Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Trương Văn Dân’

Trương Văn Dân

Thời còn là sinh viên tôi rất mê guitar classic nhưng bận học nên ít có thời gian tập luyện. Rồi một hôm, khoảng năm 1976, bạn Giuseppe rủ đến thư viện Sormani- Milano để tra cứu vài tài liệu. Sau khi photo các trang sách bạn dẫn tôi đi qua một khu khác để nghe nhạc. Anh chọn cho tôi nghe một đĩa nhạc mà sau khi nghe tôi như kẻ thất thần. Vừa bàng hoàng, kinh ngạc vừa như không tin là mình vừa được trải nghiệm một cảm xúc lạ lùng đến vậy!

Giuseppe nói đó là Concierto de Aranjuez.

https://www.youtube.com/watch?v=sZyZBS4INuc PEPE ROMERO, Guitar

RODRIGO — CONCIERTO DE ARANJUEZ — II Adagio

Sofia, ngày 5 tháng 12 năm 2007 NDK Sofia, Bulgaria

Dàn nhạc giao hưởng FM-Classic Radio

PEPE ROMERO, Guitar – Nhạc trưởng: Luciano Di Martino

Về sau… thỉnh thoảng tôi cũng còn được nghe và quái lạ, mỗi lần nghe người tôi cứ lâng lâng, tâm trạng vừa vui vừa buồn còn giai điệu của phần adagio trong bản hòa tấu như đã ám ảnh và mê hoặc tôi gần như suốt cả cuộc đời. Mãi đến hôm nay, 50 năm sau, cảm xúc ấy như vẫn không hề thay đổi.

Tôi không hiểu sao mỗi khi nghe là nước mắt tôi cứ chực rơi xuống. Giai điệu của nó như làm tan chảy trái tim tôi! Lúc đó tôi chỉ cảm nhận qua âm thanh, vì bận học, tôi không có thời gian tìm hiểu về bản hòa tấu đặc biệt này mà nếu muốn chắc cũng chưa biết tìm ở đâu. Mãi sau này, nhờ các phương tiện tìm kiếm hiện đại, tôi mới biết Concerto d’Aranjuez được sáng tác bởi nhà soạn nhạc Joaquín Rodrigo người Tây Ban Nha. Lạ một điều là do mắc bệnh bạch hầu nên ông bị mù từ năm 3 tuổi. Còn Concerto d’Aranjuez có lẽ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất của ông.

Tác phẩm này được sáng tác trong thời kỳ mà ông và vợ, Victoria Kamhi – một nghệ sĩ piano trẻ người Thổ Nhĩ Kỳ – đang trải qua những thời khắc tồi tệ nhất. Joaquín Rodrigo sắp hoàn thành tác phẩm thì vợ ông, lúc đó đang mang thai đứa con đầu lòng, bị bệnh nặng và được đưa đến bệnh viện Madrid. Các bác sĩ cho hay là vợ con ông có thể bị nguy đến tính mạng. Bàng hoàng, Rodrigo trở về nhà, ngồi xuống trước cây đàn piano và sáng tác phần adagio của nhạc phẩm.

Phần này giống như một cuộc đối thoại âm nhạc giữa Rodrigo và Chúa. Nó bắt đầu bằng một giai điệu tuyệt đẹp: sau một cuộc đi bộ thất thần trở về nhà ông ngồi than thở với Chúa, cầu xin Ngài đừng lấy đi linh hồn của vợ và con. Những nốt nhạc mở đầu réo rắt và có thể chạm tới trái tim của bất cứ ai, vì sự ngọt ngào của âm thanh và giai điệu: những nốt nhạc rót xuống như lời cầu khẩn thiết tha cùng đôi mắt đẫm lệ của ông, đang ngước lên Chúa, van xin lòng thương xót của Ngài… Nhưng khi dàn nhạc “nói câu trả lời của Chúa” là “vợ ông có thể được cứu sống còn đứa con trai thì không”… thì cảm xúc của ông được thể hiện bằng một bản độc tấu guitar, nửa như xót xa cam chịu, chấp nhận điều kiện tàn nhẫn mà Chúa đã ban, nửa như đưa tiễn linh hồn của đứa trẻ chưa chào đời lên thiên đàng, và cùng lúc đó Rodrigo cũng xin tiếp nhận linh hồn của vợ.

Đoạn nhạc này tượng trưng cho niềm vui về sự đoàn tụ vợ chồng nhưng tiềm ẩn nỗi buồn mất con…

Khi biết câu chuyện, được nghe lại khúc Adagio tôi càng xúc động hơn và thấy sự tuyệt vời của nhạc cổ điển, thứ có thể đánh thức tâm hồn và truyền cảm xúc qua vẻ đẹp của âm thanh.

Có thể nói Concerto d’Aranjuez là tác phẩm âm nhạc Tây Ban Nha được biểu diễn nhiều nhất trên thế giới. Nó được lấy cảm hứng từ những khu vườn của Cung điện Hoàng gia Aranjuez (cách Madrid 50 km), dinh thự mùa xuân của Vua Philip II vào nửa sau thế kỷ 16, sau đó được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 18 cho vua Fernando VI, bản hòa nhạc muốn đưa người nghe đến với những âm thanh của thiên nhiên, mặc dù những âm thanh này cách xa nhau về không gian và thời gian.

Điều kỳ lạ là Joaquín Rodrigo là một nghệ sĩ dương cầm và không biết chơi guitar. Tuy nhiên, ông đã nắm bắt được tinh thần, sự đa dạng và độc đáo của guitar Tây Ban Nha.

Mỗi đoạn nhạc kể một tình tiết và liên quan đến một cái gì đó trong câu chuyện và hoàn cảnh của ông, nhưng không biết vì sao nó như cũng liên quan đến cuộc sống của tôi, cảm xúc của tôi! Mỗi khi nghe nó đều khuấy động đến phần sâu thẳm trong hồn tôi, gợi cho tôi nhiều kỷ niệm, tuy mỗi lần mỗi khác… nhưng lần nào cũng chạm đến chiều sâu của nỗi đau (mà thực ra nỗi đau sau 1975 là thường trực, bao nhiêu buồn lo về gia đình, thời cuộc, và tương lai mờ mịt của chính mình, đơn độc một thân nơi xứ lạ…) làm tôi cảm giác như nhạc sĩ Rodrigo đã viết nên tác kiệt tác này chỉ để tặng cho tôi.

Nó không chỉ là âm thanh của nhạc… mà là tiếng nức nở trước những buồn lo chưa tìm ra lối thoát.

Tôi là người nhạy cảm nên lắng nghe và lòng như khóc thầm cùng những chuỗi âm thanh. Nước mắt có khi thoát ra như để giải tỏa những nỗi niềm. Hay nhưng… đau!

Tuyệt vời! Tuyệt vời! Tôi chỉ có thể nói được thế, không biết diễn tả gì thêm nữa. Nhưng mời bạn nghe đi, đó không phải là thứ âm nhạc vĩ đại nhất mà con người từng viết đó sao?

Không phải ngẫu nhiên mà chị bạn Adriana của tôi nói rằng chị cứ muốn nghe nó mọi lúc mọi nơi. Trong một căn phòng nhỏ, một mái nhà tranh hay trong căn biệt thự cổ nằm trên đồi hay trên bờ biển xanh mênh mông, qua khung cửa sổ nhìn thấy những bông hồng ngoài vườn đung đưa trong gió… chị nói dù ở nơi đâu cũng luôn cảm nhận được, rằng âm nhạc này là siêu phàm, những nốt nhạc đan kết nhau chặt chẽ để tạo nên một vẻ đẹp thuần khiết, làm ta cảm được một nỗi đau sâu sắc mà nhà soạn nhạc Joaquín Rodrigo đã trải. Chị nói trong một trạng thái tâm hồn đau thương cao độ ông đã để lại cho chúng ta một giai điệu xuất thần, một sự hài hòa từ những run rẩy của trái tim đến những lay động cành lá của thiên nhiên với tư cách là một nghệ sĩ, nhạc sĩ và nhà soạn nhạc tài hoa!

Chị Adriana còn nói là chị có thể nghe ngay cả khi vui hay đang buồn. Chỉ có một số ít “yếu bóng vía” mới “không dám” nghe mà thôi!

Còn Elena thì nói khi nghe bản hòa tấu này tự dưng em nhớ về một cuốn sách đã đọc khi còn là sinh viên: Đó là cuốn tiểu thuyết “Thống khổ và phiêu linh” của Irving Stone viết về tiểu sử của nhà điêu khắc/ họa sĩ lỗi lạc Michelangelo Buonarroti. Tác giả Irving Stone nhắc lại lời của Michelangelo: “Tôi yêu cẩm thạch và hội họa. Tôi yêu kiến trúc và thơ ca. Tôi yêu gia đình, bằng hữu; yêu Chúa, yêu người, yêu khắp các hình thể giữa trời và đất. Tôi yêu sự sống đến ngất ngư, yêu luôn chặng cuối cùng, tức là cái chết.”

Elena nói “Nhà điêu khắc lừng danh này có cuộc đời nhiều thăng trầm, đã phải trải qua bao nhiêu đau khổ, dù vinh quang tột bực nhưng cũng không ít bi thương trước khi có thể “đạt đến ngôi sao không thể với tới của mình”…”

“Riêng về bản hòa tấu Concierto de Aranjuez thì nó như mướn nói với ta là vẻ đẹp vĩ đại nhất thường xuất hiện từ những đau khổ và nghịch cảnh. Nếu đọc tiểu sử của những vĩ nhân anh sẽ luôn thấy điều này: một cú ngã đau đớn, một khoảnh khắc tuyệt vọng, một trở ngại khủng khiếp đến nỗi tưởng không thể vượt qua: Van Gogh bị nhốt trong viện tâm thần, Beethoven bị điếc, Dostoevsky bị án khổ sai… “Nhưng chính vào thời điểm đó mà họ sáng tác những tác phẩm hay nhất của mình. Đó là lý do tại sao những tuyệt tác của họ tiếp tục gợi lên những cảm xúc mạnh. Thông qua ngôn ngữ, đá cẩm thạch hay âm thanh siêu việt… họ kể cho chúng ta câu chuyện về một linh hồn bền bỉ và tỏa sáng ngay trong đêm tối.” ”

Có người nói Concierto de Aranjuez là một trong những giai điệu đẹp nhất thế giới. Tôi cũng bị nó cuốn và ám ảnh bao nhiêu năm, mỗi lần nghe đều thấy tuyệt hay, tuy rất buồn; Còn tâm hồn như bay bổng trong một nỗi niềm lâng lâng, khó tả.

Rồi thời gian trôi đi! Sau nhiều năm tháng, tôi tốt nghiệp ra trường, làm tổng hợp Hóa dược rồi phụ trách phát triển trong các công ty Dược phẩm cho người và thú y… bỗng một hôm, chỉ vì (nhờ?) đọc một truyện ngắn của nhà văn Dino Buzzati mà tôi hiểu được ý nghĩa của thời gian nên quay về với đam mê thời thơ ấu: Khởi đầu dịch, rồi viết và cuối cùng là toàn tâm toàn ý đi theo con đường văn chương.

Đầu năm 2020, khi tôi mới vừa từ Ý bay về Việt Nam được hơn tuần thì dịch Covid.19 bùng phát ở Ý mà Elena bị kẹt ở Milano không về Việt Nam được nên tôi phải bay ngược về Ý! Tưởng chỉ vài tháng là hết ai ngờ hai chúng tôi bị giãn cách ở Ý đến hơn 2 năm.

Trong thời gian này gần như bị “cấm túc” trong nhà nên chúng tôi đọc và viết được khá nhiều. Tôi tranh thủ hoàn thành quyển tiểu thuyết “Ước hẹn cuối cùng” (Ultima Promessa) và loáng thoáng nhớ là lịch sử Concierto de Aranjuez của Joaquín Rodrigo có chút gì hao hao đến câu chuyện mà mình đang viết.

Bèn lên mạng tìm. Và như một định mệnh, bản nhạc này rất phù hợp với tình yêu hạnh phúc và thương đau của hai nhân vật Đôn và Anna trong Ước Hẹn cuối cùng!

Nếu trước đây tôi chỉ cảm nhận qua âm thanh thì giờ đây, trên mạng tôi còn được xem cả video trình diễn các bản hòa tấu và tiếng hát của nhiều ca sĩ. Thật bất ngờ! Khi đi tìm các giọng hát bằng tiếng Ý tôi còn được nghe hát bằng nhiều thứ tiếng khác trên thế giới: Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Đức…

Có hai giọng hát mà tôi rất thích. Đó là của nữ ca sĩ Paloma San Basilio hát bằng tiếng Tây Ban Nha và nam ca sĩ Pietro Galassi hát bằng tiếng Ý . Nhạc đã rất hay mà còn được hát như nhập tâm cùng với một niềm đam mê say đắm nên âm thanh như từng giọt nhỏ xuống trái tim, làm cảm xúc trào dâng. Cũng như những lần trước, cứ nghe là muốn khóc dù sau này tôi không có lý do gì để thảm sầu thế nhưng lòng tôi cứ như dâng lên một nỗi nhớ cồn cào, những đợt sóng âm thanh như đi theo huyết quả để làm rung động tận thẳm sâu. Vì sao? Tôi cũng không biết… chỉ thấy buồn và muốn khóc. Nhưng không phải vì sầu thương hay đau khổ. Chỉ muốn khóc, thế thôi!

Trong hầu hết các video trình diễn tôi đều thấy thực hiện rất tốt. Mặc dù đây chỉ là một phần của tác phẩm nhưng tôi nghĩ bản hòa tấu này rất khó biểu diễn. Trước hết dàn nhạc phải sử dụng nhiều kỹ thuật và kết hợp tất cả các nhạc cụ lại với nhau, điều này rất thú vị khi xem video. Vì guitar là nhạc cụ chính nên phần lớn video cho hiển thị những ngón tay mềm mại dịch chuyển thật linh động trên phím đàn. Chắc chắn nghệ sĩ đã mất rất nhiều giờ luyện tập để màn trình diễn thành công.

Tôi đã thử viết lời việt dựa theo giai điệu của bài hát Lacrime (Nước mắt) mà ca sĩ Pietro Galassi đã hát nhưng không tìm ra sheet nhạc và ở Ý lúc ấy cũng không có đàn guitar nên khó thể thực hiện. Tôi liền cầu cứu với nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên, một người bạn hay đúng hơn là một người anh và giữa chúng tôi có rất nhiều đồng cảm văn chương. Anh hiền hòa, ít nói nhưng là người sâu sắc luôn có trái tim trăn trở và khát khao hạnh phúc cho đất nước và con người.

Sau một thời gian gọi qua gọi lại, tôi gửi hết các thông tin về bản hòa tấu và dịch lời các bài hát, anh Phú Yên đã viết nên ca khúc “Khúc tình buồn” với lời việt dựa theo dòng nhạc Concierto de Aranjuez của Joaquín Rodrigo.

Mời các bạn lắng nghe ca khúc “Khúc tình buồn” qua tiếng hát của ca sĩ Đông Quân.

https://www.youtube.com/watch?v=0_uRfDG82jY Ca sĩ Đông Quân

PS: Cũng cần nói thêm là khi viết ca khúc này nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên chỉ nghe tóm tắt về tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng chứ chưa đọc tác phẩm. Mãi hơn 2 năm sau, khi lệnh giãn cách chấm dứt tháng 3-2022 tôi được bay về Việt Nam và gửi anh bản thảo hoàn chỉnh.

Vì bối cảnh của tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng ở thành phố Milano và câu chuyện liên quan đến văn hóa phong tục, môi trường và luật pháp ở Ý nên tôi muốn in tác phẩm bằng tiếng Ý trước khi in bản tiếng Việt. Còn có một lý do khác là sau khi viết và dịch hơn 10 tác phẩm ở Việt Nam mà tác phẩm nào cũng đều có chút dư luận nên tôi cũng muốn “thử sức” ở Âu Châu xem sao.

Nhờ sự hiệu đính và chỉnh sửa của Elena tôi đã dịch toàn bộ tác phẩm sang tiếng Ý với tựa là Ultima Promessa. Cuối năm 2023 chúng tôi bay về Ý và đưa bản thảo cho vài người quen đọc thử. Marco Adami, một giáo sư đang giảng dạy ở viện đại học Milano cho biết anh đã đọc say mê và nhận định: “Không chỉ là câu chuyện về tình yêu của hai nhân vật , cuốn sách còn đề cập đến tình bạn và các chủ đề quan trọng trong xã hội, đưa ra một bức tranh hoàn chỉnh về cái chết êm dịu, phân tích đến các khía cạnh đạo đức, triết học và tôn giáo, nhận manh sự thiếu quy định về luật pháp ở Ý dù đã được thảo luận trong nhiều thập kỷ. Một cuốn sách giúp chúng ta hiểu được sự khác biệt sâu sắc giữa sống và tồn tại!”. Còn chị bạn Franca đọc xong rất thích nên chuyển cho người bạn là giáo sư Giuseppe Deiana dạy triết học ở Milano. Ông cũng là tác giả của năm, sáu đầu sách, mà quan trọng hơn hết là tiểu luận La Morte Buona. E’ Possibile L’eutanasia Cristiana? (Cái chết ngọt ngào. Có thể có một sự trợ tử trong đạo Chúa?) là một chủ đề chính trong tiểu thuyết Ước hẹn cuối cùng. Lời nhận xét của ông: “Một quyển sách hay và giá trị. Nếu là nhà xuất bản tôi sẽ in ngay” đã làm tôi tự tin nên liền tìm cách xuất bản ở Ý.

Không quen biết ai trong giới và hoàn toàn mù tịt về việc xuất bản ở Ý, tôi lên mạng tìm hiểu. Quả đúng là một mê hồn trận và các thông tin rối rắm và đôi khi trái chiều. Thế nhưng, có thể cũng nhờ một chút may mắn, chúng tôi liên lạc với nhà xuất bản Etabeta-PS và trong thời gian kỷ lục, chỉ trong vòng 2 tháng quyển tiểu thuyết Ultima Promessa đã được in. Thời gian cũng vừa kịp để chúng tôi có thể cầm được vài bản in mang về Việt Nam vào đầu tháng 12-2023.

Một bất ngờ khác nữa là sau khi đọc trọn bản thảo Ước hẹn cuối cùng nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên đã cảm xúc và còn viết nên ca khúc khác là Mối tình thiên thu. Khác với Khúc tình buồn, Mối tình thiên thu hoàn toàn do anh sáng tác, cả nhạc và lời. Tôi thực sự cảm động và biết ơn anh nhưng anh chỉ khiêm tốn nói: Câu chuyện trong tiểu thuyết cũng khá giống tâm sự cuả tôi nên tôi đã viết bằng cảm xúc.

Đó không phải là sự đồng cảm tuyệt vời, và cũng là một sắp xếp khác của định mệnh hay sao?

Đầu tháng 2-2024 nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên cho công bố nhạc phẩm MỐI TÌNH THIÊN THU này qua tiếng hát của ca sĩ Thảo Quyên và được nhiều người nghe và chia sẻ.https://www.youtube.com/watch?v=nMNTSr57SN8

Read Full Post »

.

Elena Pucillo Truong

                                 

                                           (Nguyên tác: Un gattino sperduto)

                                                 Bản dịch của Trương Văn Dân                        

Mỗi buổi sáng tôi thường xuống quán cà phê nằm dưới sân chung cư, vừa thưởng thức ly cà phê sữa đá vừa ngắm những chiếc lá của hàng cây rung khẽ vì ngọn gió  đến từ dòng kênh.

Vẫn là những tiếng chào, những nụ cười đáp lại của những người khách quen thuộc… một điều thật ra rất đơn giản nhưng thường giúp tôi thư giãn trước khi bắt đầu một ngày mới.

Sáng hôm đó, ngoài những người đàn bà bán rau quả, trái cây hay đậu phộng luộc tôi bỗng chú ý đến một thân hình bé nhỏ đang đến gần.

Mỏng manh như một đóa hoa, một bé gái đang mặc trên người chiếc áo màu xanh da trời, đang chầm chậm đến từng bàn để mời mọi người mua vé số.

 Nhỏ bé, gầy gò, với chiếc áo cụt tay phô ra hai cánh tay trần màu bánh mật, bé gái đó thu hút tôi bởi cái nhìn thật buồn từ đôi mắt to đen. Thoạt đầu bé không đến gần mà chỉ đứng liếc nhìn tôi từ xa, như không muốn mình bị phát hiện.

Có lẽ bé đang tò mò, nên nhìn một lát rồi bé tiếp tục đi bán ở các bàn khác. Thỉnh thoảng một vài người gọi bé đến gần chỉ để dò vé số, hy vọng trúng được chút gì, nhưng cũng có người mua vài tấm rồi cho thêm bé ít tiền.

Những lần như vậy tôi nhìn thấy bé cẩn thận mở túi xách, cầm lấy xấp vé số ra mời khách rồi sau đó bỏ vào ngăn trong, vé một bên và tiền một bên. Sau đó bé kéo fermature rồi mới đi bán tiếp.

Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi lần đầu nhìn thấy bé là bé còn quá nhỏ để có thể đi mưu sinh trên đường phố một mình. Mỏng manh như một cuống hoa, bé có thể bị quật gãy từ những bạo lực và tàn ác trong cái thế giới này.

Mà làm sao cha mẹ bé có thể yên tâm để bé đi làm một mình trên những con đường giữa thành phố này? Tại sao bé không đang ở một ngôi trường nào đó cùng với những bạn bè cùng tuổi?

Tôi tự hỏi mình như thế, mặc dù trong đầu cũng đã hình thành những câu trả lời có thể. Và tôi đã không thể không nghĩ đến bé nên những ngày sau đó tôi thường đưa mắt tìm kiếm đứa bé gái gầy gò và có đôi mắt đen to ấy.

           Lúc này là những ngày trước Tết, cuối năm thành phố vắng người, ai để dành được một ít tiền thì có thể về quê. Nhưng hình như năm nay nhiều người buôn gánh bán bưng không về được, giá tàu xe đắt đỏ, nên họ đành phải chọn mưu sinh trên đường với hy vọng là bán được chút gì để tạm đắp đỗi qua ngày.

Như thường lệ, chúng tôi thường hẹn bạn ở quán cà phê. Sáng hôm đó tôi xuống trễ, và đang ngồi nói chuyện với một chị bạn thì thấy từ xa đứa bé gái đang tiến đến gần.

Tôi chuẩn bị sẵn một ít tiền và nói khi bé bước đến gần:

  • Lại đây! Bác không mua vé số, nhưng tiền này là lì xì Tết để mừng tuổi bé.

Bé bất ngờ, mở to mắt nhìn tôi, bối rối đưa một bàn tay vuốt lọn tóc vừa rơi phủ mắt mà khuôn mặt như đang tỏa sáng. Bé cầm lấy tờ giấy bạc trong lòng bàn tay, bé nhỏ như bàn tay của một con búp bê, cảm ơn rồi rời đi, thỉnh thoảng dừng bước, ngoái đầu nhìn lại phía sau.

Còn tôi, sau chiếc kính che nắng, cảm giác là nước mắt mình cũng đang lăn xuống. Điều mà tôi cảm nhận là một nỗi đau từ sâu thẳm trong tim. Trong óc tôi lúc đó xuất hiện bao nhiêu hình ảnh, quá khứ và tương lai, bao nhiêu điều lẽ ra phải khác, nhân bản hơn, nhưng không phải vậy.

Vài ngày trôi qua… rồi Tết cũng qua nhanh. Trời không lạnh và những cơn gió nhẹ đầu xuân đã đem đến cho tôi sự mát mẻ khi ngồi thưởng thức ly cà phê ban sáng.

Cứ thế, chúng tôi ngồi tán gẫu với các bạn còn ở lại thành phố, không về quê ăn Tết, và trong lúc cười vui, thì đây, bé gái xuất hiện. Tôi gần như không nhận biết lúc bé đến gần và, thật bất ngờ, bé phủ người rồi nằm dài lên hai cánh tay tôi bằng một vòng ôm rất mạnh.

Sửng sốt về sự thân thiện bất ngờ và lòng yêu thương không chờ đợi này, tôi giật mình và cảm động, ôm bé giữa hai vòng tay, cảm giác dường như như cái thân hình nhỏ bé này đang thổn thức. Tôi không biết điều gì đã xảy ra sáng hôm ấy nhưng cái thân hình bé nhỏ như chú mèo con lạc lõng kia cứ bám vào tôi như đang tìm một sự cứu rỗi.

– Bé tên là gì?

– Bảo Trâm!

Vài câu hỏi thông thường nữa và bằng cái giọng lảnh lót như chim Bảo Trâm lễ độ trả lời. Đã 9 tuổi mà bé gầy ốm quá nên trông như nhỏ tuổi hơn, nhà ở bên kia chiếc cầu gỗ phía sau chợ xổm, không được đi học vì cha mẹ không có đủ tiền. Trong gia đình ngoài bé ra còn có một anh trai cũng đi bán vé số và một em nhỏ chỉ vừa 1 năm tuổi nên mẹ bé phải ở nhà trông con. Ba của bé đi làm phụ hồ, và cái gia đình nhỏ ấy chỉ có thể sống lây lất nhờ tiền thu nhập mỗi ngày.

Có bao nhiêu trẻ em đang tồn tại như vậy, chúng tồn tại và cảm thấy bằng lòng và cảm thấy mình may mắn khi mỗi ngày có thể ăn được một bữa cơm!

Nhưng bên cạnh đó cũng có những cuộc đời khác trong thành phố, nhiều em bé lớn lên với Ipad, điện thoại thông mình, video game đầy bạo lực… chúng hoàn toàn không biết gì về đời sống thực vì đã quen và chỉ quan tâm đến đời sống ảo!

Tôi mời Bảo Trâm uống nước và chỉ trong một hớp em đã làm cạn ngay ly trà đá. Tôi đưa một ly khác em cũng uống hết, cảm ơn, rồi tiếp tục đi bán.

Tôi và các bạn, tất cả yên lặng và có lẽ cùng chung ý nghĩ nên ai nấy đều nhìn theo hướng đi của chú mèo con lạc lõng với đôi mắt đen to, đang lầm lũi bước đi dưới nắng, giữa những cơn khát đến khô cổ và có lẽ cả đói, trên những nẻo đường thành phố.

Mấy ngày sau tôi cũng lại thấy Bảo Trâm, lần này em mặc một chiếc áo màu vàng có những chấm tròn nhiều màu xen với những con bọ rùa màu đỏ. Bé đến và chạy ào đến, nằm dài lên người tôi. Rồi bé thu hình, đưa hai cánh tay dài và khẳng khiu ôm lấy tôi, còn người thì run khe khẽ, có lẽ vì những cơn gió lạnh đầu xuân nên bé áp đầu tìm hơi ấm trên vai tôi. Tôi để yên bé nằm trong lòng mình, chiếc xách tay của bé nằm lắc lẽo giữa bé và tôi, hai tay bé quấn chặt quanh cổ.

Sau một lát tôi mời bé uống nước, cho bé một ít tiền và bỏ một chiếc bánh mì thịt vào túi xách trước khi bé tiếp tục đi bán..

  • Cháu bán gần hết rồi, chỉ còn có ít vé nữa thôi… vừa nói bé vừa đưa tôi xem một xấp vé số được buột lại bằng một sợi dây thun.

 Bé cẩn thận kéo fermature để đóng túi xách, gỡ tay ra khỏi vòng tay của tôi  rồi vẫy tay chào.

Rồi chỉ một lát sau, bé bất ngờ đến chạm nhẹ vào tôi từ phía sau lưng:

  • Cháu bán hết rồi… cháu bán nhanh… bé vừa nói vừa nhìn tôi mỉm cười.

Nói xong em bước đến trước mặt tôi, buông người nằm xuống và thu mình trên đầu gối. Thỉnh thoảng tôi đưa tay vuốt tóc và ve vuốt chiếc đầu bé tí. Bảo Trâm nằm yên cho như một chú mèo con và sau vài phút bé dường như thiếp ngủ. Chắc bé rất mệt và lạnh nữa.

– Sáng mai cháu phải nhắc mẹ đưa cho một chiếc áo khoác vì trời lúc này khá lạnh nhé.

Bé ngẩng mặt nhìn tôi mỉm cười và khẽ gật đầu.

Đó là một đứa bé hiền ngoan và biết vâng lời. Bé cười nhưng trong mắt dường như có nét buồn. Điều quan trọng với bé lúc này hình như là được nằm như vậy, được ôm ấp bởi một người xa lạ; bé đang đói và khát tình thương hơn là bánh mì và nước.

– Bây giờ bán hết rồi, lát cháu về nhà chứ không lang thang ngoài đường nữa nhé. Lạnh đó.

Bé đứng dậy như con mèo duỗi mình và chào tôi bằng cách cà cái mũi nhỏ xíu lên má tôi.

Tôi nhìn theo dáng bé đang rời đi và trong một thoáng tôi ước gì mình được là bà tiên có chiếc đũa thần trong truyện cổ tích để có thể mang lại cho bé gái ấy một chút hạnh phúc.

Sài Gòn, tháng hai 2019

Read Full Post »

Nguyễn Văn Sâm

Những cây bút nữ bất kỳ là ai, có danh hay chưa tạo được chỗ đứng trong văn học của nước mình, theo tôi đều là những cây bút đặc biệt. Họ có những cái nhìn khác với người viết thuộc tính phái khác. Sâu sắc về mặt tình cảm, nhẹ nhàng trong câu văn, lắm khi có những nhận xét tế nhị bất ngờ làm ngạc nhiên người đọc.

Nhà văn nam, kể cả người nghiêng nhiều về mặt thi ca, có khuynh hướng bộc lộ nhiều về mặt lý trí, Phan Khôi trong bài Tình già chẳng hạn, trong khi đó người viết nữ, ngay cả những bài phê bình, nhận định văn học, ta cũng thấy chan chứa nhiều điều tình cảm. Ba bài nhận định của ba người phê bình nữ Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị Tịnh Thy, Cao Thị Hồng trong tập  lấp lánh những tình cảm hơn là các suy luận cần nhiều lý trí, nhức đầu.  Đó là cái điều trời cho riêng phái nữ chăng? Cái phong tư trời xếp đặt để nam phái có  điều để so bì ganh tỵ chăng?

Trong cái chấp nhận tiên thiên đó, tôi đọc tập truyện ngắn Vàng trên biển đá đen của Elena Pucillo Trương. Và tôi thấy rõ hơn tình cảm của người phụ nữ. Ở đây không phải là tình cảm gái trai yêu đương mà là tình cảm của người với người, một cảm thức của con người bằng cái máy tính trước mặt và tấm lòng thương cảm tương thông trước nỗi bất hạnh, nhứt là nỗi bất hạnh của người phụ nữ.

Xin sẽ không làm việc phân tích để giới thiệu nhà văn nữ nầy với người đọc. Việc đó đã có ba cây bút nữ nói trên và biết bao nhiêu người khác nữa trong và ngoài tạp chí Quán Văn, những người khá nổi tiếng đương dạy văn học ở ba miền Bắc Trung Nam, lo việc nầy.

Từ trước đến giờ tôi thường tránh né sự việc nói chuyện bên ngoài tác phẩm khi luận về một tác giả, như kiểu đi tìm tiểu sử thiệt chính xác về ngày sanh tháng đẻ, về dòng dõi, thời đại và cả lý do sáng tác. Tôi đọc tác phẩm và luôn luôn coi tác phẩm là một vật thể kỳ bí để nhìn nó, suy nghĩ về nó rồi giới thiệu với độc giả mong giúp người đọc sau mình hiểu tác phẩm hơn – ít ra là hiểu theo cách nào đó mà người giới thiệu còn để lại chút ít ý tưởng bằng bài viết của mình sau khi độc giả buông bài vừa đọc xuống. Tôi  không đi theo trường phái dòng dõi, huyết thống, cũng không đi theo trường phái xã hội hay bất kỳ triết thuyết nào đó dầu được  theo dõi bởi số đông hay được thổi phồng lên tận mây xanh vào hàng siêu việt. Tôi coi tác phẩm là vật hiện diện tự thân, nó sau khi ra đời, đã có mặt và tách rời khỏi người tạo ra nó, đã đứng ở giữa chợ  đời văn học, dính dáng với tác giả chỉ vì cái ID của nó. Nếu chẳng may nó chẳng có ID như những tác phẩm vô danh tràn đầy trong nền văn học Việt Nam hay tác phẩm có tên người viết nhưng  chẳng ai biết tiểu sử ông/bà ấy cũng chẳng thể đoán định được chính xác  ông/bà ấy sống vào thời nào. Và tôi có bổn phận phải tìm hiểu chính nó và chỉ chính nó mà thôi, bằng cách đọc và ghi lại những cảm tưởng của mình.

Đọc quyển Vàng trên biển đá đen, truyện nầy, rồi đọc truyện kia, chắc hẳn nhiều người như tôi, thỉnh thoảng lật lại cái bìa để kiểm chứng lại coi bài viết nầy văn phong nọ phải chăng của một người ngoại quốc. Kiểm chứng lại vì tôi thấy như là cây bút của người Việt Nam thuần túy. Câu chuyện Việt Nam, bối cảnh Việt Nam, nỗi đau  thương Việt Nam, những éo le tình tiết Việt Nam. Tấm lòng của tác giả tràn đầy xúc cảm Việt Nam. Và nhứt là văn phong Việt, thuần Việt.

Viết đến đây tôi nhớ đến cặp sinh vật huyền thoại, một đàng không mắt mà chân cứng đá mềm, một đàng có mắt rất sáng để chỉ đường phải đi để tránh những nguy hiểm. Và cặp vợ chồng tri kỷ Elena Pucillo- Trương Văn Dân đã ở trong trường hợp đó. Nếu không có những bản dịch đầy chất văn chương được gọt dũa với tình nồng và sự thông hiểu tâm hồn nhau tường tận bằng mấy chục năm yêu thương vợ chồng thì chúng ta không có bản tấu khúc rất Việt Nam Vàng trên biển đá đen của một người phụ nữ đến từ xa xôi của trời Âu nước Ý.

Tôi có nhiều dịp được anh Dân và chị Elena  tiếp chuyện. Chị  ít nói, trầm ngâm thì nhiều, đó là vấn đề ngôn ngữ, nhưng khi chị nói thì chữ dùng ít mà chính xác, lại líu lo rất vui. Tôi hiểu trở ngại chút xíu ngôn ngữ của nhà chồng, nhưng chị có tấm lòng của người vợ yêu quê hương nhiều đau khổ của chồng nên chị nói ra bằng tác phẩm. When we speak, we are afraid our words will not be heard or welcomed. But when we are silent, we are still afraid, so it is better to speak. (Aude Lorde). Và Elena đã nói lên bằng bao nhiêu bài văn của mình. Tất cả đều được chào đón nồng nhiệt.

Một nhà văn nữ nào đó có nói ‘thiên tài thì có tức thời, liền ngay, còn tài năng thì cần phải có thời gian để hình thành. Với tôi, cái thời gian để hình thành đó quá ngắn trong trường hợp Elena Pucillo Truong. Nó không cần thiết phải kiểm nghiệm bằng thời gian mà kéo dài chi cho vô ích!

Và tôi mỉm cười vui: Vào thời đại toàn cầu hóa, chúng ta có một nhà văn Việt đặc biệt: Elena Pucillo Truong cũng như chúng ta có biết bao nhiêu cô dâu ngoại quốc theo phong tục Việt Nam một cách thuần,thục, biết nấu canh kho cá theo kiểu Việt Nam.

Nói theo Khổng Tử xưa: Bất diệc lạc hồ? Thế chẳng vui sao?

Nguyễn Văn Sâm, Tháng Tám 2018

Read Full Post »

Tiểu Mai

             

                                                     “Trò chuyện với thiên thần – Những tai họa thế giới và giấc mơ Việt Nam

                                                                   Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. ( 6.2020)

          Nhà Văn  Kiều Bích Hậu đã giới thiệu bài viết của Tiểu Mai về Trò chuyện với thiên thần đăng trên trang Kết nối văn học thế giới (www.worldliterature.link) và trên Facebook cá nhân : “Một cuốn sách mà bạn có thể đọc lúc thảnh thơi để tìm được sự đồng cảm, nhưng cũng có thể đọc lúc tâm trí rối bời để tìm về bình an.”

“Trò chuyện với thiên thần – Những tai họa thế giới và giấc mơ Việt Nam” là một cuốn sách lạ lùng! Nó lạ từ cái tựa cho đến thể loại mà tác giả lựa chọn. Nhưng nếu có thể vượt qua giây phút e dè ban đầu để mà tiếp cận sách, thì chắc chắn nó sẽ lập tức biến thành thỏi nam châm hút người đọc ngay từ trang đầu tiên.

Xa lạ mà gần gũi,

Hiểu được băn khoăn thông thường của độc giả nên Trương Văn Dân đã có đôi dòng giải thích ngay rằng: “Độc giả chắc sẽ bất ngờ về quyển sách này và nghĩ rằng các đề tài đề cập trong sách đều xa lạ với cái thế giới mà ta đang sống, vì đó chỉ là một cuộc trò chuyện với một nhân vật siêu việt: Thiên thần.

Nhưng hoàn toàn không phải vậy, đó là quyển sách có những câu chuyện liên quan đến đời sống chúng ta, đến thân phận làm người, dù là nam hay nữ, trong cuộc sống hàng ngày.”

Tất nhiên rồi, dù là hư cấu đi chăng nữa, nếu không liên quan đến đời sống thì sẽ chẳng mấy ai tìm đọc. Nhưng “Trò chuyện với thiên thần – Những tai họa thế giới và giấc mơ Việt Nam” rõ ràng không phải là hư cấu. Bởi vì, tác giả trò chuyện với nhân vật tưởng tượng để nói với một tương lai hiện thực. Nhà văn Vũ Ngọc Tiến nói: “Nếu gọi đây là một giáo trình tổng hợp về nhân loại học như một “Bách khoa thư” về cuộc sống cũng không sai bởi mỗi lần trò chuyện của người cha với thiên thần nhỏ bé là một bài giảng bao chứa các vấn đề triết học, tôn giáo, đạo đức học, xã hội học; thậm chí cả những vấn đề về chính trị học, kinh tế học của thế kỷ XX vắt qua hai thập niên đầu của thế kỷ XXI như chiến tranh, toàn cầu hóa kinh tế, cách mạng tin học,…”

Xem chừng “nội thất” cuốn sách này hầu hết đều là những chủ đề đau đầu buốt óc và có vẻ khô khan, nhưng làm thế nào nó vẫn “thao túng” được người đọc, đến mức không thể đọc lướt mà phải đọc thật kỹ, thậm chí đọc đi đọc lại những đoạn làm họ tâm đắc?

Câu trả lời vẫn nằm gọn trong hai chữ: Thực tếđặc tính bám rễ và ăn sâu vào phong cách viết của Trương Văn Dân. Nói cách khác, những câu chuyện thực tế được tác giả quan sát, ghi nhớ để rồi viết ra bằng lối văn chương chân thật và minh triết, khiến những người bạn tri âm của ông cũng phải ngưỡng mộ. Nhà văn Đặng Châu Long nói: “Trò chuyện với thiên thần là một tác phẩm văn học dành cho ai yêu quá đỗi đời này”. Nhà văn Elena Pucillo Truong thừa nhận: “Đây là một quyển sách để chúng ta dừng lại và suy nghĩ.”

Không dừng lại để mà suy nghĩ sao được khi mà mỗi trang sách của Trương Văn Dân đều có một đoạn, thậm chí nhiều đoạn khiến người đọc chỉ muốn ghim ngay vào cuốn sổ ghi chú: “Chừng tuổi này, tôi quá hiểu là của cải không nằm lâu trong bàn tay của một người mà nó luôn được chuyển từ tay người này sang tay người khác. Chủ tài sản giống như những người ở trọ trong khách sạn hay hành khách trong một toa tàu: Tuy có mặt, nhưng chẳng bao giờ được ở lâu.

Trong nhịp sống mới, áp lực của người trẻ giống như một vận động viên điền kinh không tìm được vạch chiến thắng. Chạy miệt mài nhưng chạy đến đâu cũng không tìm thấy vạch cuối cùng.”

Hiện nay không chỉ ở Nhật dù xã hội phát triển, có internet và các mạng xã hội nhưng nỗi cô đơn đã trở thành bệnh dịch toàn cầu!

Nếu có một người nào đó hỏi ba: Bạn muốn con mình lớn lên sẽ trở thành gì? Luật sư? Bác sĩ? Kỹ sư? Nhà quản trị?, ba sẽ không ngần ngại trả lời: Hạnh Phúc.

Vì mỗi khi gặp nhau, phần lớn mọi người sẽ hỏi con: Con làm việc ở đâu? Công ty nào? Lập gia đình chưa? Có mấy con? Đã mua nhà chưa? Mua xe chưa?… như thể cuộc đời chỉ là bảng liệt kê những món hàng. Phần lớn đều xây nhà trên sa mạc mà cứ tưởng là vững chãi. Nhưng chỉ cần một câu hỏi thì tất cả những thứ đó liền chao đảo: Con có hạnh phúc không?

Thực ra thì ai cũng tin là mình đã hành động đúng, nhưng theo ba chỉ có một cách để kiểm chứng: Nếu không bình an và hạnh phúc có nghĩa là mình đã sai lầm.”

Là một độc giả đã thẩm rất kĩ cuốn sách “Trò chuyện với thiên thần”, nhà văn – nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu khẳng định: “Tác giả hẳn sẽ nhận được đồng cảm tri âm bởi ông đã thắp lên một que diêm cho mỗi đêm buồn mất ngủ.

Đồng hành với cuốn sách này, độc giả sẽ thấy thiên thần thực ra cũng rất gần gũi, trong sáng, luôn ôm ấp và che chở chúng ta bằng đôi cánh mềm mại, làm bất cứ việc gì cũng bằng trái tim dù trong linh hồn họ luôn có rất nhiều vết sẹo…

Thức tỉnh để cứu rỗi mình thoát khỏi sự tự hủy diệt

Trương Văn Dân đam mê cống hiến cho nghề viết đến mức ông không cần người ta phải gọi tên sách của mình sao cho đúng.

Tôi chỉ viết với ý muốn được chia sẻ những suy nghĩ về cuộ sống và mong bạn đọc hiểu cho rằng những trang viết của tôi là không vô nghĩa, không giáo điều. Vả lại, những điều tôi nói cũng chưa hẳn là mới, mà chủ yếu chỉ là những nhận thức chung và ước muốn nhìn thẳng vào sự thật. Tôi cũng như bạn, không ai có thể chắc chắn về điều gì. Bản chất của cuộc đời là đổi thay liên tục. Khi chúng ta tưởng có mọi câu trả lời thì những câu hỏi đã bất ngờ thay đổi”, Trương Văn Dân tỉ tê như thế trong cuốn sách “Trò chuyện với thiên thần”.

Có lẽ, số đông độc giả sẽ đồng tình với nhà Elena Pucillo Truong, rằng “Trò chuyện với thiên thần” khiến chúng ta dừng lại và suy nghĩ. Động thái này của độc giả chính là thành công của tác giả bởi vì, “Đời sống không phải là một trò chơi trên mạng ảo nên khi ý thức được điều này sẽ làm nhiều người vô cùng khổ sở. Trong đời sống thực chúng ta đau khổ, chúng ta chết mà không thể nào tránh khỏi. Nhưng chúng ta không thể chạy trốn khổ đau bằng cách ngắt điện hay tắt chiếc điên thoại di động. Chúng ta hiểu là sự tiến bộ có thể giúp ích cho con người nhưng con người cũng cần phải phát triển những kỹ thuật có đạo đức, và chỉ có thế chúng ta mới mong cứu rỗi mình thoát khỏi sự tự hủy diệt, trước khi chạy đến điểm không còn có thể quay lại.”

 Nguồn :

Read Full Post »

Trương Văn Dân

.

Elon Musk và 1000 chuyên gia : Hãy dừng nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo hoặc mọi thứ vượt khỏi tầm tay!

Các đại đệ tử của các phù thủy về trí tuệ nhân tạo hiện đang lo lắng!

Trong tháng 3 -2023, Elon Musk và 1000 chuyên gia Trí tuệ nhân tạo đang phát đi Lời kêu gọi: “Hãy dừng lại trong 6 tháng hoặc mọi thứ có thể vượt khỏi tầm tay”.

Có nghĩa là chúng ta đang tạo ra những quái vật (nhân tạo) và khi mất kiểm soát nó sẽ gay ra tác hại khôn lường!

Khi đọc lời cảnh báo này tôi liền nhớ lại chuyện các phù thủy ngày xưa tạo âm binh để sai khiến, nhưng về sau chúng nổi lên làm phản và giết chủ! Tương tự, nếu máy tính có khả năng đánh bại nhà vô địch cờ tướng thì nó cũng có thể tự tạo ra phương cách để vượt qua những giới hạn đặt sẵn để chống lại con người.

Đã từng xảy ra trường hợp là có một robot đã bắt đầu suy nghĩ độc lập và tạo ra một thứ ngôn ngữ mới nên các nhà bác học đã sợ hãi và cúp điện.

Mời các bạn đọc lại chương 33 – Của riêng còn lại chút gì? Trích từ tiểu thuyết TRÒ CHUYỆN VỚI THIÊN THẦN viết về đề tài Trí tuệ nhân tạo từ năm 2014, nghĩa là trước 9 năm khi cảnh báo này được đưa ra khi Thần đèn sắp thoát ra và có nguy cơ mất kiểm soát.

Elon Musk và 1000 nhà nghiên cứu và quản lý, bao gồm cả người bảo trợ của Tesla và Twitter Elon Musk, yêu cầu “nghỉ ngơi” sáu tháng trong việc phát triển các hệ thống trí tuệ nhân tạo tiên tiến như ChatGPT.

Liệu 6 tháng có phải là thời gian cần thiết để ngăn chặn cái mà họ gọi là một cuộc chạy đua vũ trang “nguy hiểm”? và có thể gây nên chiến tranh thế giới và con người sẽ bị tiêu diệt bởi phóng xạ nguyên tử như nhân vật thiên thần trong tiểu thuyết?

Lời kêu gọi này được đưa ra trong một bức thư ngỏ được xuất bản bởi Viện Tương lai Cuộc sống (Future of Life Institute) và được tờ Financial Times đưa tin. Các chuyên gia nhận định “trong những tháng gần đây, đã có một cuộc đua ngoài tầm kiểm soát của các phòng thí nghiệm AI để phát triển và triển khai những bộ óc kỹ thuật số mạnh mẽ mà không ai, kể cả người sáng tạo, có thể hiểu, dự đoán và kiểm soát. Chúng có thể gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho xã hội và nhân loại”.

Do đó, họ yêu cầu “tất cả các phòng thí nghiệm AI dừng ngay lập tức trong ít nhất sáu tháng để đào tạo các hệ thống AI rất mạnh như GPT-4. Việc tạm dừng phải được công khai, có thể kiểm chứng và bao gồm tất cả mọi người.

Nếu điều này không được thực hiện nhanh chóng, các chính phủ cần phải can thiệp và đưa ra lệnh cấm”.

Hiện tại, Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ là ba quốc gia dẫn đầu trong cuộc đua trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng các nước khác sẽ bắt kịp bằng mọi giá.

Trong số những người ký tên vào bức thư còn có hai trong số các chuyên gia hàng đầu về các công nghệ này là Stuart Russell và Yoshua Bengio, những người sáng lập Stability AI và Character.ai, một số người đồng sáng lập Apple bao gồm Steve Wozniak, Pinterest và Skype cũng như Max Tegmark, của Viện Công nghệ Massachusetts cũng như nhiều kỹ sư từ Microsoft, Google, Amazon, Meta và DeepMind. Một tuần trước, Alphabet (Google) đã giới thiệu phiên bản Trí tuệ nhân tạo, được phát triển để thách thức ChatGPT, trong đó họ đầu tư vào đối thủ Microsoft.

Liên minh châu Âu đang chuẩn bị một quy định cho việc sử dụng trí tuệ nhân tạo với các hình phạt đối với các công ty vi phạm các quy tắc.

Trước đây Musk cũng đã từng lo sợ là nếu AI bị buông lỏng quản lý và mặc sức tung hoành thì “hiểm họa tiềm tàng lớn nhất mà nền văn minh của chúng ta phải đối diện” nên đã từng có cuộc khẩu chiến với ông chủ Facebook là Mark Zuckerberg:

Zuckerberg cho rằng quan điểm tiêu cực của Musk về trí tuệ nhân tạo là “khá vô trách nhiệm” và Musk phản bác rằng hiểu biết của Zuckerberg về vấn đề này “còn hạn chế”.

&

Nhưng có một chuyên gia không ký tên vào thư thỉnh nguyện nói trên vì cho rằng nó quá mềm mỏng, thậm chí còn kêu gọi hãy đánh bom các trung tâm dữ liệu.

Người đó là ai? Eliezer Yudkowsky.

Eliezer Yudkowsky là người đã dành hơn hai thập kỷ nghiên cứu Trí tuệ tổng hợp nhân tạo (AGI) và cảnh báo về những hậu quả tai hại có thể xảy ra. Vì lý do này, ông còn vượt xa hơn báo động vừa được đưa ra bởi những người như Elon Musk, Steve Wozniak và Andrew Yang…

Yudkowsky lập luận rằng điều đó là không đủ.

Đây là đề xuất gây sốc. Nhưng trong bài xã luận trên tạp chí Time magazine ông cho rằng sự tăng trưởng theo cấp số nhân của các hệ thống trí tuệ nhân tạo đang nhanh chóng đạt đến mức kịch phát, vô cùng nguy hiểm.

Chuyên gia này nói rằng cách duy nhất để tránh thảm họa là chặn hoàn toàn AI. Ý tưởng của ông? “Tắt tất cả các cụm (cluster) GPU lớn (các trang trại máy tính nơi phát triển trí tuệ nhân tạo mạnh nhất) và áp đặt giới hạn về sức mạnh tính toán có thể được sử dụng cho đào tạo AI, giảm nó theo thời gian. Không có ngoại lệ, ngay cả đối với các chính phủ và các cơ quan quân sự”.

Điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó không tuân thủ các quy tắc? Yudkowsky không nghi ngờ gì: “Hãy phá hủy các trung tâm dữ liệu này bằng một cuộc không kích.”

Nỗi sợ hãi hay rối loạn tâm thần có cơ sở?

Giọng điệu của chuyên gia Yudkowsky đã làm nhiều người hoảng loạn. Ông

còn nói rằng đang lo sợ là con gái Nina của mình sẽ không sống sót đến tuổi trưởng thành nếu AI ngày càng thông minh tiếp tục phát triển. “nói trắng ra là tất cả mọi người trên Trái đất sẽ chết.”

Chúng ta có thể cho Yudkowsky là một kẻ cường điệu về thảm họa, tuy nhiên nếu ai đó đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu về sự nguy hiểm của AI chắc chắn là cảnh báo của người đó rất đáng để lắng nghe.

Có phải vậy không?

.

Bây giờ thì xin mời các bạn đọc lại Của riêng còn lại chút gì?

…Thời của ba mẹ tuy không phải hoàn toàn nhưng cuộc sống khá thanh bình. Mọi người sống hòa thuận với thiên nhiên, sự nương tựa của con người vào nhau đã làm nên nét đẹp hiền hòa của miền quê yên tĩnh. Còn bây giờ… mảnh đất quê hương khó giữ được sự yên ổn, mọi tác động của xã hội đều thường trực quấy nhiễu…

Xã hội ngày xưa khá đơn giản. Mỗi đời người một lối sống, truyền từ đời này qua đời khác và cứ thế mà theo. Nó tựa như chiếc xe lửa lăn

167

bánh trên đường ray. Giao lưu quốc tế còn ít, nước nào, dân tộc nào sống trong lãnh thổ riêng biệt của mình. Phong tục, tập quán nhiều năm liền không thay đổi.

Còn xã hội hiện đại thì đang chuyển động quá nhanh đến mức không thể tưởng tượng được tương lai có thể sẽ xoay chuyển như thế nào. Vào những thế kỷ trước, người ta có thể suy đoán một cách tương đối về thế giới của thế kỷ sau và hình dung về cách sống trong xã hội đó. Khi đó, có rất nhiều chuỗi sự kiện mà con người còn đóng vai trò chủ đạo. Nhưng thế giới vào ngày con chào đời trong thế kỷ 21 thì ba thấy gần như không thể. Ba không biết rồi mình sẽ ở đâu, nếu lúc ấy ba còn tồn tại. Có thể là loài người đang xây dựng một thế giới không có chỗ cho chính mình: Vì khi chúng ta nói về tương lai thì tương lai đã thay đổi rồi. Cái tương lai mà chúng ta nói về chỉ là tương lai của quá khứ!

Thỉnh thoảng nói chuyện với con ba hay nhắc về xã hội thời ba từng sống. Điều đó cũng là thường tình khi một người lớn nói chuyện với người trẻ hơn mình. Nhưng điều này không hẳn chỉ có ba mới tiêc nuối quá khứ mà là cả xã hội đang nhìn lại mình. Sài Gòn đang rộ lên những quán café mang phong cách cũ, đèn vàng, nhạc Trịnh, những mái ngói rêu được thiết kế sao cho nó có hơi hướm xưa. Đương nhiên bên cạnh đó vẫn có vô vàn quán mang phong cách trẻ, hiện đại, rất Tây. Nhưng cứ mỗi khoảng thời gian, quán café mang phong cách cũ lại tiếp nối nhau mọc lên.

Cuộc sống chỉ có thể tiến lên, bước tới, có ai nghĩ đến chuyện thụt lùi lại quá khứ làm chi. Nhất là một quá khứ toàn chiến tranh, bom đạn, mất mát. Vậy thì theo con, điều gì khiến nhiều người tiếc nuối? Phải chăng cái gì thuộc về kỉ niệm, cái gì đẹp thì người ta khó có thể quên, cái gì đã được khẳng định là giá trị thì nó sẽ phải tồn tại?

Thời ba sống, dù chiến tranh lan rộng, nhưng là một thời đại không lên cơn sốt. Cũng không điên cuồng vội vã. Máy móc, xe hơi, điện thoại, máy bay… chưa áp đặt cho con người một nhịp sống siêu tốc. Thời gian và tuổi tác có một thước đo khác. Người ta sống êm

168

đềm hơn. Thời còn bé ba chưa bao giờ thấy ông nội chạy nhảy hay làm một điều gì đó vội vàng. Sự hấp tấp thời đó được xem là thiếu tao nhã và thậm chí vô ích vì trong thời ấy hiếm khi có điều gì thật bất ngờ xảy ra.

Vào những năm cuối đời, cha đẻ của phân tâm học Freud cũng tự đặt cho mình câu hỏi, là liệu những thành tựu mà con người tự hào có phải là dấu hiệu của tiến bộ? Mở đầu một tiểu luận ông ca tụng những thành tựu kỹ thuật, thí dụ niềm vui được nghe giọng nói của con mình khi cách xa hàng ngàn cây số. Nhưng sau đó ông liền viết, là nếu không phát minh ra xe lửa để mang con mình đi xa thì ông đâu có nhu cầu dùng điện thoại để nghe giọng nói của nó. Nếu không có phát minh và chế tạo những con tàu thì con người cần gì phải phát minh ra điện tín để có thể biết tin một người bạn đang đi xa, ở một lục địa nào khác…

&

Khi ba viết cho con những dòng này thì những cột khói của nhà máy điện đang bay lên cao và làm ba nghĩ đến những con người hiện đại đang ngày đêm cặm cụi làm việc để kéo cỗ máy thế giới đi theo tiến bộ và có trộn bệnh ung thư của thời đại. Dĩ nhiên người Mỹ là chuyên gia trị ung thư giỏi nhất thế giới. Họ giỏi bởi vì, với những kỹ nghệ thức ăn, phân bón, thuốc trừ sâu, diệt côn trùng, thuốc khai quang, chăn nuôi và lối sống của họ… chính là những thứ tạo ra căn bệnh này.

Thời gian con sinh ra thì thế giới đang bắt đầu một cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư. Nó hình thành trên căn bản của những công nghệ mới như công nghệ Robot, công nghệ Nano, trí tuệ nhân tạo…

Đây là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực tế với thế giới sinh vật. Trong tương lai rất gần các nhà máy thông minh kết nối với Internet và liên kết với nhau qua hệ thống tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất.

169

Những công nghệ mới này sẽ ảnh hưởng đến mọi luật lệ, mọi nền kinh tế, mọi ngành công nghiệp, đồng thời thách thức ý niệm của chúng ta về vai trò thực sự của con người.

Ảnh hưởng của nó trong thời gian đầu là hàng triệu người thất nghiệp, đặc biệt là các công nhân trong ngành vận tải, kế toán, bảo hiểm… Nhiều công việc ở các nước tân tiến sẽ biến mất vì tự động hóa. Cuộc cách mạng này sẽ có lợi cho tầng lớp giàu hơn là cho những người lao động trình độ thấp, và cũng như từng xảy ra trong lịch sử, các cuộc cách mạng công nghiệp đều mang theo sự bất công và kéo theo hàng loạt những chuyển dịch lớn về chính trị cũng như về thể chế. Chắc chắn trong thời gian tới sẽ có những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu xã hội mà ba không thể nào lường nổi.

&

Thời của con là thời đại kết nối. Sự xuất hiện của Internet và World Wide Web trong những năm của thập niên 1990 đã được chào đón như một thời khắc của giải phóng và mang lợi ích cho nền dân chủ toàn thế giới. Thông tin tạo ra một hình thức của quyền lực, và tới một phạm vi mà thông tin đã trở nên rẻ hơn và tiếp cận được nhiều hơn, các công luận dân chủ sẽ có thể tham gia trong các lĩnh vực mà cho đến nay họ đã bị loại trừ. Trong những năm đầu của thập niên 2000, sự phát triển của các phương tiện truyền thông xã hội dường như đã thúc đẩy khuynh hướng này, nó cho phép việc huy động quần chúng châm dầu cho “các cuộc cách mạng màu sắc” dân chủ khác nhau quanh thế giới, từ Ukraina đến Miến Điện đến Ai Cập…

Thông tin hiện nay rất đa dạng. Người ta có thể online để học cách làm giấy của người Ai Cập, làm sữa chua như người Mông Cổ, hay chế tạo bom xăng, cách phun thuốc tăng trưởng độc hại cho cây trái…

Cuộc cách mạng Internet đã giúp lớp người trẻ như con có được những kho tàng kiến thức vô giá, một thư viện thông tin khổng lồ, mở cửa 24/7, lợi ích và tai hại trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Con có thể tiếp thu thông tin hay liên lạc với nhau bằng tốc độ của ánh sáng. Nhưng những gì để lại qua hình ảnh và chữ viết của mình trên internet, email, Facebook… sẽ bị lưu giữ. Và chắc chắn sẽ có người lợi dụng để khai thác thông tin. Tính riêng tư vì thế sẽ không còn. Điều quý giá nhất của con người đã bị mất. Credit card, mua sắm thứ gì, ở đâu đều bị Big Brother(1) quan sát, lưu giữ ghi chép. Điện thoại di động sẽ kiểm soát con mọi lúc mọi nơi. Ti vi dù tắt, nhưng những gì con làm, gặp gỡ ai trong phòng khách vẫn bị bí mật chụp hình quay phim, tất tật.

Loài người hiện nay đang bị các tập đoàn như Apple, Facebook, Microsoft và Google “bán như rau”: Đằng sau những dịch vụ miễn phí: Email miễn phí, hệ điều hành miễn phí, kết nối miễn phí với bạn bè, tìm kiếm miễn phí là kho dữ liệu khổng lồ mà các nhà cung cấp dịch vụ khai thác từ khách hàng. Từ đó họ có thể bán chúng ta cho các dịch vụ quảng cáo để thu lợi gấp nhiều lần. Trên Facebook mọi “hành tung” của tất cả những ai sử dụng đều được ghi lại đầy đủ trong Nhật ký hoạt động của nhà điều hành. Bất cứ điều gì ta làm trên mạng đều lưu lại dấu vết. Dĩ nhiên ai cũng cố giữ sự riêng tư nhất có thể, nhưng sự riêng tư ấy đều đã thuộc về gã khổng lồ mang tên mạng xã hội.

Và không cần là Sherlock Holmes, người khác cũng có thể đoán được một người thông qua hành vi trên mạng của họ. Ta mua bằng thẻ nào, tìm gì trên Google, like những trang nào, bạn bè ta là ai. Tất cả những dữ liệu ấy đều được lưu lại trong một bộ nhớ khổng lồ.

Hình như không có ai có thể thoát khỏi tầm mắt của “người anh cả”. Một hệ thống camera giám sát phủ rộng tại các thành phố khắp nơi trên thế giới đã biến xã hội thành một cơn ác mộng đi ngược lại nguyên tắc về thừa hưởng phúc lợi từ sự tự do và công bằng mà Tây phương đã tranh đấu từ nhiều thế kỷ trước.

1. Big Brother hay Người anh cả là chương trình truyền hình thực tế do Đài CBS sản xuất, được xây dựng với ý tưởng tập hợp một nhóm khách mời, đưa họ vào sống trong một ngôi nhà tách biệt với thế giới bên ngoài và các phương tiện giải trí như tivi, điện thoại, Internet, thậm chí cả báo chí, sách vở. Tại ngôi nhà chung, hàng loạt camera sẽ ghi hình mọi hoạt động trong ngày của các thí sinh. Ở Việt Nam chương trình này được gọi là Người giấu mặt.

171

Một khái niệm mới bắt đầu ra đời: quyền lực thứ sáu.(1)

Ở các nước như Mỹ, Đức, Trung Quốc đều có các loại camera được gắn trên những cột đèn giao thông và cột điện. Chúng sẽ giám sát các khu vực có mật độ giao thông đông đúc như chợ, trung tâm mua sắm, công viên và các trạm xe buýt. Đó là skynet nhằm kiểm soát hành vi của người dân trên đường phố.

Khi trao đổi với mẹ con về chuyện này, mẹ con có kể lại cho ba câu chuyện mà trước đây đã tạo nhiều dư luận ở một thị trấn ở tiểu bang New York, nhưng nay là chuyện thật bình thường ở nhiều quốc gia: Người ta gắn camera trong nhà trẻ để các bà mẹ ngồi trước máy vi tính trong văn phòng có thể theo dõi các con mình đang làm gì và do đó yên tâm làm việc.

Nhưng cách giải quyết tốt nhất không phải là để các bà mẹ được sống bên cạnh con mình sao? Chúng ta đang tạo một thế giới “hiện đại” có lẽ hơi… quái gở: Người ta đưa trẻ em vào nhà trẻ, bỏ người già

1. Từ thời trung cổ đã hình thành ba loại quyền lực gồm Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp, cả ba nhóm này đều thuộc lĩnh vực trị quốc tức dưới quyền năng của chính quyền cai trị cai quản quốc gia hay lãnh thổ. Đến thế kỷ XX báo chí và truyền thông trở thành quan trọng nên được gọi là quyền lực thứ tư. Thế kỷ XXI với sự vươn lên quá mạnh mẽ của internet, các blog, mạng xã hội vượt khỏi tầm khống chế của cả báo chí – truyền thông lẫn tập đoàn trị quốc, khiến cả 4 thế lực này vào giai đoạn đầu của thế kỷ XXI chưa có biện pháp khống chế hữu hiệu, nên trở thành “quyền lực thứ năm”.

Gần đây, trong quyển sách Liquid Surveillance. A conversation của nhà tư tưởng và xã hội học Bauman về cuộc đối thoại với David Lyon, giám đốc trung tâm nghiên cứu về giám sát (Surveillance Studies Centre) có nói về nhu cầu của “quyền lực” như chính khách, nhóm lợi ích, về sự xóa bỏ quyền riêng tư của công dân. Nói cách khác, những gì riêng tư sẽ biến thành công cộng. Do đó, tất cả mọi người đều bị kiểm soát, phân loại, đánh giá, phán xét từ những điều nhỏ nhặt hàng ngày. Trớ trêu là chính chúng ta – kẻ bị kiểm soát – đã cung cấp tất cả các thông tin cá nhân, qua giao tiếp trên mạng xã hội, dùng thẻ tín dụng, mua sắm hay tìm kiếm điều gì trên mạng. Sự giám sát này được xem như quyền lực thứ sáu, nó như con quái vật có nhiều đầu, và hiện nay các định nghĩa đều còn mơ hồ.

Hiện nay cũng có vài nước đã và đang thiết lập một hệ thống khổng lồ để giám sát hành vi của người dân và xếp hạng từng người theo điểm “tín nhiệm xã hội” (social credit) để từ đó nhà nước có chính sách đối xử phù hợp (Cấm bay hoặc cấm đi tàu hỏa. Không có cơ hội tìm việc làm tốt. Bị nêu tên như một công dân xấu. Con em bị cấm học v.v..). Tất nhiên cũng có những hành vi bị trừ điểm như lái xe ẩu, hút thuốc ở nơi cấm, cướp giật hay đăng tin tức giả mạo trên mạng.

172 Tr ò c h u y ệ n v ớ i t h i ê n t h ầ n

vào viện dưỡng lão và nuôi một con chó để làm bạn.

Nhưng chưa hết!

Một ngày nào đó, để kiểm soát, người ta sẽ gắn con “chip” (microchip) vào cơ thể của mọi người.

Thế hệ của ba mẹ có thể sẽ thoát… nhưng con thì chắc không tránh khỏi.

Điều này đã được làm cho thú vật. Cho các tù nhân nguy hiểm. Giới quân sự đã sử dụng cho các tài sản. Và sắp tới sẽ làm như thế cho các con, thế hệ con người – robot sắp tới.

Một con chip computer, nhỏ bằng hạt gạo sẽ được đặt vào cơ thể của trẻ thơ để chính quyền có thể tìm được trẻ khi chúng bị thất lạc hay bị bắt cóc.

Dĩ nhiên, việc tiêm đặt con chip (microchipping) vào cơ thể người dân sẽ bắt đầu với sự tự nguyện, nhưng sau đó sẽ trở thành điều bắt buộc.

Con hãy thử hình dung một thế giới mới mà tiền giấy trở nên lỗi thời, con sẽ không thể mua, bán hay có một chương mục ngân hàng nếu không có một thẻ chứng minh bằng con “chip” do nhà nước cấp cho.

Nếu mình không đồng ý thì làm sao sống sót?

Còn nếu cho phép họ đặt con chip vào cơ thể thì họ sẽ điều khiển cha con mình theo ý của họ. Khi ấy, chúng ta chỉ là một người – robot!

Nhiều công ty ở nước ngoài đã cấy chip vào người để kiểm soát thời gian nhân viên ở đâu và làm gì. Các con chip chứa dữ liệu cá nhân của người sử dụng cùng với chìa khóa để truy cập vào hệ thống và máy tính của công ty. Con người sẽ trở thành người máy và người máy sẽ trở thành phiên bản của con người!

Những chọn lựa đau lòng rồi cũng sẽ xẩy ra.

Và chúng ta có thể làm gì? Khi các tập đoàn kinh tế cấu kết hay lũng đoạn chính quyền để kiểm soát thì cá nhân không còn một đời sống riêng tư nào nữa.

( trích tt TRÒ CHUYỆN VỚI THIÊN THẦN từ trang 167 đến 173 )

Read Full Post »

Elena Pucillo là nhà văn người Italia, từng dạy tiếng Pháp và văn minh Pháp tại ĐH Milano, Italia. Hiện bà đang dạy tiếng Italia tại Nhạc viện TP Hồ Chí Minh và văn hóa Pháp tại trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh. Bà sáng tác truyện ngắn, tùy bút, tản văn bằng tiếng Italia. Tác phẩm của bà đến với bạn đọc việt nam nhờ những bản dịch tiếng Việt của chồng là nhà văn Trương Văn Dân.

Vợ chồng bà thường về thăm quê chồng Bình Định. Có cơ hội được chuyện trò cùng bà nhiều lần nhưng tôi vẫn bất ngờ khi thấy bà thuần thục thứ tiếng Việt phong vị xứ Nẫu. Bởi khi nhắc về Bình Định, nữ nhà văn như hăm hở, say sưa hơn, nhiệt thành sẻ chia về những nơi bà từng đặt chân đến, những con người bà từng gặp. Giáp Tết, tôi kết nối cùng nhà văn Elena Pucillo để nghe bà chia sẻ đôi chút xúc cảm về văn chương, về đất và người quê chồng. Bà hào hứng nói luôn, tôi vẫn hay nói với bè bạn với tất cả tự hào: Tôi là con dâu xứ Nẫu…

* Cái duyên mắc míu của bà với Bình Định đã tự rất lâu, thưa bà?

– Phải bắt đầu từ đâu nhỉ. Phải nói rằng, hầu như mọi sự kết nối của tôi với vùng đất Bình Định bắt nguồn từ mối duyên cùng chồng tôi. Lần đầu gặp anh ấy là từ năm 1972, khi anh ấy là du học sinh vừa đến Italia để học ngành Hóa và Công nghệ dược. Có thể nói cuộc gặp của chúng tôi là do định mệnh. Đến giờ chúng tôi đã quen nhau được 50 năm rồi. Tưởng như một tình cờ nhưng kéo dài cả một đời người…

Anh Dân là người Tây Sơn nên tôi trở thành con dâu đất Tây Sơn. Vì cả hai vợ chồng tôi đều viết văn nên ngoài gia đình chồng, bà con, các anh em trong gia đình thì chúng tôi còn quen biết rất nhiều văn nghệ sĩ ở Bình Định, như nhà văn Huỳnh Kim Bửu, Mang Viên Long, Cao Văn Tam, Đào Hiếu, Lê Hoài Lương, Mai Thìn, Nam Thi, Trần Như Luận…, đến các nhà giáo, nhà nghiên cứu như Lê Nhật Ký, Trần Xuân Toàn, Châu Minh Hùng… Vợ chồng chúng tôi luôn có nhiều lý do để trở về Bình Định.

Nhà văn Trương Văn Dân và vợ Elena Pucillo.

* Hầu như các sáng tác của bà đều được chồng chuyển ngữ?– Tôi có viết một số bài cho các báo và tạp chí ở Italia nhưng các sáng tác truyện ngắn và tạp bút được xuất bản ở Việt Nam thì đều được chính anh Dân dịch sang tiếng Việt. Tính đến nay, tôi đã xuất bản được 3 tập truyện là Bóng của ngày, Một phút tự do và Vàng trên biển đá đen. Riêng tập Một phút tự do vừa được in lại bằng nguyên tác tiếng Italia Un Istante di libertà, do nhà xuất bản Calibano ấn hành năm 2019 (trong khuôn khổ Giải thưởng của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh năm 2016, tác phẩm Một phút tự do (tập truyện ngắn, tùy bút của Elena Pucillo Truong (Italia), bản dịch của Trương Văn Dân được Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh trao tặng thưởng – NV).

* Bà dành khá nhiều sự quan tâm về phụ nữ và văn hóa Việt?

– Đúng vậy. Tôi gắn bó với Việt Nam đủ lâu để thấy mình thực sự hòa vào cuộc sống nơi đây. Và hiểu nhiều hơn về người Việt, nhất là có nhiều đồng cảm với phụ nữ Việt. Bởi thế, từ nhiều năm trước, tôi đã tổ chức nhiều hội thảo ở Italia về Việt Nam với các đề tài “Vai trò phụ nữ và tầm quan trọng của họ trong gia đình Việt Nam”, “Tết Việt Nam, phong tục và truyền thống”, “Đổi mới, phát triển kinh tế Việt Nam sau khi chiến tranh chấm dứt”.

 * Hẳn Bình Định đã tạo nhiều cảm hứng cho sáng tác của bà?

– (Mỉm cười) Tôi là con dâu xứ Nẫu cơ mà! Từ nhiều năm nay, Bình Định và Việt Nam đã là quê hương của tôi. Tôi được chồng và cả gia đình anh giúp hiểu thêm về văn hóa và phong tục đất nước này. Tôi biết câu ca dao Muốn ăn bánh ít lá gai/ Lấy chồng Bình Định cho dài đường đi, nhưng như bạn thấy đấy, tôi đâu có sợ đường dài! Vì về Bình Định nhiều lần nên tôi cũng đã có cơ hội viết về Bình Định. Như tạp bút Kỳ diệu và tự hào viết về lễ hội Tây Sơn – Bình Định năm 2008; truyện ngắn Trên chuyến tàu về quê ăn Tết viết năm 2011 trong cảm hứng hồi tưởng những chuyến tàu về Bình Định dịp cuối năm, hay Kho tàng của sự im lặng viết năm 2013 sau khi thăm một ngôi chùa ở Quy Nhơn…

Khó có thể dùng phép liệt kê, vì không chỉ trực tiếp đề cập đến Bình Định mà nhiều bài viết của tôi về những chủ đề khác cũng được nuôi cấy từ cảm hứng khi tiếp xúc với đất và người Bình Định.

* Thưa bà, bà thấy đất và người Bình Định như thế nào?

– Ở đây, con người đáng yêu, cảnh vật cũng rất xinh đẹp. Khi về đây, tôi cùng chồng, có khi là những bạn văn của anh ấy hay đi thăm thú một số nơi, như: Hầm Hô, Ghềnh Ráng, Cù Lao Xanh, Eo Gió, các ngôi chùa trên núi… Đặc biệt, tôi rất thích món ăn Bình Định. Mỗi lần về Việt Nam, khi trở lại Italia tôi đều mang theo rất nhiều bánh tráng, nó ngon và tiện lợi. Tôi cũng rất thích bánh xèo Bình Định, bún chả cá, bún sứa, nước mắm… nói theo kiểu của người Bình Định hay nói, là hương vị rất đậm đà.

Người Bình Định cần cù chịu khó, chân thành và hiếu khách, dễ làm người khác cảm mến. Quý nhất là ý thức lưu giữ các giá trị văn hóa, truyền thống hào hùng của lịch sử, nhất là về thời Tây Sơn. Nên mỗi lần đến thăm Bảo tàng Quang Trung, lòng tôi đều lâng lâng xúc động.

* Hình như bà đang ấp ủ nhiều dự định?

– Tôi sắp xuất bản tập truyện ngắn, tản văn Hạt bụi lênh đênh. Tập sách gồm 10 truyện ngắn và 19 tạp bút là góc nhìn về Phật giáo của một người phụ nữ Italia sống và viết ở Việt Nam.

Đặc biệt, mấy năm trước có một số bạn văn và bạn đọc đã đề nghị vợ chồng tôi in chung một tập truyện. Chúng tôi đã suy nghĩ về điều ấy và quyết định sẽ in chung tập truyện như vậy, thống nhất lấy tựa là Nỗi đau ngọt ngào. Tập truyện gồm 28 truyện ngắn, 15 của anh Dân và 13 của tôi, các truyện xoáy vào chủ đề gia đình. Ngụ ý chúng tôi như tên của tập truyện, là trong gia đình có cả tình yêu và nước mắt, vì gia đình là nơi êm ấm nhất nhưng nếu thiếu “tình” thì có thể mang lại rất nhiều đau khổ hay trở thành “một nơi nguy hiểm để sống”.

Hai tập truyện này, sẽ sớm xuất bản ở Việt Nam. Và có lẽ, chúng tôi sẽ làm một buổi ra mắt sách nho nhỏ ở quê nhà Bình Định, cũng là dịp để gặp lại bạn văn, những người đáng yêu mà chúng tôi có dịp gặp gỡ, kết duyên bè bạn.

* Cảm ơn bà về cuộc trò chuyện này. Chúc bà và gia đình thật nhiều sức khỏe và bình an, đón một cái Tết đầm ấm, nhiều niềm vui.

VÂN PHI (Thực hiện)

Read Full Post »

Trương Văn Dân

.

                                                                                                                                          Tận thế mang nhiều hình dạng.

                                                                                                                  Nó đến từ lúc con người tự hủy hoại điều tốt đẹp nhất của mình. 

                       

  1.  Một ngày cuối đông

                                  Mưa tuyết đầy trời

                                               đất bằng dậy sóng.

      Covid chưa đi đã có tiếng thét gào.

     Từ trên cao những trái bom  trút xuống,

     Ngoài biển khơi, những  phi tiễn bắn vào…

  •  

Có thể nào…

      Người anh em sớm mai thức giấc

      Xe tăng ầm ầm tấn công tàn khốc.

                       60 cây số đường dài chuyên chở đạn bom

  •  

Có thể nào…

      Chỉ một cá nhân

                   phát động được chiến tranh thế giới ?

       Mới nghe qua

               tưởng  trò chơi điện tử

       Chớp xanh đỏ tím vàng trên màn hình ảo

       Nhưng xác người và tang thương là thực!

  •  

Lửa cháy ngút trời

     Trên bộ, trên không, trên biển..

      Cả thế giới bàng hoàng,

             Nhìn phi tiễn phóng giết người  vô tội.

             Thịt nát xương tan, tiếng gào vang dội

             Chỉ vì tham vọng của một cá nhân?
      Đạn bom không chỉ giết anh em

      Mà sổ toẹt vào lương tâm nhân loại!

  •  

Phụ nữ, cụ già em bé.

                 Nước mắt tuôn rơi,

                        Trên đường dài lánh nạn.

       Chỉ có trái tim bằng nhựa

      Hay thịt xương đánh mất linh hồn

      Mới có thể thờ ơ

                             quay mặt.

  •  

Thế  giới hôm nay

               Trái đất mênh mông đã hoá  rất gần.

      Máu chảy ngập bàn chân nhân loại.

      Người bước đi giữa xác người quằn quại

     Mộng bá vương của một kẻ hung tàn.

     Tạo uy quyền bằng cách nướng nhân dân!

  •  

Không thể nào…

      Lương tâm, trí tuệ, đui mù..

      Châm lửa đốt những trang sử đẹp?

      Mấy ngàn năm lịch sử,

      Nền văn minh nhân loại tan hoang?

  •  

Không thể nào

            Thế giới bịt tai, cúi mặt

      Thờ ơ trong mê muội, sai lầm

       Ngồi đếm xác người người gục ngã.

       Bóng tối thời trung cổ đã qua,

       Lòng tham ác không thể lộng hành

                               Bao trùm thế giới.

       Máu  nhuộm đỏ lên từng trang sách

                                   Giúp ta sống như những con người.

        Những  Socrates, Platon, Aristotles

      Những Tolstoy, Pushkin, Dostoevsky, Pasternak…

 Không!

                   Phi tiễn bay lên

                                  khói đen mù mịt,

      Tiếng nổ xé trời  đánh thức lương tri.

      Những kẻ buôn vũ khí chùn tay

       Luật nhân quả không chừa ai cả!

  1.  Nhân loại đồng lòng:

                                    Bóng tối đen đúa nhất

                                                             là thiếu lương tri.

       Bom nguyên tử.

                                tháo ngòi

       Xưởng đúc súng

                              trở thành bệnh viện

       Hãng chế bom

                        sản xuất thuốc cứu người.

       Nhà tù biến thành thư viện,

       Nâng tâm hồn

                      bằng văn hoá, yêu thương.

 Bom đạn chỉ kích động hận thù,

       Thế giới hãy cùng nhau vui sống

  1.  

 Không ai chiến thắng

                     trong cuộc chiến tranh nào

        Khi trẻ thơ và bà mẹ đầm đìa nước mắt!

  1.            Chiến tranh phải chấm dứt     

        Chỉ kẻ buôn vũ khí là người thủ lợi

        Vũ khí  phải đúc thành chuông. 

                      Gióng lên tiếng ngân: “tỉnh thức”

         Những quả bom rơi

                          thành bồ câu  bay lượn hoà bình. 

         Hãy dừng tay.

        Các chiến binh ơi!

        Chiến đấu không phải là nhả đạn

                                    Ném súng đi mới thực sự anh hùng!

Read Full Post »

..

 ĐỖ TRƯỜNG

                        HỒN VIỆT ĐÓ, TRONG TỪNG CON CHỮ ELENA PUCILLO

Thời gian gần đây, những lúc nhức mỏi, tâm trạng không được thăng bằng cho lắm, tôi thường tìm đến thơ Nguyễn Văn Gia, và đọc văn Elena Pucillo. Lời văn tự sự của chị như một liều Aspirin xoa dịu nỗi nhức nhối trong lòng người vậy. Có thể nói, Elena Pucillo là một hiện tượng đặc biệt trên diễn đàn văn chương Việt trong những năm gần đây. Sự đặc biệt ấy, không hẳn bởi tài văn, mà là sự nhào trộn, hoà tan cái văn hóa Ý- Việt vào những trang sách của chị. Đọc văn Elena Pucillo (qua bản dịch của Trương Văn Dân) nếu không biết trước, có lẽ ai cũng nghĩ, tác giả phải là người Việt. Bởi, bối cảnh, tâm lý, hồn cốt nhân vật như đã được Việt hóa hoàn toàn vậy. Có lẽ, cái món văn hóa spaghetti tan chảy vào cái văn hóa nước mắm chăng? Chẳng vậy, có lần ngồi khật khừ với Nguyễn Đức Minh ở Bischofswerda, người rất thân thiết với vợ chồng Elena Pucillo-Trương Văn Dân, chẳng biết đùa hay thật gã bảo: Làm bất cứ loại Spaghettisoßen nào (nước sốt mì Ý) Elena cũng cho nước mắm cá cơm Bình Định nguyên chất vào. Tôi không tin như vậy. Nhưng mấy năm trước Elena sang thăm tôi, bún mắm tôm cứ thấy chị đả đều đều.

Nhà văn Elena Pucillo người Italia, là tiến sĩ ngôn ngữ và văn học nước ngoài. Chị đã từng là giảng viên Đại học Milano, và Đại học âm nhạc, cũng như Đại học  khoa học xã hội, nhân văn Saigon. Nghiên cứu và tiếp xúc với văn chương từ rất sớm, nhưng Elena viết văn muộn. Và chị chỉ viết khi cảm xúc ùa đến bất chợt, buộc phải cầm bút, do vậy văn của chị rất sinh động và chắt lọc. Và nếu không có sự cổ vũ, dịch chuyển sang Việt ngữ của người chồng, nhà văn Trương Văn Dân, thì có lẽ, văn chương của Elena không được nhiều người biết đến như hiện nay. Thật vậy, những tác phẩm: Bóng của ngày, Một phút tự do, Vàng trên biển đá đen, Cùng Bay về Tâm dịch đã xuất bản, và Hạt bụi lênh đênh, cùng Nỗi đau ngọt ngào sắp xuất bản của chị đã được Trương Văn Dân dịch nguyên bản từ tiếng Ý một cách sinh động và tinh tế.

Văn chương Elena gồm hai mảng chính: Truyện ngắn, và tùy bút, tạp văn. Tự sự là nghệ thuật xuyên suốt những trang viết của Elena. Và khi đi sâu vào đọc, ta có thể thấy, Elena là một nhà văn có tài khám phá, miêu tả diễn biến nội tâm, hay mượn cảnh vật thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng nhân vật. Nếu được phép tuyển chọn, với tôi Vàng Trên Biển Đá Đen là tập truyện hay và tiêu biểu nhất về nội dung, cũng như thi pháp (hình thức nghệ thuật) sáng tạo này của Elena.

*Tính chân thực, với cái nhìn nhân bản.

Có thể nói, ngay từ những ngày đầu nghiên cứu ở Đại học Milano, Elena đã bén duyên với viết lách, nhưng chỉ đến khi về sống và giảng dạy ở các trường Đại học Saigon thì tài năng văn chương của chị mới được phát tiết. Có lẽ, đất và con người nơi đây đã cho chị những cảm xúc đặc biệt chăng? Có được những trang văn chân thực, làm rung động mọi tầng lớp người đọc như vậy, ngoài bút lực, ta có thể thấy,  tình yêu, tình người của Elena sâu đậm biết nhường nào. Để có được những cảm xúc ấy, Elena đã đi vào khám phá nội tâm tư tưởng, hồn vía con người nơi đây, từ đó có một sự đồng cảm sâu sắc. Và “Con chim nhỏ trong lồng” là một truyện ngắn như vậy của chị. Nhà văn đã chọc thẳng ngòi bút vào cái vô cảm, sự mâu thuẫn gia đình, xã hội mà bấy lâu nay dường như đã bị chìm lấp. Lời văn tự sự, hay là tiếng kêu bất lực vọng lên từ những mẹ, người già cô đơn, hiu quạnh trước sự thờ ơ, ghẻ lạnh của con cái, gia đình và xã hội: “Bị giam hãm giữa bốn bức tường, tôi như chết từng ngày, lặng lẽ ngồi cô đơn trên thành giường mà chẳng có căn phòng riêng nào để trú ẩn. Những tiếng động bên kia bức tường là của những người xa lạ, của những người hàng xóm không quen, lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau của tôi.”. (Con chim nhỏ trong lồng)

Nỗi đau, sự tuyệt vọng ấy, đã đẩy người mẹ đến đường cùng, ngõ cụt. Tự kết thúc cuộc sống là lối thoát duy nhất của bà. Thân phận con người cùng tâm trạng đó đã được nhà văn Elena lồng vào sự vần vũ của đất trời, thiên nhiên. Sự miêu tả độc đáo, cùng những hình ảnh so sánh, với phép ẩn dụ này, dường như nhà văn muốn làm giảm đi nỗi đau của bi kịch đó, và bật lên tấm lòng vị tha của con người, cũng như của chính tác giả chăng? Tuy vậy, từ cái hiện thực đó ta vẫn nhận thấy cái rẻ mạt của tình người, và nhân cách. Và cái luân lý, đạo đức đã bị đảo lộn tùng phèo trong gia đình, xã hội đương thời, gây nhức nhối cho người đọc. Đoạn kết của thiên truyện: Con chim nhỏ trong lồng (dưới đây), tuy rất buồn, nhưng có lời văn nhẹ nhàng, và tuyệt đẹp. Nó không chỉ cho ta thấy rõ những điều đó, mà còn chứng minh tài năng sử dụng biện pháp tu từ của nhà văn Elena: 

“Đêm nay có một vầng trăng tuyệt đẹp trên bầu trời, chỉ có một phần rất nhỏ bị che bởi một sợi mây. Tôi bỏ khung hình vào túi áo, đó là kho tàng của tôi, và từ cửa sổ tôi nhìn xuống thành phố đang ngái ngủ. Tia mắt tôi dõi theo ánh đèn màu đỏ của một chiếc xe hơi dọc theo hàng trụ đèn đường. Yên lặng quá. Từ trên cao ánh sáng chiếu xuống mềm mại như bông làm tôi có cảm giác như mình cũng đang đứng trên một cụm mây. Chỉ vài giây thôi! Tôi nhoài người, bay qua khung cửa sổ, rơi tự do trong không khí. Trên môi tôi vẫn nở một nụ cười thật ngọt ngào, để khỏi phải hét lên, sợ làm phiền người khác”.

Từ yêu người, dẫn đến tình yêu mảnh đất nơi đây, làm cho Elena gắn bó chặt chẽ với nó. Sự đi lại tìm tòi, khám phá với cái nhìn, quan sát tỉ mỉ cùng sự sẻ chia, cảm thông sâu sắc, như vốn sống để nhà văn viết nên truyện ngắn: Vàng trên biển đá đen, được in trong tập sách cùng tên. Tình tiết đơn giản, lời văn mộc mạc, song đây là một trong những truyện ngắn cảm động, và hay nhất của Elena. Gieo mầm một động từ, hay là hình ảnh, một phép tu từ so sánh: (gieo hạt, và gieo chữ) làm nên cái tứ của thiên truyện. Cái khát khao sống, buộc con người phải vượt qua khắc nghiệt của thiên nhiên. Và cái tình người (gieo chữ, bồi đắp linh hồn) ấy, nhà văn đã mở ra lối thoát cho đất và người nơi cao nguyên núi đá khô cằn:

“Một hạt giống không thể nẩy mầm nếu không có đất, và trên núi đá không phù hợp nên họ đào một cái rãnh và đem đất từ nơi khác lấp vào. Một điều đơn giản, mà từ thời nguyên thủy con người đã chiến đấu với thiên nhiên để sinh tồn. Gieo hạt để nẩy mầm! Công việc của tôi cũng vậy. Bây giờ tôi hiểu là mình cũng đang gieo hạt và tìm cách giúp các cậu học trò nảy mầm cho cuộc sống mới…” (Vàng trên biển đá đen)

Đọc Elena, ta có thể thấy tình yêu, tình người không chỉ dừng lại ở hai người mẹ Việt-Ý, mà sự ấm áp đó của nhà văn làm tan đi giá lạnh của bà cụ cô đơn, hay một bé gái bán vé số… Thật vậy, đọc: Mèo con lạc lõng, và Cho nhau một chút an lành (trong tập truyện Hạt bụi lênh đênh, sắp phát hành) rồi quay lại đọc Thư viết cho mẹ (trong tập Vàng trên biển đen, in năm 2018) tôi bị xúc động mạnh. Cảm xúc tuy khác nhau, song có thể nói, tình yêu, lòng nhân ái ấy làm cho người đọc xa quê, xa tổ quốc gần bốn chục năm như tôi ấm lại. Và hơi ấm đó, dường như xuyên suốt những trang văn Elena. Mỗi truyện ngắn, một tản văn của chị như một bài học luân lý vậy. Nếu đọc Con chim nhỏ trong lồng, ta thấy cái luân lý, đạo đức gia đình, xã hội bị đảo lộn, thì đến Thư viết cho mẹ, Elena đã trả cái luân lý, đạo đức ấy về đúng vị trí của nó. Đọc Elena một cách có hệ thống, ta có thể thấy, dù chị dẫn dắt người đọc đến đâu, và đi đâu chăng nữa, thì cái đích cuối cùng vẫn quay về với chân thiện mỹ.

Cũng như tác phẩm Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình của nhà văn Trần Hoài Thư (đã đọc trước đây) Thư viết cho mẹ của Elena (đọc gần đây), khi ngồi viết những dòng chữ này, tôi chưa biết để ở mục truyện ngắn, tùy bút, hay một trang thư. Và cho đây là một bức thư, thì có lẽ, đây là lá thư thứ hai hay nhất mà tôi đã được đọc. Nếu Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình như một sự tiếc nuối tình yêu của cái thuở ban đầu, thì Thư viết cho mẹ là tình yêu, lời tự sự về mẹ của Elena. Đằng sau lời tự sự ấy là câu chuyện thật cảm động về những người mẹ. Thư viết cho mẹ gây cho tôi cảm xúc đặc biệt, không hẳn bởi nội dung, mà do thủ thuật dẫn dắt truyện của tác giả. Thủ thuật kết nối từ một người mẹ (đẻ) sang người mẹ (chồng) một cách bất ngờ ấy của Elena làm tôi nhớ đến cái qui tắc bắc cầu trong toán học, từ cái thuở còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây cũng là một trong những truyện tiêu biểu về tính chân, thiện của Elena. Và đọc nó, dường như ta thấy, văn chương cũng như con người chị đang đến gần hơn với tư tưởng, triết lý nhà Phật:

“Bây giờ thì con xin báo cho mẹ biết là trong những ngày tới, mẹ sẽ có một cuộc gặp gỡ quan trọng. Đến gặp mẹ là một người đàn bà mà mẹ đã từng gặp rất nhiều năm trước: mẹ của chồng con. Con tin chắc rằng hai người sẽ trở thành bạn, sẽ kể cho nhau nghe nhiều rất chuyện, về những cuộc đời ở mãi tận phía bên kia trái đất. Bà ấy hay cười và thích nói đùa. Đây là điều mà con đang tưởng tượng: Hai người ngồi bên nhau như thể là hai người bạn lâu năm, vui đùa, cười nói. Mẹ chồng của con sẽ nói về Việt Nam, sẽ giải thích về lễ Vu Lan, một ngày lễ Phật giáo rất đặc biệt dành cho các bà mẹ vì họ giữ một vai trò quan trọng trong gia đình cũng như ngoài xã hội” (Thư viết cho mẹ)

Có thể nói, truyện ngắn nào của Elena cũng đầy ắp hình ảnh, tình tiết so sánh, liên tưởng. Cùng với lời văn nhẹ nhàng, tinh tế như vậy, hiển nhiên chị đã mang đến người đọc sự rung động và cảm thông sâu sắc.

*Tùy bút, tạp văn…với những nét đặc trưng.

Như có lần phân tích tác phẩm Miền Ấu Thơ của Vũ Thư Hiên và Sông Lam của Trần Mạnh Hảo, tôi đã viết: Có người cho rằng, chỉ có các nhà thơ, nhà văn viết về chính quê hương của mình mới có những tác phẩm hay, và chân thực. Song đi sâu vào văn học sử, cho tôi suy nghĩ ngược lại: Thường những mảnh đất, đồng quê xa lạ mới là đề tài để các nhà văn, thi sĩ đẻ ra những tác phẩm hay. Thật vậy, nếu không có cái nhìn xa lạ, tò mò khám phá của cậu bé đến từ nơi phố thị, thì sau này Vũ Thư Hiên khó có thể viết được tác phẩm Miền Ấu Thơ về đồng quê hay, đặc sắc có sức sống bền bỉ và lâu dài. Hay nếu sinh ra, và lớn lên ở Nghệ Tĩnh, chưa chắc Trần Mạnh Hảo đã viết được Sông Lam, với những hình tượng mới lạ, sâu sắc làm rung động không chỉ người đọc nơi xứ Nghệ. Và nhà văn Elena Pucillo cũng vậy. Đến từ Italia, khi Elena viết về Hà Nội hay Trà Sư, hoặc một vùng đất Việt nào đó sẽ khách quan, mang tính khám phá, sinh động hơn. Nó gây cho người đọc cảm giác thú vị như được tìm hiểu, khám phá vùng quê ấy cùng nhà văn. Hà Nội, nét đẹp bí ẩn là một tùy bút như vậy của Elena. Từ một tiếng rao đêm, hay một gánh đậu hũ non nóng giữa phố thị, hoặc những hàng trái cây bên đường, dưới lăng kính của mình, Elena cho người đọc cùng liên tưởng đến hình tượng (so sánh) thật độc đáo và mới lạ: “Tôi kinh ngạc nhìn các kim tự tháp bằng trái cây đặt trước các cửa hàng bên lề đường, trái nọ chồng lên trái kia, màu sắc chen nhau, như thách thức quy luật thăng bằng.”. Là tiến sĩ văn học Pháp, do vậy Elena đọc, nghiên khá rõ về văn hóa của các nước thuộc địa ở những năm đầu thế kỷ 20. Có được sự đồng cảm và tình yêu ấy, dường như Elena muốn bộc lộ cái tư tưởng, ước vọng của mình. Trở về cái thuở ban sơ của thành phố, như một cánh chim tự do muốn thoát ra khỏi những rào sắt vô tình đó. Vâng, đó cũng là khát khao, ước muốn không chỉ riêng của nhà văn. Một tiệm thuốc, hay nơi bán đồ lưu niệm ở góc phố, hoặc quán bia nơi vỉa hè cũng gây Elena một ấn tượng, một cảm xúc để chị đặt lên trang viết của mình. Có thể nói, Elena Pucillo là một nhà văn giầu trí tưởng tượng, có lời văn nhẹ nhàng, sâu sắc, ngữ nghĩa đa tầng. Và có lẽ, không chỉ tôi mà nhiều người sinh trưởng, gắn bó với Hà Nội đọc trang văn này, ít nhiều sẽ được hiểu biết thêm về nó:

“Giống như một giấc mơ giữa ban ngày, tôi tưởng mình đang cưỡi rồng bay trên thành phố, luớt qua khu biệt thự Pháp và những căn nhà thời thuộc địa được che chắn bởi những hàng rào và cổng vào bằng sắt trang trí theo kiểu Liberty của đầu thế kỷ 20. Tôi muốn mình được bay như một cánh chim vừa thoát khỏi lồng, lơ lửng trên những con đường thuốc, với những dụng cụ chưng cất đang hâm nóng bát thuốc trường sinh hay cỡi trên lưng một con cá vàng bơi dọc theo sông Hồng.” (Hà Nội, nét đẹp bí ẩn)

Mượn cảnh vật thiên nhiên để miêu tả nội tâm nhân vật là nghệ thuật không hề mới, gần đây được nhiều nhà văn quay lại sử dụng. Tuy nhiên, không phải ai cũng thành công ở loại hình nghệ thuật này. Đọc Một đêm huyền diệu của Elena chợt làm tôi nhớ đến cái tài, lấy động tả tĩnh trong Thu Điếu của cụ Nguyễn Khuyến“Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Hay ngược lại, mượn cái tĩnh của căn phòng tả tâm trạng động trong “Hộ Chiếu Buồn Những Biên Cương” của Thế Dũng. Và khi đến thăm nhà văn Nguyễn Hoàng Đức, Elena đã mượn đồ vật, cảnh trí trong căn phòng dường như để miêu tả, khắc sâu cuộc sống, tính cách cũng như tâm hồn gia chủ. Thật vậy, với sự liên tưởng độc đáo ấy của Elena, nhà văn Paul Đức (Nguyễn Hoàng Đức) hiện lên lịch lãm như một triết gia, nghệ sĩ, hay hình ảnh chiến binh của Phong trào khai sáng Tây Âu ở thế kỷ 18 vậy. Trích đoạn có lời văn tinh tế dưới đây, không chỉ thấy rõ điều đó, mà còn cho ta thấy tài năng, cũng như sự quan sát tỉ mỉ của nhà văn Elena:

“Tôi có cảm giác như không phải mình đang ở trong một căn nhà ở Hà Nội, Việt Nam. Tôi tưởng mình là cô bé Alice đang đứng trước chiếc gương thần để khám phá ra một thế giới khác. Tôi tưởng mình đang ở Paris, trên tầng nhà áp mái của một họa sĩ, một nghệ nhân Bohémien, đang ở vùng Montmartre hay ở khu Quartier Latin. Tôi đứng ngây người nhìn những bức tranh treo trên tường. Những tủ sách, ôi chao cơ man là sách, nhiều lắm và những bản nhạc mở rộng đặt trên chiếc dương cầm, như thể chàng nghệ sĩ vừa dạo đàn trước đó và trong không gian vẫn còn vang vang những nốt nhạc du dương của Beethoven, của Liszt hay Chopin…  Tôi không thể nào rời mắt khỏi những thứ đồ vật vây xung quanh mình. Trên một bức tượng bán thân có phảng phất nét mặt của Paul Đức, được lập lại trong một bức chân dung được phóng cọ theo phong cách hiện đại, anh xuất hiện như một chiến binh tân thời.” (Một đêm huyền diệu)

Nếu truyện ngắn Elena sắc lạnh, thì tùy bút, chân dung của chị mềm mại, ấm áp. Tình bạn, tình người ủ ấm những trang viết của chị. Tùy bút, tạp văn Elena thường là những ký ức nhỏ, hay cảm xúc bất chợt từ một bạn văn, một nhà sư, một em bé bán vé số, hoặc về một miền quê nào đó…mà chị đã bắt gặp, trải qua. Thật vậy, mỗi (một) người bạn đều cho Elena cảm hứng viết. Và cái hơi ấm tình bạn, tình người ấy, với chị: “thật bình an và sảng khoái, hơn hẳn các loại thuốc hay liệu pháp trị liệu nhóm nào hiện hữu trên thế giới” (Trị liệu nhóm). Tuy nhiên, đọc tùy bút Elena, tôi khoái nhất những trang viết về chân quê, cùng những hình ảnh thân thuộc dưới góc nhìn của chị. Vâng, hình ảnh bà cụ, với tiếng gà kêu quang quác dưới cái lạnh của mưa gió như kéo hồn vía chúng tôi về với đất mẹ vậy. Cái mộc mạc và chân thực ấy, Elena làm cho lòng tôi ấm lại, khi ngồi viết những dòng chữ này, bởi cái tình người còn sót lại:

“trời mưa lất phất, nên chúng tôi phải nép vào một mái hiên của một căn nhà nhỏ. Bỗng tôi nghe có tiếng lục đục rồi có một bà cụ bước ra mời chúng tôi vào trong nhà nghỉ ngơi cho ấm. Lát sau tôi nghe có tiếng gà đập cánh và kêu lên quang quác. Con gà có thể là của để dành của bà, nhưng bà cụ đem ra nấu cháo mời chúng tôi mà chẳng chút đắn đo. Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn nhớ như in bóng dáng bà nhỏ con, chiếc áo bà ba màu nâu phủ lên một thân hình mảnh khảnh và nhất là nụ cười hiền hậu, thương quá, hai khóe miệng còn thẫm đỏ màu trầu.” (Một đêm huyền diệu)

Không biết Elena có phải là một Phật tử hay không, song đi sâu vào đọc và nghiên cứu, ta có thể thấy Phật giáo, hình ảnh, đức tin thấm đẫm những trang văn của chị. Với cái tư tưởng này, Elena luôn hướng nhân vật hành động, ứng xử nhân hậu, nhìn nhận con người, sự việc ở mặt tích cực, hay mở ra một lối thoát cho họ và xã hội. Khi đọc: Hạt bụi lênh đênh, trong tập truyện cùng tên, sắp in của Elena, càng cho tôi những cảm nhận hơn nữa: Cái chánh tin ấy của chị không chỉ trong sinh hoạt thường nhật, mà ngay cả những lúc ốm đau sinh tử. Sự bình tâm, thanh thản từ nơi Đức Phật chính liều thuốc đã giúp con người vượt qua những đớn đau, ưu phiền đó. Thật vậy, đây cũng là một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong tùy bút, văn xuôi của Elena:

“Tôi biết là mình đang ngầy ngật vì thuốc. Có lúc tôi cảm thấy như mình đang lơ lửng trong một cái bong bóng đang tan biến. Điều lạ lùng là nằm trong đó tôi không còn nghe đau đớn, chỉ có bình an. Tôi giật mình thức giấc vì bất ngờ có ai đó ngồi bên cạnh mình. Tôi nghe một bàn tay đang đặt lên trái tim và cùng lúc đó cũng có một bàn tay khác đang nắm lấy cổ tay mình. Tôi mở mắt một cách khó nhọc và trời ơi, trước mặt tôi là ánh mắt sáng rỡ của nhà sư mà mình đã gặp trên chuyến bay. Nhà sư nhìn tôi mỉm cười và bàn tay ông dời từ trái tim để đặt lên trán tôi. Ông không nói gì, nhưng sự hiện diện của ông ở nơi đây đã ban tặng cho tôi một sự bình yên không thể nào nói được nên lời” (Hạt bụi lênh đênh)

Có thể nói, mỗi truyện ngắn, tùy bút của Elena Pucillo là một lát cắt của cuộc sống. Cái ác, và sự giả dối, chị vẫn đặt lên trang văn một cách sâu đậm, như để răn mình, răn đời vậy. Và tính nhân văn, khát vọng sống, khát vọng tự do đã làm nên văn chương, tên tuổi Elena Pucillo. Tuy nhiên, văn tự sự, độc thoại nội tâm, dù sâu sắc, nhưng ít đối thoại làm lời văn chậm, cho ta cảm giác mệt mỏi khi đọc. Đây cũng là nhược điểm của loại hình nghệ thuật này.

Leipzig ngày 8-1-2022

Đỗ Trường

Read Full Post »

Trương Văn Dân

Đoàn Đình Thạch,

            Người đi, tiếng hát còn vọng lại.

Sáng 28.9.21 thấy trên FB của nhà thơ Đoàn Văn Khánh có bài Kinh Nguyện An Lành và Chú Đại Bi lòng tôi bỗng bất an.Gọi anh Khánh không được, thấy Nguyên Cẩn online nhưng gọi mãi đến lần thứ 4 mới liên lạc được. Anh cho biết là đang nhờ các chùa cầu an cho anh Thạch vượt qua nguy hiểm.

             Báo tin cho Elena rồi tôi gọi điện cho chị Náo. Chị cho biết hai vợ chồng bị nhiễm covid, đã xuất viện về nhà nhưng anh Thạch còn yếu lắm và gần đây phải thở oxy. Hôm nay anh đã hấp hối 2 lần.

             Rồi chị quay màn hình và nói với anh: anh chị Dân Elena từ Ý gọi về thăm. Đang nằm thở oxy anh Thạch nghiêng qua, bàn tay phải vẫy 2,3 lần để chào. Lúc chị cúp máy tôi có nghe 1 tiếng nấc nhẹ bên kia đường dây.

–  Không, anh sẽ vượt qua thôi!

Đang ngồi, Elena vội đứnglên đi thắp nhang trước bàn thờ Phật. Lời lẽ cứng cỏi nhưng chắc em cũng  biết cái vẫy tay  yếu ớt qua màn hình đó là lời chào cuối cùng.“Vượt qua” chỉ là mong ước, mong manh,nhưng trong lòng chúng tôi vẫn còn chút hy vọng..

Nhưng chiếc lâu đài mà hai đứa bé cẩn thận đổ cát xây lên đã bị sóng thuỷ triều lướt qua, đổập.Chúng hụt hẫng nhìnđống cát ướt nằm chỏng chơ trên bờ biển.

Anh đã đi, sau cuộc gọi củachúng tôi chỉ mấy giờ!

Khuya hôm ấy chắc cũng có nhiều bạn thao thức chờ đợi một phép màu!

*

            Là giảng viên văn học nhưng khi đến với Quán Văn anh mang theocây đàn và tiếng hát, góp một phần rất lớn để tạo nên không khí sinh động cho những buổi ra mắt. Đến từ số 20, nay 83, hơn 60 số báo anh là một phần không thể thiếu. Có lẽ linh tính là mình sẽ không  còn  tham dự được với bạn bè nên những ngày cuối anh gọi điện cho Hoàng Kim Oanh để nhờ chị chuyểnlời nhắn “mọi người mạnh khỏe nghe, tôi mệt”!

            Những năm qua vợ chồng anh Thạch chị Náo thường tham gia sinh hoạt cùng tập san Quán Văn, họ như như 1 cặp đôi hoàn hảo về sự thân thiện và nhân cách và chiếc đàn theo anh chị và bạn bè đi đây đó khơi dậy tình tự dân tộc qua những tình khúc, trường ca hoặc những bài hát do anh sáng tác.

Còn nhớtrong chuyến đi Phú Quốc, vừa lên xe ở Kiên Giang thì mưa gió bão bùng… Ngồi trên xe mọi người nhìn nhau ngao ngán. Tiếng mưa đập vào thùng xe bôm bốp nhưng bỗng nhiên từ cuối xe vọng lên “Toàn dân nghe chăng, sơn hà nguy biến…” mọi người nhìn xuống thấy anh đang cầm đàn và tất cả đều hát theo anh. Tiếng hát át tiếng mưa, khí thế hừng hực. Lòng ái quốc như sống dậy trong hồn mọi người.

Điều tình cờ kỳ lạ là khi xe vừa đếnkhách sạn hay quán ăn thì mưa tạnh. Mấy lần như thế nên Mỹ Lệ “hùng hồn tuyên bố” là mình đã nhắn tin cho ông Trời, được mưa chừng ấy thôi để anh chị em QV khỏi ướt.

Những kỷ niệm với anh có nhiều nên từ naytrong lòng mọi người sẽ cảm thấy trống vắng.

Anh Thạch còn là đồng hương nênkhi gặp nhau chúngtôi cũng thường nhắc lại một vài kỷ niệm ở quê nhà. Thời gian đầu anh cũng hỏi tôi về các truyện ngắn hay về sự hình thành tiểu thuyết“Bàn tay nhỏ dưới mưa”. Được trải lòng với anh tôi thấy vui như đứa em chia sẻ vơi anh mình.Còn chị Náo chân thành nói mỗi khi mua QV về là “tìm bài của Elena đọc trước.Sao mà cô dâu Ý này viết văn với một tâm hồn Việt Nam?”

Anh Thạch ra đi trong mùa Covid nên tất cả các bạn chỉ có thể viếng tang online. Một buổi chiều buồn cuốitháng chínđêm trước ngày di quan chị Náo đã gọi video cho  tất cả bạn bè.. Nguyên Tâm, Nguyên Cẩn, Ban Mai, Tịnh Thy, Trúc Hạ .v.v…  để mọi người được anh từ biệt…Ai cũng nghẹn ngào không nói nên lời. Đứt ruột. Thương anh chị quá!

Mọi lời phân ưu đều cần thiết nhưng, đối với những mất mát quá lớn ấy chỉ có thời gian mới đủ sức xoa dịu. Tôi và Elena chỉ lặng nhìn chịvà nói bằng ánh mắt ngấn lệ.

Trước lúc ra đi anh còn hỏi chị Náo sinh nhật 10 năm Quán Văn ngày nào?

&

Mười năm!Từ một nhóm nhỏ chỉ vài người, cóngười chắc chắn là chỉ vài số báo rồi chết yểu như các nổ lực của các nhóm yêu văn trước đó, không ai ngờ là Quán Văn đến giờ có tuổi thọ 10 năm! Đã 83 số báo! Lời hứa sẽ cố gắng đến số 100 đã đi hơn 4/5 chặng đường. Nhưng niềm vui là tập san ngày càng mở rộng. Bạn văn, bạn đọc khắp nơi từ Nam ra Bắc, miền Trung miền Tây và vượt qua biên giới để đến Pháp, Mỹ, Úc, Canada… Nhiều thế hệ yêu văn chương khắp mọi miền đã tìm đến nhau…Có những người đến, xẹt qua bầu trời văn học rồi đi nhưng cũng có nhiều người ở lại. Cùng các bạn trẻ, nhiều “cụ” tuổi trên 80 mà vẫn góp mặt, xem văn chương như niềm đam mê bất tận nhưng cũng có người không còn viết nữa, ghé vườn văn khoe dáng 1 chút rồi đi theo con đường khác, tuy thỉnh thoảng có đến, ghé mắt,bàng quan như cỡi ngựa xem hoa.

Nhưng những ai còn lại, tâm huyết, vô tư, hồn nhiên hết mình cho 1 tờ tạp chí khiêm tốn nhưng mang nặng tình người, chung tay vun đắp cho ngôi nhà văn chương mà không so đo toan tính cá nhân.

Mười năm, hơn 80 số báo. Thông điệp của QV vẫn đơn giản và không hề thay đổi, là cuộc đời ngắn lắm trong cáichu kỹ vũ trụ mênh mông,phận người chỉ là một bóng phù du, như con thiêu thân chưa chờ đến ngày mai thì đã hoá thành tro bụi. Tham làm gì. Ác làm gì. Cuộc đời sống mà biết yêu thương nhau không phải tốtđẹp hơn sao?

Trong những ngày này, nhìn những đoàn người tứ tán bỏ chạy trên những con đường từ Nam ra Bắc tôi chợt nhớ đến bài Con đường cái quan mà anh Thạch thường hát.Được nhạc sĩ Phạm Duy khởi soạn vào năm 1954 lúc đất nước vừa bị chia đôi bằng hiệp định Geneve. Tuy là người chối từ chính trị nhưng nhạc sĩ vẫn thường dùng văn nghệ để bày tỏ thái độ.Trường ca này được Phạm Duy hoàn tất phần đầu,như một sự phản kháng, khi đang du học tại Paris.

Nhưng nếu Con đường cái quan nói về một lữ khách đi trên con đường từ Ải Nam Quan tới mũi Cà Mau, đi trong lịch sử và lòng dân từ ngày lập quốc cho tới khi hoàn thành xứ sở, tới đâu cũng có tiếng dân chúng ca hát chúc tụng nối được lòng người,chiến thắng thiên nhiên… thì những ngày đại dịch từng đoàn người đã  rời bỏ Sài Gòn bất chấp mọi nguy cơ về giao thông, về những bất trắc gặp trên đường như bệnh hoạn, đẻ rớt, đột tử…Đường xa vạn dặm…và cuộc trở về căng thẳng trong bão bùng mưa gió vẫn không ngăn nổi sức mạnh của lòng tuyệt vọng, khi người dân không còn khả năng trụ lại.

Giấc mộngđổi đời đã làm bao người phải rời quê chen vào Sài Gòn kiếm sống, giờ đây Covid đã biến thành ác mộng.Trải chiếc khăn trên lề đường, vắt 2 tay sau gáy họ sẽ ngẫm nghĩ gì về cái nghèo, cái đói cái khổ sở trong cuộc đời cơ cực của mình? Về, sẽ làm gì và bao giờ quay lại?  Trong số hàng chục ngàn người về quê bằng xe máy có rất nhiều trẻ em. Và đây sẽ là những ký ức kinh hoàng khó quên trong đời chúng.

Tôi bỗng nhớ đến bức tranh“sự vô hình của nghèo đói!” của hoạ sĩ Kevin Lee:

Trong đại dịch Covid nhiều người đã ra đi. Nhưng nếu không có dịch thì xưa nay từ đế vương đến thảo dân, ngay cả chúng ta đang tay bắt mặt mừng hôm nay ai rồi cũng đến lúc phải rời cõi tạm. để lại trong lòng những ai còn sống những vết thương không bao giờ lành và nỗi tiếc thương không thể nàonguôi.

Vì thế khi ngồi chờ đại dịch đi qua…để có được  sự “bình thường mới” tâm trạng tôi rất giống nhà thơChu Trầm Nguyên Minh khi chờ “Năm mới” [1]:

Hãy đốt giùm anh nén hương

Gọi hồn những người đã khuất

Những người đã bỏ anh lại một mình

Với đời mồ côi lệ đắng

Với nỗi chua cay nát lòng…

Tiếng đàn thiết tha hay hùng tráng của Đoàn Đình Thạchgiờ đây tuy đã tắt nhưng  dáng dấp hiền hoà, giọng nói nhẹ nhàng và nụ cười ấm áp trong những lần họp mặt, trong những chuyến đi lên rừng, xuống biển  với QV vẫn còn đó trong tim mọi người.

Xin ghi lại những tiếng vọng từ các bạn Quán Văn, nói như Hoàng Kim Oanh,thắp một nén hương bái vọng gửi theo anh…như gửi chút yêu thương ấm áp của tình thân và niềm tưởng nhớ của bao người. Nó là tiếng vọng của yêu thương của tình bạn của đồng cảm và chia sẻ, của “Gia đình Quán Văn”.

-Đặng Châu Long: “Những bài ca anh hát là những bài hát tôi vẫn nghêu ngao từ Trường ca Con đường Cái Quan, Trường ca Mẹ Việt Nam đến những bài ca rời tình ca, du ca hào hùng một thuở…Chúng tôi sẽ luôn nhớ  về anh như luôn nhớ những bài ca anh hát. Lời hát đó không chìm mất trong vũ trụ bao la mà sẽ ngân vang mãi trong lòng những người bạn quý mến anh.

-Nguyên Cẩn “ Câu thơ này thay tiếng khóc tiễn đưa anh .

Anh đã đi mang tiếng hát lên trời

Cả tài hoa với một đời âm nhạc

Đêm qua mau anh chẳng nói nên lời

Chào từ biệt thân tình trong cuộc sống

Trong gió khuya nghe lá rụng sau vườn

Anh uống cạn chén tình vui trần thế

Mai vắng anh trong những cuộc sum vầy

Cung cầm gẫy tiếng đàn đêm vẫn vọng

Những chuyến đi bao thương nhớ vơi đầy

– Lưu Hồng Diễm, chủ nhân chiếc du thuyền King Yacht, nơi cuối cùng nhóm Quán Văn gặp mặt cùng anh chị: “Chú Thạch ơi!!! Con còn chưa được hát nữa mà!!!! Con đang khóc đây! Thế là từ nay vĩnh viễn con không còn được chú đàn cho hát nữa rồi! Vĩnh biệt chú.”

-Hoài Huyền Thanh:Tiếng đàn tiếng hát đâu đó vẫn nhặt khoan

“đồi núi cao nghe gió vi vu” trên đường ta đi tới

trên dặm đường trường mai sau còn ai lĩnh xướng

Đường Cái Quan nhớ quá giọng hò khoan.    

-Nguyên Tâm:…          Tiếng đàn

giờ đã tắt rồi

Buồn vui gửi lại,

luân hồi… biệt ly

Ôm đàn, về cõi xa xôi

Anh đi thanh thản. Phai phôi kiếp người!

Tiễn anh về cõi nghìn trùng.

-Nguyễn Thị Tịnh Thy, từ thành phố Huế :  “Tôi đã từng chảy nước mắt khi nhạc sĩ Đoàn Đình Thạch ôm cây đàn ghi ta và cất lời lĩnh xướng những bài Tình ca, Con đường cái quan của Phạm Duy. Mấy chục anh chị em của tạp chí Quán Văn già có trẻ có hoà cùng giọng anh. Chúng tôi không phải nhả từng chữ, mà đang nuốt từng lời, đang uống từng hơi hồn thiêng sông núi, để tim mình đầy lên, căng trào và bật ra không chỉ là tiếng hát mà còn là tiếng khóc yêu thương, tiếng nghẹn ngào có giai điệu của hạnh phúc”.

– Và Hoàng Kim Oanh nghẹn ngào chuyển cho các bạn lời cuối: “ChịNáo đưa máy. Bảo bật camera. Anh cừời nhẹ: “Chào cô Oanh” và “Chúc cô cùng gia đình bình an mạnh khỏe! Mọi người mạnh khỏe nghe. Tôi mệt!”

Có lẽ còn nhiều, nhiều nữa…

Và chắc chắn rồi đây, mỗi khinghe tiếng hát.. của những lần sinh hoạt QV thì hồi ức về anh không thể phai mờ,  vì tiếng ngân của nó còn đọng lai trong lòng những ai yêu thương anh sẽ vọng lại không nguôi.

Milano 15.10.2021

Năm Covid thứ hai


[1]NĂM MỚI- Phan Ni Tấn phổ nhạc. http://www.art2all.net/tho/chutramnguyenminh/nammoi_phannitan.html

Read Full Post »

Elena Pucillo Truong

           (Nguyên tác tiếng Ý: Donare un momento di serenita’)

                               Bản dịch của Trương Văn Dân

            Trong xe khá yên lặng nhưng bên ngoài mưa đang rơi rất mạnh.

Những đám mây đen rủ ren nhau từ buổi chiều bây giờ đang phóng thích hơi nước tích tụ thành một cơn mưa xối xả, mọi vật xung quanh mờ mịt vì màn đêm cũng vừa buông xuống, ánh sáng chỉ lóe lên từng chặp nhờ đèn pha từ những chiếc xe hơi chạy ngược chiều.

Tôi muốn chợp mắt một chút để nghỉ ngơi nhưng xe cứ nhảy dựng vì ổ gà, luồng sáng chiếu lên mặt kính làm chói mắt và tiếng còi xe inh ỏi liên tục nhấn lên nên giấc ngủ không thể nào đến được.

            Thoạt đầu tôi còn nghe tiếng nói chuyện của Nga, Kim Đức và cô bạn Hồng Hoa ngồi ở băng sau, còn bên cạnh là chồng tôi đang trao đổi với Châu và Tự, chú em rể đang ngồi  bên cạnh tài xế. Nhưng về sau, có lẽ vì quá mệt nên mọi người im lặng, ngủ gà ngủ gật hay buông trôi theo ý nghĩ của mình.

Vì đã trễ nên trước khi về thành phố Qui Nhơn chúng tôi cho xe dừng lại ở một quán cháo vịt.    

Hơi nóng và mùi thơm bốc lên từ tô cháo làm chúng tôi tỉnh ngủ. Cảm giác như vừa nhận được một sự trợ gíup, không chỉ hâm nóng cơ thể mà còn cả tinh thần.

Hôm ấy không phải là một ngày dễ dàng… nhưng sự mệt mỏi của tôi còn do những buồn phiền từ những ngày trước đó.

Chuyến công tác từ thiện lần này được chúng tôi chia làm nhiều đợt: Buổi sáng di chuyển bằng xe máy đến trung tâm trợ giúp các em bé ở thị trấn Bình Định và buổi chiều đi phát gạo và tiền cho những bệnh nhân nghèo đang chạy thận ở bệnh viện Qui Nhơn. Ngày cuối chúng tôi phải đi xa, đến thị trấn Phú Phong để phối hợp chương trình cùng các bạn trong gia đình Phật tử.

Chúng tôi đã đi trên những con đường nhỏ hẹp và đầy bụi dưới cái nóng kinh hồn, bầu trời chỉ thỉnh thoảng mới có một cụm mây, để mang đến chút niềm vui cho những người bất hạnh. Nhưng cũng may là về chiều trời mới đổ mưa, điều này giúp chúng tôi tránh phải lội bùn hay gặp nhiều khó khăn trong việc đi lại.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng về đến nhà. Điều đầu tiên mà tôi ao ước là được tắm rửa để xóa đi những mệt nhọc và cơn buồn ngủ. Dòng nước ấm làm trôi đi những bụi bặm trong ngày nhưng những ý nghĩ thì vẫn còn đọng lại.  

Từ đôi mắt tôi chảy xuống ngoài những giọt nước còn có thêm vị mặn của nước mắt. Tôi  không thể nào xóa đi trong tâm trí những khuôn mặt co quắp vì đau khổ hay nỗi xót xa khi thấy những thân thể teo tóp, biến dạng vì bệnh tật trong những cuộc đời bất động, những con người im lìm, không thể tự túc nhưng ánh mắt vẫn còn ánh sáng. 

 Đó đây vang lên những những nụ cười của các trẻ em câm điếc cùng những đôi mắt để bày tỏ lòng tri ân, bởi vì để cảm ơn không cần phải dùng lời; Đôi mắt đầy lệ của bà mẹ 90 tuổi bị con cái bỏ rơi, của người đàn ông còn trẻ nhưng thân mang trọng bệnh mà không tiền chạy chữa, ông đâu còn có tương lai. Rồi còn đôi mắt đẫm ướt của một cô gái trẻ đang mang thai, một thân một mình nên không biết định mệnh sẽ đưa về đâu.

 Ôi bao nhiêu đau khổ toát lên từ bàn tay sần sùi, chai sạn của người đàn ông mà tôi đã nắm lấy để an ủi, mấy tháng trước ông còn làm việc ở một công trường hay bàn tay đen đúa của một bà nông dân suốt đời cúi gập mình trên ruộng gieo mạ để nuôi sống gia đình và cũng để nuôi sống cả chúng ta.

Tôi đã siết chặt những bàn tay biến dạng vì viêm khớp, có nhiều nút sưng to như trên những cành cây cổ thụ hay những bàn tay trắng xanh và mỏng manh như cánh hoa hồng của những em bé, có lẽ do sống nhiều thời gian giữa bốn bức tường, vì sợ ánh sáng hay không còn muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

Tôi đã ôm chầm lấy em bé mồ côi mẹ ngay từ ngày sinh đẻ hay lau khô những giọt nước mắt của những người không còn cử động.

Những cuộc đời bị cầm tù trong thân thể vì thiếu chân để trốn chạy, thiếu tay để tự vệ hoặc yêu thương. Họ không thể ôm lấy một ai để bày tỏ lòng yêu mến hay cảm nhận được hơi ấm của tình người!

Nhưng tôi nghĩ là mọi thứ còn kinh khủng hơn vì thiếu những cử chỉ thân thiện. Thường thì không ai có thời gian để ban tặng một vòng ôm. Đối với nhiều bác sĩ hay y tá thì chỉ có sự chẩn bệnh, trị liệu là quan trọng. Tất cả đều được khái quát hóa và người bệnh chỉ là một kẻ chiếm một giường nằm, nếu may mắn có được một chiếc giường để ngả lưng. Và điều này hiện nay phổ biến trên toàn thế giới, bệnh nhân đang trở thành một con số và mất đi bản sắc của mình vì chẳng ai còn quan tâm đến họ như một con người, không ai cần nhớ đến quá khứ, cuộc đời hay nỗi cô đơn của họ. Người ta dễ dàng quên đi là những cụ già này, những bệnh nhân kia cũng là người và từng có một đời sống đầy phẩm giá. Trong tình huống đó, cuối cùng thì giàu, nghèo chẳng có khác gì nhau, khi người ta không còn cảm nhận là mình đã từng hiện hữu. Tôi chợt nhớ đến bài thơ “Mới hôm qua thôi[1] của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và hiểu là sự đau khổ làm đã làm những  diễn ngôn trở thành vô ích.

Đầu óc tôi bỗng hiện lên hình ảnh một bà cụ, lúc bà vừa nấu xong một nồi cơm, đang đặt lên bàn thờ vài quả trứng chiên, một điã rau xào cùng bát canh rau vì hôm ấy là ngày giỗ chồng. Khi thấy chúng tôi, bà liền mời ăn cơm với bà. Tôi biết đó là cách mà bà muốn cảm ơn về món quà của chúng tôi mang lại nên ai nấy cũng đều vô cùng xúc động.

Ôi, bao nhiêu đau khổ trong những cuộc tồn sinh của bà! Mỗi ngày lặng lẽ trôi qua, bà không nhìn thấy một ai và chỉ trao đổi vài lời với một chú mèo con, chân bị cột vào thanh giường vì nếu nó chạy mất thì bà sẽ không còn biết vì ai để sống. Đợi chờ. Bà luôn đợi chờ một ai đến,  có thể đó là một bà hàng xóm ghé qua thăm và có mang cho bà tô cháo. Thỉnh thoảng lắm mới có những khuôn mặt lạ và họ đã để lại cho bà một vòng ôm, truyền cho bà chút hơi ấm đặc biệt qua hai bờ vai mảnh khảnh, rung theo tiếng nấc và đến từ trái tim khao khát tình người.

Tôi lau mặt và nhìn thấy trong gương đôi mắt đỏ của mình. Tôi giặt vội quần áo để loại bỏ mồ hôi và bụi đường và sau khi phơi ở hành lang, tôi bước lên giường để ngả lưng.

Nhưng những ý nghĩ vẫn còn nằm đó! Tôi không thể nào chặn nổi những ý nghĩ cứ  trỗi dậy trong đầu.

Trong trí tôi vẫn còn đọng lại hình ảnh một bà cụ già, trên người mặc chiếc áo màu tím, cầm cây gậy trúc cao hơn đầu mình chống ra cổng vẫy tay chào khi chúng tôi từ giã và sắp bước lên xe đậu ở phía bên kia lề đường. Đứng tựa người vào gậy, lưng dựa vào hàng rào, bà vẫy tay chào lần nữa để tỏ lòng biết ơn vì năm nay chúng tôi vẫn còn nhớ đến bà.

Mấy năm trước chúng tôi cũng đã gặp bà, luôn gầy ốm nhưng trong ánh mắt không thiếu tia sáng của nghị lực và lòng can đảm. Tôi còn nhớ bà và một bà cụ khác cũng ở gần nhưng năm nay đã không còn nữa. Chiếc phong bì dành cho bà cụ này chúng tôi đã dành cho một gia đình khác cũng đang cần giúp đỡ.

Khi tham dự vào một công tác thiện nguyện thì tôi không thích chụp hình, thế nhưng lần này thì chú Tự đã ghi hình và có lúc còn quay phim, mục đích lưu lại để chuyển cho những bạn ở xa đã đóng góp tiền bạc nhưng không tham dự được. Có bạn biết một vài trường hợp và nhờ chúng tôi thay mặt giúp đỡ. Nhưng có lẽ hiện thực mà chúng tôi chứng kiến còn nằm ngoài những trí tưởng tượng của họ. Bằng những đồng tiền nhiều nguồn, có thể góp được từ những buổi làm thêm, của một bà cụ già hay của một đôi vợ chồng trẻ gửi về để làm công đức cho đứa con gái vừa mới ra đời, tiền hoa hồng của một cô sinh viên làm thêm trong những giờ rảnh rổi, tất cả góp lại và gửi về để chúng tôi có thể đại diện họ mang lại một chút niềm vui cho những người khốn khổ. Mỗi người đều muốn đóng góp phần của mình, ít hay nhiều không quan trọng vì phát xuất từ những tấm lòng.

Tất nhiên tôi không thể nào đo lường được những bận rộn và lo âu của Nga, Xuân, Nguyệt, Kim Đức, Hoa, Hảo… để tổ chức về chuyến thiện nguyện này, dù đã nghe rất nhiều cuộc điện thoại, thấy nhiều lần trao đổi qua email, FB, tham khảo ý kiến của các bạn trong gia đình Phật tử Tây Sơn như anh Lộc, Như Trang… để xem xét các trường hợp, và bổ sung vào danh sách những người cần giúp.

Những đóng góp cá nhân tuy nhỏ nhưng mọi người đều cùng làm nên cũng đã giúp được nhiều người.

Tối đó tôi không thể nào dỗ được giấc ngủ. Đầu óc tôi cứ miên man nghĩ về những phận người, những cụ già hay em bé bị bỏ rơi, cô độc và bệnh tật. Tất nhiên không chỉ là những người mà tôi vừa thấy, vì trong thế giới này, chỉ cần mở một trang báo là thấy những hoàn cảnh như thế càng ngày càng tăng. Nguyên nhân có thể rất nhiều, nhưng với những người khốn khổ thì nào có quan trọng gì, cuối cùng cũng chỉ là đau khổ, đói khát, chết chóc và cô độc.

Khi chúng tôi đến trung tâm người khuyết tật thể chất và tâm thần thì có một người đàn ông đã gây cho tôi một ấn tượng mạnh lúc tôi đến trao cho ông chiếc phong bì. Vẫn nằm yên, mặt quay vào vách, ông cầm phong bì rồi ném ra xa. Sau vài lần như vậy thì cô y tá bảo tôi đừng quan tâm vì ông ta rất bất thường.

Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được cái bờ vai của ông ấy, và cái cách mà ông từ chối người lạ mặt. Thái độ của ông chính là sự khước từ cái thế giới này và chỉ chấp nhận nhìn vào mắt của những người đồng cảnh ngộ. Sự chọn lựa của ông là không thèm nhìn vào sự thật của bệnh tình.

Có thể là chỉ khi nhìn vào bức vách trắng thì ông ta mới tin rằng mình là một người bình thường, là có thể sống một cuộc đời khác, tưởng tượng vẽ lên bức vách đó những ý tưởng, những nhân vật hay sự kiện mà chỉ mình ông biết để tạo ra một thế giới riêng biệt và vẹn toàn.

Có lẽ ông không điên, không hề, và đã tự tìm ra cách để giảm bớt đau khổ, đã tìm thấy một cách giải quyết những vấn đề hiện sinh của mình để có thể tiếp tục sống.

Nếu ông ta quay lại, giả sử ông đã nhìn vào mặt tôi, có lẽ ông sẽ nhìn thấy trong mắt tôi bao niềm thương cảm và sẽ hiểu ra tình trạng của mình, như thế thì có khác gì ông ta đã  hủy diệt cái thế giới siêu thực mà ông đã khó nhọc tạo ra?

Tất nhiên tôi phải tôn trọng sự chọn lựa của ông và cần tìm hiểu lý do của thái độ khác thường đó, vì thật ra biên giới của sự bình thường và điên loạn rất đỗi mong manh.

Vì chính tôi cũng đã nhiều lần dập mạnh cánh cửa vào mặt cái thế giới tàn nhẫn này! Nhưng dù thế nào thì qua những an ủi và trợ giúp trong những ngày qua, có lẽ chúng tôi cũng đã gửi được một thông điệp hy vọng và an lành.

Có thể đây chỉ là một niềm an ủi nhỏ nhoi, nhưng chỉ sau những suy tư ấy mà tôi đã chìm vào giấc ngủ.

Sài Gòn, Ottobre 2019


[1] https://www.dohongngoc.com/web/huom-huom/nhung-nguoi-tre-la-lung-canh-mai-san-truoc/moi-hom-qua-thoi/

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »