăng hoa trong tiếng rên rỉ và giãy đạp của cảm xúc…Tôi không còn biết gì, toàn thân ngây dại, chỉ nghe tiếng trái tim mình đập liên hồi, theo cái nhịp gấp gáp của anh đang bóp thắt trong tôi.

Trong khoảnh khắc, mọi phù phiếm của đời sống đều bị chìm đi, mất hút, cái còn  lại là cảm giác đê  mê của sự hiến dâng, cho và nhận, vút bay lên chín tầng trời.

Chúng tôi nằm ôm nhau trên giường mà tưởng như có một vầng mây gấm đang nhấc lên cao, triệt tiêu mọi hấp lực của trọng trường, từ từ tách khỏi mặt đất, trôi trong thinh không tịch mịch, lững lờ trong hư vô bát ngát… rồi cả hai đều chìm trong trạng thái xuất thần, nửa mê, nửa tỉnh. Chúng tôi bám chặt vào nhau nhưng cố gắng không cử động hay nói một tiếng nào để không phải phá tan cái phút giây thiêng liêng ngạt ngào hương vị đó.

Khi thấy mắt anh lim dim, không muốn anh  đứng lên làm mất giấc ngủ đang ùa đến, tôi vội đi pha nước ấm, cẩn thận thêm một chút tinh dầu để lau người cho anh. Phơi  trước mặt tôi là một thân hình  đàn ông khoẻ mạnh, trần truồng. Đó là tấm thân đã gắn với tôi bằng một quan hệ sâu xa còn hơn máu huyết. Tôi biết đó là thân hình đẹp nhất mà tôi có thể nhìn thấy trên đời. Bởi nó là sức mạnh trừu tượng của tình yêu được hiển thị thành xương thịt.”

……

 

 

Tác giả mong đón nhận những góp ý và nhận xét phê bình của bạn đọc:

btnduoimua@yahoo.com

 

Read Full Post »

Itala Elena Pucillo Trương

Cesare Pavese- cuộc đời và tác phẩm

Sự chọn lựa  tiểu thuyết “Mùa hè tươi đẹp ” của tác giả Cesare Pavese để dịch sang tiếng Việt trước hết  do giá trị văn học[1]  của tác phẩm và sau đó là tầm quan trọng  của tác giả trong nền văn học Ý trong thế kỷ XX .

Được viết từ 1949, bối cảnh là lối sống của lớp trẻ tại miền Bắc Ý sau thế chiến II, nhưng tính đương thời (contemporaneita’) của tiểu thuyết vẫn còn đậm nét vì phản ảnh sâu sắc hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong thời hội nhập : Cùng với tăng trưởng kinh tế là lối sống buông thả,  khởi đầu  cho sự đánh mất những giá trị đạo đức. Tính hiện thực và khả năng khai thác tâm lý nhân vật cũng được  tác giả  thể hiện qua cách viết và sử dụng ngôn ngữ khác lạ, đến nay vẫn còn giữ nguyên phong cách hiện đại.

*

Đến với các tác phẩm của Cesare Pavese chúng ta sẽ liên tục khám phá: Ngoài tiểu thuyết người đọc còn gặp nhiều bản dịch của các tác giả Anh, Mỹ và  trong cùng  thể loại  cũng luôn có  rất nhiều sự khác biệt. Sự  khác biệt này đã được tác giả tái tạo, bắt đầu từ  văn phong đa dạng, cách  xếp đặt các bối cảnh liên quan đến cách sử dụng ngôn ngữ phong phú… để người đọc khỏi nhàm chán  rồi dẫn họ nhận thức về những quan điểm khác bằng sự tế nhị và nhạy cảm của mình. Ngoài ra, có lẽ không phải là một sự tình cờ mà một trong những tác phẩm cuối cùng của ông lại là một tập thơ mang tựa đề “ Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em”, như một dự báo cho việc tự sát, một thông điệp mà cũng là lời từ biệt… đã làm tác giả nổi tiếng, và trở thành một trong những tác giả Ý được đọc nhiều nhất trong thế kỷ XX.

Trong những trang viết cũng như qua thư từ, rất nhiều lần Pavese nói về ước muốn được nổi tiếng, không chỉ riêng mình mà  còn cho  nơi ông ra đời, một ngôi làng chỉ có những túp nhà nho nhỏ và sình lầy.

Ông đã viết như thế này :

Quê  tôi  chỉ có những túp nhà nho nhỏ và bùn lầy, nhưng nó  nằm kề con đường liên tỉnh mà ngày nhỏ tôi hay chơi đùa. Xin nhắc lại, tôi là một kẻ có nhiều tham vọng, tôi muốn đi khắp  thế giới, đặt chân đến những miền đất thật xa  rồi quay lưng  và nói với người hiện diện:“ Các bạn chưa bao giờ nghe nói đến một ngôi làng chỉ có bốn mái nhà phải không? Đây, tôi đã  đến đây từ đó”.

Ngôi làng nhỏ đó có tên là Santo Stefano Belbo, thuộc vùng Langhe của tỉnh Cuneo, nơi Pavese đã chào đời vào ngày 9/9/1908. Nhưng ông đã sớm rời gia đình để sinh sống ở thành phố Torino, và trong lòng chưa bao giờ khuây khoả nỗi nhớ quê xưa.

Cha chết khi ông còn rất nhỏ và sự mất mát này đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của cậu bé, vốn nhút nhát nhưng cộc cằn và khép kín, tuy yêu sách vở và thiên nhiên nhưng luôn tìm cách cô lập mình với người khác. Sau khi chồng mất, với bản tính lạnh lùng và cẩn trọng, mẹ ông đã giáo dục con như một người cha khô khan và nghiêm khắc chứ không như một người mẹ ngọt ngào và  trìu mến.

Khi sống  và tiếp cận với  thực tại điên cuồng của một thành phố kỹ nghệ lớn và đầy sương mù như Torino, Pavese  càng biểu hiện tất cả những bất an sâu sắc về sự hiện sinh, những ám ảnh tâm lý và bắt đầu đi tìm kiếm sự chân thực.

Như tất cả những chàng trai trẻ, Pavese cũng mang trong lòng đầy mâu thuẫn và nhiều xung đột, với một sự nhạy cảm mà không giúp được gì nên ông hành động theo ý nghĩa tiêu cực và tự làm hao mòn những xác tín lên số phận của mình. Trong các bức thư của ông thường nhắc đến một thói tật vô lý, như một mời gọi cho sự tự sát, báo trước cho số phận bi thảm của mình. Có lẽ  chính vì nỗi bất an đó mà ông phải đi tìm một biện pháp khắc phục bằng cách thực hiện các thành tựu nghệ thuật, nhất là qua các tác phẩm văn học, giống như kẻ  “ Đi tìm thời gian đánh mất” của Marcel Proust.

Thiếu khả năng đối phó với cuộc sống,  ông đã gặp vô vàn khó khăn trong quan hệ giữa người và người; Sống, đối với Pavese đã trở thành một “nghề” cần phải học trong đau đớn và trong tình huống đó, nghệ thuật với ông đã trở thành một sự cần thiết nhằm thay thế sự sống. “Tôi đã học viết  nhưng chưa học sống” nên viết lách đã trở thành biện pháp duy nhất, khả năng duy nhất để ông biết mình đang sống và cảm thấy mình hạnh phúc dù chỉ trong chốc lát. Pavese viết : “ Chỉ khi viết tôi mới là người bình thường, quân bình và bình an”. Đối với văn học trong thế kỷ XX tính xác thực của thi ca được xác định bởi tầm nhìn phiền muộn của con người, được nuôi dưỡng  trong số phận đầy âu lo. Tính xác thực và cái chết với ông như đã trở thành đồng nghĩa, vì sống là “Chuẩn bị cho cái chết”.

Cùng với nhu cầu tuyệt vọng về tình yêu, khởi nguồn từ sự cô đơn và ý muốn vượt thoát sự cô độc, tự mâu thuẫn giữa những lời tuyên bố đầy kiêu hãnh về mình và ý thức về sự thiếu khả năng vui sống, Pavese  đã chọn văn học như một giải pháp nhằm giải quyết  các xung đột  nội tâm.

Tuy vậy trong các tác phẩm của ông cũng có vài lần ghi lại  hạnh phúc trong đời mình, đó là các buổi thảo luận trong các quán ăn với công nhân, với những người bán hàng rong, những con người  vô danh và tầm thường, nhưng về sau tất cả đều trở thành nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Ông luôn có cảm giác là mình còn trẻ, được tái sinh và trong những năm cuối cùng của đại học, bởi trong đời tư của ông có sự tham gia của một người mà sau này trở thành trung tâm của linh hồn ông: “ người đàn bà có giọng khàn khàn”. Cesare Pavese như bị biến đổi hoàn toàn: Trong suốt thời gian đó lúc nào ông cũng có cảm giác là người đàn bà ấy ở bên cạnh mình, ông  bỗng trở nên tử tế, nhân bản,  trìu mến, cởi mở với mọi người. Người đàn bà đó đã  mang  đến cho ông sự say đắm của tuổi thơ, khuôn mặt của nàng “như một đám mây”, nhưng đó là một áng mây ngọt ngào  bay giữa trời xanh lơ lửng trên những ngọn đồi của quê ông.

Năm 1930,  lúc chỉ vừa 22 tuổi ông tốt nghiệp đại học với luận án  về sự lý giải  thi ca của Walt Whitman và bắt đầu cộng tác  với tạp chí “ Văn hoá ”. Ông dạy học vào buổi tối ở các trường tư thục, nhưng đồng thời cũng dịch rất  nhiều tác phẩm văn học của Anh và Mỹ  và trong thời gian rất sớm ông đã nổi danh. Dường như những năm tháng trung và đại học đã giúp cho chàng trai cô độc  tìm được những  gắn bó bạn bè:  điều này giúp  anh  hiền hơn  trong các cuộc bút chiến và phẫn nộ trong văn học.

Năm 1931, chỉ vài tháng sau khi tốt nghiệp thì mẹ mất: vì chưa có dịp tỏ bày lòng ngưỡng mộ và chứng minh tình thương cùng sự trìu mến của mình với mẹ, niềm ân hận đó đã tạo nên một đường rãnh sâu sắc và cay đắng trong tâm hồn  tác giả. Còn lại một mình, ông chuyển về sống với cô em  Maria, và ở lại bên cô cho đến lúc chết.

Cũng trong năm 1931 bản dịch đầu tiên của ông “ Ngài Wrenn của chúng ta” của tác giả Sinclair Lewis được in ở thành phố Frenze. Việc dịch thuật có một tầm quan trọng không chỉ với cuộc đời tác giả mà còn cho nền văn học Ý nữa, vì nó đã mở ra một  cánh cửa cho một thời kỳ mới  của tiểu thuyết Ý. Với những bản dịch của mình, ông đã giúp người đọc biết được các chiều kích vô cùng lớn lao của lòng khao khát tự do, cùng với ý nghĩa bi thảm, xem  cuộc đời vô ích  và đến cả động tác cuối cùng của cuộc đời, tự tử.

Năm 1933  khi nhà xuất bản Einaudi   được thành lập và vì tình bạn với Giulio Einaudi, Pavese tham gia các dự án của nhà xuất bản với sự nồng nhiệt: có lẽ đây là những năm tháng tốt đẹp nhất của tác giả  cùng với một “người đàn bà có giọng nói khàn khàn”, một trí thức tốt nghiệp toán và tham gia tích cực trong phong trào chống phát xít. Vì liên can đến người đàn bà này, ngày 15/5/1935 ông bị bắt vì tình nghi chống phát xít, bị xử tù 3 năm và giam giữ ở Brancaleone Calabro thuộc miền Nam nước Ý.  Ba năm nhưng về sau được giảm xuống ít hơn một năm nhờ đơn ân xá, ông được thả vào tháng 3- 1936, nhưng sự trả tự do này  oái ăm thay lại trùng hợp với  sự thất vọng cay đắng của đời ông:  Người đàn bà mà ông hết lòng bảo vệ đến nỗi  bị tù đày vì không chịu khai danh tánh đã bỏ ông để lập gia đình với một người đàn ông khác. Kinh nghiệm  tù đày đớn đau ( sau là chủ đề của một quyển tiểu thuyết đầu tay của ông, “Nhà tù”) cùng với  sự thất vọng về tình yêu  đã quất ông những ngọn roi tàn nhẫn và đẩy ông  ngã vào một cơn khủng hoảng trầm kha, mãi nhiều năm về sau  vẫn còn ràng buộc vào cám dỗ đau đớn và luôn xuất hiện ý muốn tự sát. Ông tự khép mình vào sự cô độc, có lẽ còn tồi tệ hơn cả quãng đời thơ ấu.

Sau khi chiến tranh thế giới lần II chấm dứt ông ghi danh vào đảng cộng sản Ý nhưng sự tham gia của ông chỉ thuần văn học : Ông viết những bài báo và tiểu luận chủ yếu về đạo đức-dân sự, ông tiếp nối công việc ấn loát, tổ chức lại nhà xuất bản Einaudi, ông quan tâm đến  truyền thuyết và nhân chủng học,  thiết lập những lý thuyết về huyền thoại, và hoàn thành  tác phẩm “Đối thoại với Leucò .”

Về sau, khi chuyển đến La Mã làm việc ông có quen với một nữ diễn viên trẻ, Constance Dowling, khởi đầu cho một tình yêu mới. Có lẽ cô diễn viên trẻ đẹp và “khuôn mặt có nhiều đóm tàn nhang” này mới đầu đã thực sự yêu người đàn ông nổi tiếng, thông minh nhưng cũng dễ xúc cảm, quan hệ này đã hâm nóng tình yêu cho tác giả, nhưng về sau cô cũng bỏ ông để trở về nước Mỹ. Trong đau đớn tột cùng, Pavese đã   sáng tác và in thành một tập thơ mang tựa đề: “ Cái chết sẽ đến, nó có đôi  mắt của em…”

Sau trận thất tình này, cộng thêm sự khủng hoảng chính trị và tôn giáo đã làm Cesare Pavese thất vọng và hoảng hốt, nó xâm chiếm tâm hồn ông mặc dù lúc này ông đạt đỉnh thành công văn học ( 1938  tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được xem như tác phẩm rất hay) đến nỗi sự cô đơn và cảm giác trống rỗng làm ông không biết phản ứng ra sao. Mệt  nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn, ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn Roma tại thành phố Torino. Đó là ngày 27 tháng 5 năm 1950, để lại vỏn vẹn chỉ vài hàng ngắn ngủi trên trang nhất của  tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách  ban đêm: “ Tôi tha tội cho  tất cả và  xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều .” Năm ấy ông chỉ vừa  42 tuổi.

Tác Phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”

Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”  nằm trong luồng văn học biểu tượng.

Mùa hè  diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam  mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước  sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi  của mình.

Đây là câu chuyện kể về Ginia, một cô gái mồ côi  chỉ vừa 16 tuổi, từ miền quê chuyển về sinh sống trong thành phố Torino cùng với anh là Severino. Bối cảnh của tiểu thuyết là những năm tháng sau khi chiến tranh chấm  dứt. Tại thành phố này cô tìm được việc làm như người phụ giúp trong một tiệm may.

Ginia là một cô gái ngọt ngào nhưng không may mắn. Sự thơ ngây và trong sáng của cô hoàn toàn không đáng nhận một số phận bi đát và một sự  sỉ nhục tồi tệ trong  thành phố Torino xám xịt. Mới đầu cô bị thành  phố làm cho loá mắt vì nhịp sống của nó hoàn toàn khác với miền quê mà cô từng biết. Cô mong muốn yêu và được yêu.

Rất nhiều cô gái vào tuổi dậy thì, trong  các thành  phố cho là hiện đại, đến với tình yêu thật phiến diện, được thúc đẩy bởi tò mò nhiều hơn là bởi tình yêu. Họ đánh mất tiết trinh rất dễ dàng và mãi về sau họ mới nhận ra giá trị những gì mà mình đã mất. Và như thế  tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ” không chỉ là một câu chuyện  kể đơn giản mà còn là một cảnh báo cho các cô gái  trẻ, ngây thơ và dễ dãi. Ngay chính Pavese cũng đã định nghĩa là tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”  là chuyện kể  về  sự bảo vệ tiết trinh.

Ginia đã bị lôi cuốn vào một thế giới hoàn toàn trái ngược với cô: những chàng hoạ sĩ của thành phố Torino vào những thập niên bốn mươi của thế kỷ trước. Một bạn gái đã dẫn cô vào môi trường ấy. Cô bạn này, là một người dễ dãi và chỉ biết quan tâm đến tiền, cô ta ngồi làm mẫu cho các chàng hoạ sĩ. Trong môi trường ấy Ginia  đã làm quen với Guido, cô  ngưỡng mộ và yêu anh, nhưng về sau cô mới hiểu là tất cả những gì có xung quanh thế giới hội hoạ ấy chỉ là ảo ảnh.

Tựa đề ban đầu  của tác phẩm chính là “Chiếc màn ”, nhắc lại cảnh Ginia nhận ra mình bị lừa dối, bị gạt gẫm và chế nhạo… vì khi chiếc màn dùng để chia xưởng vẽ làm hai,  mở ra, Ginia mở mắt và bỗng hiểu ra tất cả. Bởi, núp sau bức màn đó còn có Rodrigues, một hoạ sĩ khác, đang lén ngắm cô khoả thân ngồi mẫu cho Guido. Hổ thẹn, buồn cười, trong  sự thất vọng, cô ngã vào vòng tay của Amelia, lúc này đã bị nhiễm bệnh giang mai từ quan hệ tình ái với một người đàn bà; biểu tượng của cái chết. Ê chề và  tuyệt vọng, nhưng Ginia hoàn toàn không có khả năng thích ứng với trò chơi tàn ác của cuộc đời, trong đoạn kết Ginia đã nói với bạn    “ Thôi mầy hãy dẫn tao đi”.

Tiểu thuyết “Mùa Hè Tươi Đẹp ”   rất đơn giản về cốt truyện nhưng có nội dung sâu sắc: Nó tượng trưng cho xung đột giữa sự ngây thơ ( Ginia) và sự hư hỏng, thoái hoá (Guido và Amelia). Sự đánh mất hồn nhiên của cô gái chính là bước chuyển biến  từ trạng thái hạnh phúc, rất tự nhiên của tuổi dậy thì đến một trạng thái khác, sự trưởng thành. Amelia là một nhân vật tiêu cực nhưng rất cần thiết để hoàn thành bước ngoặc này. Qua cô, Pavese đã tượng trưng cho sự chết như ông đã nhìn thấy: Tham vọng, độc ác, nhưng đồng thời cũng rất cám dỗ và mời mọc, đến nỗi nó được uỷ thác để dìu dắt một cuộc đời hồn nhiên và chẳng có chút liên quan nào. Như Ginia đã nhìn Amelia, tàn ác mà quyến rũ , cuối cùng đã   lôi cô vào một thế giới chưa từng quen biết.

Văn phong

Thời gian kể truyện ngắn hơn câu chuyện, bởi vì tác giả tóm tắt nhiều ngày trong một câu ngắn, với một nhịp điệu  vừa- nhanh.

Tác phẩm này được giới phê bình xem như thuộc  trường phái “tự nhiên” của Cesare Pavese, nó liên hệ đến ảnh hưởng của môi trường và hiện thực lên đời sống nhân vật.

Trong tác phẩm của Pavese văn phong hoà lẫn với tình huống thông qua sự xếp đặt con chữ, thả trôi theo nhịp điệu cảm xúc sống động trong thực trạng nội tâm. Nhân vật phản ảnh tất cả những gì mình nghĩ, chuyển tải lên trang giấy bằng một cú pháp thiết yếu cấu tạo bởi những câu nói rất bình dân được nhặt nhạnh  từ đời sống thường nhật, từ những lối ngắt câu trong các đoạn và từ  cách dùng câu đẳng lập [2]. Cách viết của Pavese trong tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”  có thể bị ngộ nhận là nghèo nàn, nhưng đó là sự nghèo nàn biểu kiến. Bởi  nó tương xứng với trình độ văn hoá của nhân vật và ngôn ngữ đời thường của họ. Chính nhân vật đã kể lại câu chuyện và đó mới thực là văn phong của tác phẩm.

Itala Elena Pucillo Trương

( TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài)

.

 

Vài nét về dịch giả TRƯƠNG VĂN DÂN
Quê ở Bình Định  Năm 1971- Du học ở Italia ngành Hoá và Công Nghệ Dược.
Từ 1980 Phụ trách về tổng hợp hoá dược và từ 1985, nghiên cứu và phát triển dược phẩm, dùng cho người và cho thú y.

Đã viết, dịch và cộng tác với các tạp chí trong và ngoài nước.
Tác Phẩm đã xuất bản :

Hành Trang ngày trở lại ( Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ, 2007)

Bàn tay nhỏ dưới mưa ( Truyện dài, PNB-Nxb Hội Nhà Văn, 2011)

Mùa hè  tươi đep   ( Truyện  dài, dịch từ nguyên tác “ La bella estate”  của Cesare Pavese, Italia)

Tác phẩm đang in :

Những ngày đánh mất ( Tập truyện dịch, gồm 20 truyện ngắn  và một truyện vừa của Dino Buzzati, Italia)


[1] Tác phẩm đoạt giải thưởng Strega năm 1950. Giải thưởng STREGA là giải thưởng văn học quan trọng nhất của Italia. Được trao giải hằng năm cho tiểu thuyết  hay tuyển tập truyện ngắn của các tác giả Ý. Giá trị hiện vật không nhiều nhưng giá trị tinh thần và giúp việc phổ biến tác phẩm rất lớn.Các tác giả Ý nhận  được giải thưởng này có thể kể : Cesare Pavese, Alberto Moravia, Mario Soldati, Giuseppe Tomasi di Lampedusa, Elsa Morante, Giorgio Bassani, Natalia Ginzburg, Primo Levi, Umberto Eco, Claudio Magris.   Tuy nhiên cũng có những tác giả nổi tiếng sau đây lại không nhận được giải : Italo Calvino, Carlo Emilio Gadda, Leonardo Sciascia.

[2] paratassi, parataxis

Read Full Post »

Trương Văn Dân

Chiều  hôm đó  vợ chồng tôi lên nghĩa trang thăm mẹ. Lúc này là đầu tháng mười một, ngày tử vong nhân. Gió lạnh thổi  trên các cánh đồng, rít lên trên mấy hàng cây lá cành trơ trụi. Những đám mây cuồn cuộn trôi lững thững  trên bầu trời thấp và âm u. Không gian phủ một màu xám, mặt trời le lói, chiếu sáng mù mờ nên trông  như ánh trăng khuya. Chúng tôi bước đi  trên con đường nhỏ, trống trải và cái  rét nhè nhẹ len lỏi qua lớp áo choàng không dày lắm.

Trời lúc này đã vào thu, không gian bàng bạc mơ hồ đã khiến tôi liên tưởng đến câu thơ cổ : “Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu ”  (một lá ngô đồng rụng, thiên hạ biết mùa thu ) rồi chợt nhớ lần đầu  nhìn thấy cây ngô đồng trên đất thần kinh mà các vua lệnh trồng để phượng hoàng về đậu trong vườn thượng uyển. Ở đây, trên đất  Italia không có ngô đồng, nhưng  mọi người vẫn biết mùa thu đang tới vì những lá phong ven đường đã nhuốm  vàng và bắt đầu ửng đỏ.

Vợ tôi mang theo bó hoa. Đến nơi, nàng không quên cắm vào bình và đặt viên chocolat, loại sinh thời bà rất thích, dưới chân chiếc lục bình. Tôi nhìn nụ cười phúc hậu của mẹ nàng trong ảnh. Người đàn bà tóc vàng, đôi mắt mở to sau đôi kính, như muốn nhắn gửi một điều gì cho con cháu. Trên vai bà có quàng một chiếc  khăn lụa trắng, lấm tấm những đoá hoa vàng trên nền  xanh da trời. Tấm ảnh ấy chúng tôi chụp trong mùa Giáng sinh năm nào  ở nhà bà. Mới đó, quây quần bên nhau ăn uống,  mà giờ đã ba năm.

Mấy tháng trước đến đây, những hộc tro bên  chỗ nằm  muôn đời của mẹ hãy còn trống, mà bây giờ đã khép kín, gần đầy. Bên cạnh mẹ lại vừa có thêm di ảnh của một người Á châu, xác chắc mới được hỏa thiêu và vừa mang đến. Tôi ngắm khuôn mặt chưa già lắm của anh, chỉ chừng bốn mươi ngoài rồi lòng thầm hỏi:  Nếu đời là cát bụi, thì cát bụi ấy ĐẾN từ đâu mà lại TỤ ở nơi đây. Trên đất khách quê người?

Từ mộ mẹ đi ra, tôi hay thả bộ, lững thững trên các con đường nhỏ  xung quanh nghĩa trang. Đó đây trên những tấm bia có những hàng chữ thường làm tôi chú ý: Chẳng hạn , bên cạnh  ngôi mộ của một cụ già  có lời  cầu nguyện  cho người ra đi  mãi mãi ngủ yên, bình an trong vòng tay nhân ái của Chúa: “Requiem Aeternam”, “Nơi an nghỉ  muôn đời”. Hoặc có khi  là một lời xót thương, tiếc nuối của người vợ  trẻ: “Yêu anh dễ, quên anh không thể “ (Amarti  è facile, dimenticarti è impossibile); hoặc một lời xác nhận: “Không ai có thể chết khi vẫn còn hiện diện trong tim người sống “.

Phần đông những lời khắc trên bia là  những tiếc thương, nuối tiếc. Nhưng không phải trên tấm bia nào cũng chỉ có lời than thở, vì đôi khi cũng có những ý tưởng rất khác, thí dụ trên tấm bia chung, chắc của các con lập cho mẹ, mất  năm 1979, và cha, mất năm  2001, có ghi: “Trong niềm vui  ba má đã gặp  lại nhau, chúng con xin biến nỗi đau thành lời cầu chúc “ ( nella contentezza che vi siete ritrovati, il nostro dolore si trasformano in gioia )… vài hàng ngắn ngủi nhưng nó nói lên tất cả nỗi buồn  và quạnh quẽ của người cha, sống cô độc  hơn hai mươi năm, kể  từ khi mất vợ.

Lang thang đây đó, nhưng rất nhiều lần trước khi về hẳn, tôi thường dừng lại bên một ngôi mộ thật lớn, nơi có bức tượng đồng một  nữ thiên thần đứng trên  chân phải, nửa người gập về phía trước, còn chân trái đưa cao, duỗi  thẳng ra sau  cùng với hai cánh tay giang rộng, vươn lên cao, chênh chếch về sau  thành hình đôi cánh mở tung, trong tư thế  sắp sửa  bay lên. Lần nào qua đây tôi cũng thấy rất nhiều hoa, loại đắt tiền. Người quản nghĩa trang có lần cho biết là gia  đình này mỗi ngày đều thay các bó hoa tươi, toàn những thứ hiếm và đẹp đã khiến tôi nghĩ ngợi rất nhiều về gia đình quý tộc này. Người thân của họ đã  không còn nữa mà họ vẫn còn  tiếp tục sống bằng kỷ niệm. Trong đó có những giây phút không quên của quá khứ,  mà những bó hoa kia không gì khác hơn là sự ngưng đọng  của các nỗi đau đớn triền miên. Kéo dài từ lúc người thân mất, đến hôm nay cho đến mãi mãi về sau.

Trên nấm mộ sang trọng đó có tấm di ảnh một người thanh niên làm bằng đá mài, màu sắc linh động, nhất là đôi mắt mở to, miệng mỉm cười hướng về phía người đối diện. Cạnh đó có một tấm bảng bằng đồng khắc ghi hàng chữ: “  Xin đừng khóc. Con sẽ tiếp tục và mãi  mãi yêu thương ba má từ thế giới bên kia! Tình yêu là linh hồn, mà linh hồn thì bất tử“. Ai đã thốt lên điều đó? Chắc không phải của những người  lập mộ, vì có lẽ đó  là những lời cuối cùng của người trong ảnh, khi bàn chân đã bắt đầu giá lạnh mà  trái tim  hãy còn  hâm hấp nóng, thì thào để  an ủi những người thân đang nước mắt lưng tròng. Ngay lúc anh ý thức rằng  đời sống của mình sắp sửa lụy tàn.

Tôi nghĩ là chính anh đã nói thế, vì có lẽ cho đến lúc ấy anh đã không sợ chết, có khi còn xem cái chết  là một phần của đời sống, điều tất nhiên phải đến trong cuộc đời, và  ý nghĩ đó đã khiến anh bình thản, sẵn sàng đối diện, để không phải quay đi mà không dám ngoái đầu nhìn lại. Nói chung là anh biết chấp nhận chân lý của cuộc tử, sinh. Dù, ai lại không muốn sống một đời sống đẹp, dài lâu, có ý nghĩa, hữu ích cho đời, nhưng chắc là lúc ấy, khi đau đớn đang hoành hành trên  thân thể rã rời, trên xác thân sắp bắt đầu băng hoại, anh đã thấy là không còn gì để  tha thiết nữa. Chắc chắn anh đã nhìn cái chết của chính mình như một giải thoát, mà vướng bận cuối cùng chắc chỉ còn cho  những người thân còn ở lại. “ Tôi sẽ tiếp tục yêu thương các người từ thế giới bên kia! Tình yêu là linh hồn, mà linh hồn thì bất tử”. Lời xác nhận ấy thường làm  tôi  liên tưởng đến những người đã chết mà linh hồn như còn vảng vất đâu đây, quanh quẩn như còn muốn lưu lại trần thế, để phù hộ cho những người ruột thịt. Rồi cảm thấy mến anh, dù chưa hề quen biết .

Chưa quen biết nhưng tôi vẫn cầu mong  là lúc về nước Chúa  lòng anh được bình an. Tôi hy vọng như thế. Bởi đứng trước cuộc chia ly, dù cứng rắn và ý thức đến đâu, nào ai tránh được nỗi buồn?  Lòng kẻ ra đi và ngừơi ở lại làm sao thoát khỏi đớn đau, quặn thắt? Vì, trong kiếp người, nếu quả là  mỗi người đều mang một mệnh số, có một đời sống và mộng ước khác nhau, nhưng trong suốt cuộc nhân sinh dường như ai ai cũng đều phải chịu những đau đớn triền miên. Kể từ lúc mở mắt chào đời cho đến khi lìa bỏ cõi trần. Bởi  thân xác con người tuy bé nhỏ nhưng luôn phải gánh chịu những nỗi đau rất lớn. Thành ra xưa nay, đã có mấy ai ra đi vĩnh viễn mà lòng được  thanh thản nhẹ nhàng?

Từ nghĩa trang ra về, lòng  tôi cứ mãi bâng khuâng.  Vợ tôi vẫn chìm trong yên lặng, có lẽ nàng đang nhớ lại những kỉ niệm êm đẹp với mẹ mình. Tôn trọng phút giây thiêng liêng ấy  tôi cũng trầm ngâm suy nghĩ, chẳng buồn gợi chuyện.

Lúc về đến nhà, ngồi chờ vợ chuẩn bị bữa cơm chiều, tôi mở  TV, bản tin đầu cho biết là tổng thống Mỹ, George Bush,vừa tuyên bố chiến tranh kết thúc, sứ mạng của Mỹ tại Iraq đã hoàn thành. Nhưng bình luận viên lại cho hay là thực ra nó mới chỉ bắt đầu. Một ngàn ngày qua, kể từ 20/3/03, ngày liên quân Anh-Mỹ khởi đầu chiến dịch lật đổ Saddam Hussein, báo chí Tây phương vừa tổng kết là lớn nhỏ có hơn 200.000 cuộc nổi dậy và  hậu quả, tính đến nay đã có 18.000 lính Mỹ chết hoặc bị thương; Về  phía Iraq, hơn 30.000 thường dân thiệt mạng!

Bản tin sau đó  còn cho hay là  mới trưa nay  có ba chiếc  xe bom vừa gây thảm sát ở Iraq. Một nổ ở trại lính Mỹ. Một ở nhà ga xe lửa và chiếc thứ ba lao vào siêu thị. Hàng chục người chết và hàng trăm thương tật. Tôi rùng mình nhìn những hình ảnh đẫm máu trên màn hình rồi tự hỏi, tại sao cuộc sống càng ngày càng khó mà loài người cứ mãi  giết nhau?  Không tìm được trả lời, nhưng  bỗng nhiên tôi cảm thấy thật  phi lý khi nghĩ rằng, một người chết là một linh hồn, một  đời sống đã giã từ trần thế. Nhưng hàng nghìn người chết, nhiều khi chỉ còn là một con số vô nghĩa và lạnh lùng trên bảng thống kê .

Tôi châm một điếu thuốc rồi lặng lẽ  bước ra ban-công nhả khói. Nhìn những sợi trắng tản mạn bay lên, đầu óc ngẫm nghĩ bâng quơ, lộn xộn. Ngay lúc đó, một tiếng chuông  của ngôi chùa Tây Tạng từ hướng đông nam gần nhà vọng đến. Âm thanh  ngân dài, rất nhẹ, nhưng rung rất lâu trong không gian và khe khẽ thấm vào từng sớ thịt, len lỏi vào tận đáy tâm hồn. Tôi dụi điếu thuốc, lòng bỗng nhiên bình thản và sảng khoái hít một hơi dài ngụm không khí trong lành, hơi lành lạnh của buổi chiều tà, rồi chợt  nhớ lại là dường như mình vừa mới đọc được ý tưởng  tuyệt vời này ở một trang sách nào đó: “ Sao chúng ta không gom hết vũ khí trên trái đất, đúc thành những chiếc chuông nhỏ và phân phát cho tất cả mọi người, mời tham gia vào một cuộc đại diễn hành vòng quanh thế giới để đòi hỏi hoà bình: đồng loạt, đồng loạt những tiếng chuông cùng lúc gióng lên, ngân vang trong không gian, truyền đến mọi quốc gia trên quả địa cầu để tỉnh thức  tâm thiện của loài người.”

                                               

Trương Văn Dân

Milano 4-11-2005

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »