Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Quy Nhơn’

Nguyễn Thanh Quang

 

Việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, công đầu được ghi nhận bởi ba nhà truyền giáo dòng Tên tại cư sở tiên khởi Nước Mặn: Francesco Buzomi (Ý), Francisco de Pina (Bồ) và Cristoforo Borri (Ý). Tuy nhiên, vai trò của Linh mục Bề trên Buzomi với chữ Quốc ngữ chưa được đánh giá khách quan, công bằng…

​Chỉ dẫn của dòng Tên khi các thừa sai đi truyền giáo, ghi cụ thể: “… Cha tìm hiểu ngôn ngữ mà các dân tộc ấy dùng để nói; nếu có nhiều ngôn ngữ, thì hãy chú ý ghi ngôn ngữ nào được sử dụng nhiều nhất, chủ yếu là trong giới bình dân. Cha tìm hiểu về chữ mà họ dùng để viết; về các chữ này, cha tìm cách hỏi những văn sĩ ưu tú mà cha gặp được, để ghi lại một bản chữ cái, kể cả những dấu nối và dấu phân câu mà họ dùng; cha cũng chú ý ghi lại bằng mẫu tự Latin tương ứng với cách phát âm, để ta có thể so sánh…”.

​Việc Latin hóa các hệ thống chữ viết không dùng mẫu tự Latin đã trở thành thông dụng và được xem như “truyền thống” của các thừa sai dòng Tên. Các thừa sai khi đến truyền giáo ở một đất nước nào, thì việc đầu tiên là học ngôn ngữ của nước đó. Muốn học ngôn ngữ bản địa, trước hết các thừa sai phải dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng nói của địa phương, đồng thời tiến hành biên soạn từ điển và ngữ pháp ngôn ngữ của đất nước đó. Các từ điển và ngữ pháp thường căn cứ theo mẫu các sách từ điển và ngữ pháp của tiếng Latin.

Dòng Tên Tỉnh dòng Nhật Bản bị chi phối bởi Bồ Đào Nha, trụ sở của dòng lúc ấy được đặt tại các lãnh địa của người Bồ ở Goa và Macau.Các nhà truyền giáo đương thời thuộc các quốc gia khác, phải được thụ huấn một thời gian trước khi lên đường đi truyền giáo. Vùng hoạt động truyền giáo của Tỉnh dòng bao gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Macau và các vùng liền kề, trong đó có Đại Việt, thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha. Nhân sự của Tỉnh dòng gồm nhiều quốc tịch, như: Ý, Pháp, Bồ, Nhật… trong đó đa số là người Bồ Đào Nha.

​Nhờ sự bảo trợ của Trần Đức Hòa, Khám lý Tuần phủ Qui Nhơn, cư sở tiên khởi của dòng Tên tại Đại Việt được thành lập tại Nước Mặn (Residentia di Pulocambi) vào Tháng 7 năm 1618. Từ năm 1618 – 1620, tại cư sở Nước Mặn có các nhà truyền giáo: Linh mục Pina (Bồ), Linh mục Borri (Ý), tu huynh Diaz (Bồ) và Linh mục Buzomi (Ý) là Bề trên của cư sở. Năm 1625, cư sở Nước Mặn của Linh mục Bề trên Buzomi có các linh mục: Gaspar Luis, Majorica và các tu huynh K’ieou, Nishi.

​Cha Bề trên Buzomi chú trọng thực hiện cụ thể Chỉ dẫn của Nhà dòng về việc tìm hiểu, học hỏi ngôn ngữ bản địa. Sử liệu dòng Tên cho biết, những năm 1618 – 1620 các thừa sai làm việc ở Nước Mặn, Đàng Trong là những người đầu tiên học và biết tiếng Việt.

​Theo Báo cáo thường niênnăm 1618, tại cư sở Nước Mặn có một thanh niên mười sáu tuổi, lanh lợi và thông minh, giỏi Hán văn, được dân làng yêu mến, là một tân tòng, tên thánh rửa tội là Phêrô. Dưới sự giám sát của cha Buzomi, anh giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng địa phương quyển sách giáo lý gồm các kinh: Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười điều răn… mà các Kitô hữu đã thuộc. Hiện nay, quyển sách giáo lý ấy chưa được tìm thấy, các nhà nghiên cứu cho rằng sách được soạn bằng chữ Nôm. Theo Linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được biên soạn bằng ngôn ngữ Đàng Trong, loại ngôn ngữ phổ thông (chữ Nôm)… Song song với việc biên soạn bằng chữ Nôm, sách cũng được phiên âm bằng mẫu tự Latin để các thừa sai được tiện dùng.

​Báo cáo thường niên năm 1619, chép: “Các thừa sai dòng Tên ở Nước Mặn là những người đầu tiên chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ hơn bất cứ điều gì khác”. Cha Buzomi thành lập một trường học tại cư sở Nước Mặn, chọn một thầy giáo xuất sắc về chữ Hán và chữ Nôm để làm việc tại trường nhằm giúp các thừa sai trong việc nghiên cứu và ghi âm tiếng Việt, hoặc dịch các tài liệu cho các thừa sai.

Ba Linh mục dòng Tên đầu tiên tại cư sở Nước Mặn được ghi nhận có những đóng góp ban đầu trong việc dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng Việt, sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là: Bề trên Buzomi, Pina và Borri.

+ Francisco de Pina: Đến Đàng Trong năm 1617, chết năm 1625. Pina có 8 năm truyền giáo ở Đàng Trong. Bức thư được cho là của linh mục Pina viết tại Dinh Chiêm năm 1623, bằng tiếng Bồ, xen lẫn vài cụm từ Latin, Nhật hay Mã Lai và vài tiếng Việt Nam được ghi bằng mẫu tự Latin. Pina được ghi nhận là người nói tiếng Việt giỏi nhất trong các nhà truyền giáo lúc bấy giờ.

+ Cristoforo Borri: Đến Đàng Trong năm 1618, rời Đàng Trong năm 1622. Bốn năm ở Nước Mặn, Borri đã để lại một số câu từ “Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” trong tác phẩm nổi tiếng: Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina (Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong). Ông Thanh Lãng đếm trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong tài liệu viết tay có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, mọi, càn…

+ Francesco Buzomi sinh năm 1574 tại Napoli (Ý), giáo sư thần học. Ông đến Macau năm 1608, sau đó qua Nhật. Năm 1615 đến Đại Việt, lúc đầu ông làm việc với người Công giáo Bồ ở cửa Hàn (Đà Nẵng), người Công giáo Nhật ở Hội An (Quảng Nam). Năm 1617 vào Nước Mặn, học tiếng Việt và bắt đầu truyền giáo cho người Việt. Với khả năng tổ chức tốt, ông đã sớm tìm kiếm những cộng tác viên ưu tú người Nhật, người Việt để giúp các giáo sĩ dòng Tên đến Đàng Trong học tiếng Việt. Từ năm 1618 – 1629, Linh mục Buzomi làm Bề trên cư sở Nước Mặn. Năm 1929, cùng với các thừa sai khác, Buzomi bị chúa Nguyễn trục xuất khỏi Đàng Trong, sang truyền giáo tại Cambodia (1629-1634). Năm 1934, từ Cambodia Linh mục Buzomi về Macau. Năm 1635 – 1639, Buzomi trở lại Đàng Trong với tư cách Bề trên miền truyền giáo. Năm 1639, lệnh chúa nguyễn Phước Lan trục xuất các thừ sai. Theo Linh mục Đỗ Quang Chính: “Francesco Buzomi… qua đời tại Áo Môn vì bệnh, ngày 01.7.1639”.

Linh mục Alexandre de Rhodes nhận định: cha Buzomi là vị tông đồ đích thực của Đàng Trong, người đã tận tụy lo việc truyền giáo, hoạt động trong hơn hai mươi năm với một sự kiên trì đáng được khen ngợi, ca tụng. Ngày 13.7.1626, Linh mục Buzomi viết một bức thư bằng tiếng Ý dài 4 trang gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, Bề trên cả dòng Tên. Trong thư có một số chữ Quốc ngữ được viết theo lối cách ngữ như ngày nay:

Trình độ hiểu biết sâu sắc nghĩa từ tiếng Việt và tài năng điển chế từ ngữ tiếng Việt của Linh mục Buzomi trong thư kể trên được Đỗ Quang Chính ghi nhận:

“Trong thư nầy, Buzomi tỏ ra không tán thành các từ Thiên, Thượng Đế, Thiên Chủ Thượng Đế, Ngọc Hoàng; vì không chỉ rõ Đấng Tối cao theo giáo lý Công giáo (như Thiên, Thượng Đế), hoặc chỉ một thứ tín ngưỡng đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam (Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng Thượng Đế), hoặc cụm từ có tính cách hoàn toàn Trung Hoa (Thiên Chủ Thượng Đế), nên Buzomi ngã theo cách dùng từ ngữ Thiên Chúa , vừa vắn, vừa hợp với văn hóa xã hội Việt Nam, vì hai từ Thiên và Chúa đã quá quen thuộc trong xã hội nầy”.

Linh mục Đỗ Quang Chính cũng nhận định chữ Quốc ngữ của Linh mục Buzomi tiến bộ hơn so với các giáo sĩ cùng thời, trong thư 1626: “Nhìn vào những chữ Quốc ngữ của Buzomi, mặc dầu ít, nhưng đã thấy tiến triển, nếu đem so sánh với lối viết của João Roiz, C. Borri, Đắc Lộ, Gaspar Luis và Antonio de Fontes từ năm 1626 trở về trước”.

Thế nhưng, Linh mục Đỗ Quang Chính nêu danh sách gần mười vị góp công sáng tạo chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, gồm: Francisco de Pina, Cristoforo Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, Alexandre de Rhodes, Filippo Marini, Bento Thiện, Igesico Văn Tín, mà không có tên Francesco Buzomi trong danh sách này!

Linh mục Daniello Bartoli (1608-1685) – Nhà sử học dòng Tên (cùng thời với Buzomi và Pina) nhận xét về trình độ hiểu biết tiếng Việt của Buzomi vào năm 1623 như sau: “Ngoài ra, với trí nhớ sâu sắc như một thiên tài cùng với sự nhiệt tình tuyệt vời của cha đã giúp cho cha học nhanh ngôn ngữ đó [Đàng Trong], nắm bắt tính đa nghĩa của từ, tính chất của các dấu nhấn và cung giọng được thể hiện theo ý muốn. Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, cha đã biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp tốt đẹp”. Bartoli còn cho biết khả năng ngôn ngữ Đàng Trong của Buzomi và Pina: “Cha Pina và cha Buzomi là những thừa sai nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của Đàng Trong, có thể thuyết giáo, trao đổi với các nhân sĩ và các vị sãi, trong các việc riêng tư hay trong nơi công hội”.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu – Linh mục Roland Jacques đưa ra nhận định: “Nhà chép sử dòng Tên Bartoli cho rằng Buzomi sáng tác một hệ thống văn phạm và ngữ vựng. Một trong những chứng lý là một bức thư viết năm 1622 mà chúng tôi không thể tìm ra. Có thể có sự lẫn lộn với Pina chăng…”!

Bức thư bằng tiếng Bồ của Pina viết tại Đàng Trong năm 1622, gửi cha Giám sát dòng Tên là Jérónimo Rodrigues “senior”, chép: “Tại Pulo Cambi [Nước Mặn], cha Buzomi có ba ông sãi làm thay cha hết mọi việc. Vì thế, nếu xảy ra chuyện gì, hoặc có công việc gì phải điều hành hay chuyển tin tức quan trọng, cha phái một thông dịch viên, hay một trong ba ông sãi… Khi giờ giáo lý kết thúc, cha ra về, còn họ thì ở lại hoặc để ôn tập, hoặc để chuyện trò với các dự tòng”.

Vai trò của Buzomi trong việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo chữ Quốc ngữ được ghi nhận khá mờ nhạt so với các nhà truyền giáo cùng thời, với lý lẽ thông thường được đưa ra là: cha Buzomi khi giao dịch hoặc giảng giáo lý cha dùng thông ngôn, nên cho rằng Buzomi không nói được tiếng Việt.

Việc Linh mục Buzomi thường xuyên sử dụng thông ngôn chứng tỏ Linh mục là người cẩn trọng, hơn nữa là một Bề trên, Buzomi còn có nhiều công việc khác. Chính Linh mục Buzomi đã cho biết trong bức thư viết vào tháng 5 năm 1622 gởi cho cha “kinh lược sứ”: “Ngôn ngữ xứ này rất khó vì ý nghĩa của nó được phân biệt bằng thanh điệu hơn là từ ngữ. Tôi bị bệnh lâu ngày và làm việc liên tục, điều đó không cho phép tôi chờ đợi qua thời gian dài. Do đó, khi dạy giáo lý, tôi luôn sử dụng thông ngôn. Tôi hỗ trợ anh ta và gợi ý cho anh ta từng bước một những gì anh ta phải nói và hướng dẫn anh ta nếu có điều gì có thể bị hiểu nhầm. Và như thế những gì anh được nói, nó có giá trị như chính tôi đã nói”.

Sử gia Bartoli đã ghi nhận: “Khi Linh mục không đủ tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình để rao giảng chân lý đức tin, Linh mục dùng thông ngôn, người mà trước đó đã được Linh mục đào tạo vững vàng về kiến thức đức tin để có thể giải nghĩa cho dân chúng. Trước tiên Linh mục cố gắng diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình, sau đó thông ngôn người Đàng Trong nói lại bằng ngôn ngữ Đàng Trong của anh bằng những từ diễn đạt chính xác ý nghĩa, nói được như bản sao của bản chính”.

Linh mục Borri, một trong hai thừa sai (Borri và Pina) được cho là nói thạo tiếng Việt vào thời điểm 1620. Tuy nhiên, Borri bối rối, từ chối dạy giáo lý cho Bà vợ sứ thần được cử đi sứ Cambogia khi bà xin học giáo lý để được rửa tội trước khi lên đường. Linh mục Borri viết: “…Sau đó, tôi xin lỗi bà vì tôi không thể đáp ứng ngay lập tức ước nguyện thánh thiện và đúng đắn của bà, vì cho dù tôi đã có chút ít hiểu biết về ngôn ngữ Đàng Trong, tuy nhiên không đủ để giảng dạy những điều cao thượng và những mầu nhiệm cao cả của Kitô giáo. Vì thế, tôi xin bà nên đợi Cha Buzomi, trong một vài ngày nữa sẽ từ Đà Nẵng trở về cùng với một thông ngôn tài giỏi, nhờ đó bà sẽ được hướng dẫn thỏa đáng và sẽ làm cho bà hài lòng về ước nguyện thánh thiện của bà… Nhờ người thông ngôn này cùng với tính siêng năng, cần mẫn và chú tâm học giáo lý vào hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều trong suốt 15 ngày, bà đã học đầy đủ giáo lý của đạo thánh chúng ta. Bà cảm kích việc Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người vì yêu thương nhân loại. Sau khi được cha Buzomi giảng giải giáo lý, bà đã được rửa tội tại nhà thờ Nước Mặn cùng với hai mươi lăm người phụ nữ khác. Bà chọn thánh Ursula làm bổn mạng”. Tự thuật của Borri đã chứng minh việc Linh mục Bề trên Buzomi sử dụng thông ngôn là cần thiết; các thừa sai dù thông thạo tiếng Việt nhưng chưa đủ khả năng truyền đạt giáo lý, những chân lý về đạo cho người Việt.

Cần lưu ý, các thừa sai thường phải học ngôn ngữ của nơi đến truyền giáo là để giải tội. Việc xưng tội và giải tội là chuyện hoàn toàn “riêng tư” của người xưng tội và Linh mục giải tội, không thể có người thứ ba phiên dịch. Các Linh mục nghe hiểu người xưng tội xưng những tội gì, thì mới có thể giải tội được.

Linh mục Buzomi còn có vai trò đặc biệt đối với trường dạy Quốc ngữ đầu tiên cho các nhà truyền giáo tại Nước Mặn và là thầy dạy tiếng Việt tại Nước Mặn cho các Linh mục: Emmanuel Borgès (Bồ) và Giovanni di Leira (Ý) (đến 1622), Gaspar Luis (Bồ) và Girolamo Majorica (Ý) (đến 1624). Linh mục Girolamo Majorica là học trò của Buzomi tại Nước Mặn từ năm 1624 – 1629. Năm 1632, ông đến Đàng Ngoài, làm Bề trên giáo đoàn Đàng Ngoài, ông qua đời năm 1656 tại Thăng Long. Trong khoảng 30 năm hoạt động truyền giáo ở Đại Việt (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) ông đã khởi xướng và chủ biên tới 48 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm. Hiện nay, Thư viện Quốc gia Paris lưu trữ 15 cuốn với 4.200 trang. Mỗi trang có từ 9 đến 12 dòng, mỗi dòng có từ 30 đến 34 chữ Nôm, tổng cộng có 1.400.000 chữ. Có thể nói, Girolamo Majorica là “nhà Nôm học”, một hiện tượng độc đáo trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, ông có một chỗ đứng thật đặc biệt, đại diện cho văn xuôi Nôm thế kỷ XVII.

Với tư cách là Bề trên, Linh mục Buzomi triển khai chỉ dẫn các thừa sai, vừa là người tổ chức, vừa là người đôn kiểm, giám sát, vừa là người đồng hành, vừa là thầy dạy tiếng Việt. Ông đã tham gia việc nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ một thời gian khá dài – trên 20 năm ở Đàng Trong, thời gian đầu cùng với Linh mục Pina, Linh mục Borri và một số người Việt tại Nước Mặn, thời gian sau với các Linh mục: Emmanuel Borgès,Giovanni di Leira, Gaspar Luis và Girolamo Majorica…

Linh mục Bề trên Buzomi là nhân vật số một trong buổi đầu truyền giáo của dòng Tên ở Đàng Trong. Giống như Pina và Borri, Buzomi cũng chỉ ký âm tiếng Việt, biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp sử dụng cho riêng mình học tiếng Việt, cả ba nhà truyền giáo tiên phong chưa làm được công việc mà sau đó các giáo sĩ Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de Rhodes thực hiện, đó là biên soạn Từ điển. Thế nhưng, không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của Linh mục Bề trên Buzomi đối với việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra “chữ Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” cùng hai giáo sĩ Pina và Borri tại cư sở tiên khởi Nước Mặn.

​​​​​​​​​​NTQ

Read Full Post »

Phương Phương

.

Thành phố dịu hiền như nửa vầng trăng(1)

Còn một nửa xin để dành cho biển

Từ cái buổi ban đầu em đến

Tận bây giờ vẫn trong vắt tin yêu!

,

Biển thì thầm bên em – biển muốn nói bao điều

Eo Nín Thở lại phập phồng con sóng

Biển trách em vô tình đỏng đảnh

Để cồn cào nỗi nhớ – biển đau…

.

Em về với biển rồi – mình lại có nhau

Quy Nhơn xanh ngút ngàn ánh mắt.

Hoàng đế Quang Trung bao năm rồi thao thức

Vó ngựa oai hùng lồng lộng giữa trời xanh.

.

Nửa vầng trăng mơ màng thức dậy trong anh

Thành phố biển lưng tựa vào vách núi

Vì sợ trái tim người lẻ loi buồn tủi

Nên cây Cầu ngọn Tháp cũng có Đôi(2)

.

Em mang về cho anh – tia nắng nhỏ cuối trời

Trao cho anh nụ cười hiền ấm áp.

Đồi Thi Nhân dốc Mộng Cầm vang câu hát

Chàng thi sĩ họ Hàn được an ủi nơi đây.

.

Ngọn gió đa tình bồng bềnh giữa trời mây

Em đến rồi đi mang bao niềm thương nhớ

Quy Nhơn ơi! Sao Người nồng hậu thế

Để nặng lòng kẻ ở người đi (1)

—————-

Về đêm con đường Xuân Diệu mới mở uốn cong như nửa vầng trăng cổ tích; (2) Cầu Đôi Tháp Đôi tại Quy Nhơn.

Read Full Post »

” Quy Nhơn bé nhỏ “

Mai Văn Hoan

.

Ôi Quy Nhơn , “Quy Nhơn bé nhỏ “ !

Sao mãi giờ ta chưa biết Quy Nhơn

Có xa chi từ đây đến đó

Ta như nghe ai đó dỗi hờn

.

Ôi Quy Nhơn ,” Quy Nhơn bé nhỏ “

Con đường nào ai vẫn thường qua ?

Ngôi nhà nào hiện ai đang ở ?

Xin Quy Nhơn chỉ giúp cho ta !

.

Ôi Quy Nhơn “ Quy Nhơn bé nhỏ “

Ta khát khao gặp được Quy Nhơn

Cùng với ai đuổi bắt còng gió

Chạy tung tăng trên sóng dập dờn

.

Ôi Quy Nhơn , “ Quy Nhơn bé nhỏ “

Ta muốn lên Ghềnh Ráng cùng ai

Đi cùng ai đến bên ngôi mộ

Thắp nén nhang tưởng niệm thiên tài

.

Ôi Quy Nhơn , “ Quy Nhơn bé nhỏ “

Sao chiều nay cứ vang vọng Quy Nhơn

Biển Quy Nhơn con sóng nào vừa vỗ

Ta như nghe có tiếng dỗi hờn

.

Ôi Quy Nhơn , “ Quy Nhơn bé nhỏ “

Vâng , thế nào tôi cũng đến Quy Nhơn !

Read Full Post »

Lặng lẽ Quy Nhơn

Phạm Văn Phương

.

Khi tôi biết yêu, Người đã ở đó rồi

Một thành phố nhỏ nhoi và bình lặng

Thành phố không dèn mầu và âm âm tiếng sóng

Bạn bè đông vui

.

Rồi chúng tôi chia tay, mối đứa một góc trời

Thi thoảng gặp nhau thường nhắc

Ly rượu ấm trong chiều gió bấc

Nụ cười giêng hai

.

Đi hết thanh xuân, ngừoi vẫn mong ngừơi

Thương nhớ quá mà không tìm nhau được

Thành phố đồi thay nhiều, ai cũng khác

Bạn bè dần vơi

.

( Lòng vẫn yêu hoài một thành phố nhỏ nhoi

Thành phố không đèn mầu, và em bình lặng

Sóng cứ vỗ mênh mang vào xa vắng…)

.

Tôi lại về trong buâng khuâng đêm

Năm tháng như mây trời phiêu dạt

Sợi tóc trắng cầm tay soi dưới nguyệt

Trăng không mầu, em trong chiêm bao

.

Những con còng se cát đã về đâu?

Read Full Post »

Gần 10 g xe mới đến Quy Nhơn ,trên xe Hùng PT đã hí hoáy mở laptop làm thơ bấm nút:

Long rong ta cũng đã đến rồi,
Say ta say, mà tỉnh ta cũng tỉnh,
Say ta say nỗi nhớ cũ,
Tỉnh cho ta còn nhớ con đuờng xưa,
Bên kia… là nhà ta,
Bên này… ta còn lại,
Ngồi im ta lật lại trang đời,
Bao lâu ta đi,
Bao lâu ta lại về?
Ta nhớ ai?
Và ai còn nhớ ta?

Vũ Lê Đức bồi hồi trãi lòng trên mạng ,xin trích đôi dòng tâm trạng của một người xa quê nhưng vẫn đau đáu tình quê như anh

Qui nhơn đây rồi …
Thật cảm động khi trong năm anh em thì có người đã xa Qui nhơn trên 40 năm ,ngưòi trên 30 năm…xe còn trên dốc Ghềnh ráng đã thốt lên những cảm kích …thơ mộng,hoành tráng ,đẹp…
Người đầu tiên anh em gặp là Lê đình Khải bên quán bún bò chả cá (lạ thật, xưa nay chỉ nghe bún bò giò heo chứ có nghe bún bò chả cá bao giờ ;có lẻ phải tìm hiểu về món đặc sản này ) ,sau vài ly bia,anh em tạm chia tay để tìm chổ ngủ và lên trang Xứ Nẫu

Còn Xóm Chùa thì đã căng biểu ngữ sớm từ dốc đèo Gềnh Ráng:

WELCOME HOME
Xóm Chùa mở rộng cổng chùa
Đón mấy đúa con lang thang, hoang đàng chi địa
Tung cánh chim
Tìm về tổ ấm !!!!!!!!!!!!!

Văn Công Mỹ vội khuyến cáo trên website xunau.org:

Lưu ý mấy huynh:đặt chân lên đất Nẫu quần áo bảnh bao nghen;không đóng mặt khờ (vì xỉn)nghen;không nghía ngang nghía dọc nghen;không “sát sinh” nghen! Zooooot.

Nhưng may quá ,sáng hôm sau vừa bảnh mắt sau mấy chầu túy lúy càn khôn,các nữ thi sĩ xứ Nẫu đã đón tiếp bằng chầu bánh xèo vỏ chắm mắm nêm,bún cá và bánh bèo nhân đậu phộng tại cafe Gia Nguyễn. Ngon hết biết

Người ngồi chính giữa bận áo màu xanh chuối non là nhà thơ Lâm Cẩm Ái,kế bên là QuốcTuyên,Phàn Lê Huê, Diệp Kim Chi và nguyễn Thị Tiết .Ngồi đối diện là Huỳnh NgọcTín về từ Trung Á,Hùng PT và Lê Đình Khải. ..Huỳnh NgọcTín là giám đốc công ty sản xuất thép ở Udobekistan cũng là còm sĩ và thi sĩ nhiệt tình của xứ Nẫu

.Buổi trưa một bửa ăn rặt Bình Định với mắm ruột cà pháo,mắm cua chua,canh rau tập tàng được bạn bè Quy Nhơn chiêu đãi năm kỵ sĩ hành miền Trung   Lưu Đình Trọng và Cao Hữu Hùng gần 40 năm mới quay lại xứ Nẫu nên cứ đờ ra vì …cảm động

Phong vị quê hương thật đậm đà

.

.Và ấm tình bằng hữu

Các bạn có thấy các nhà  thơ xứ Nẫu rất xinh không? Sáu hay khen thật tình nên thường xuyên bị ăn đạn. Tiếc là hữu danh vô thực !!!

.Ngày hôm sau,đoàn về đất kinh kỳ An Nhơn. Đất Vua vẫn còn những chuyến xe thổ mộ dạo thong thả trên đường.

An Nhơn bây giờ đã là thị xã

.Cổ kính ,hiện đại. Nếu để ý thì thấy bà con đi xe ngựa ra chợ mua bán,nhưng buổi trưa khi trở về thổ mộ lại thồ thêm mấy bình gas……he…he !

Anh Mang Viên Long ,già làng xứ Nẫu. Anh đã góp phần rất lớn cho sự phát triển của xunau.org trong thời gian vừa qua

.Anh ký tặng cuốn sách mới xuất bản còn thơm mùi mực mới

.Phạm Văn Phương,Nguyễn Như Tuấn từ Nhơn Khánh cũng đến tham gia gặp mặt

.

.

Nguyễn An Đình mới trãi qua cuộc phẩu thuật tim cũng lackiu cùng anh em xứ Nẫu tại nhà riêng

.

.Ngoài vườn nhà Nguyễn An Đình vẫn còn một cây cải vàng ,anh để dành từ tết đến giờ chờ bạn hiền đến thăm.

 

Sáu dạo chợ Bình Định thấy cá lồ ồ trụng hấp dẫn quá mua liền 5 con ,mang về nhờ nhà hàng hấp lại. Cá ồ trụng cuốn bánh tráng mì và rau muống nguyên cộng chấm mắm cái thì…hết ý

.Minh Nguyệt ưu tiên đượcmột dĩa đậu hủ hấp. Tội nghiệp

.Minh Nguyệt và Rêu

.Chia tay An Nhơn trong cái nắng xuân đang còn đương thì dìu dịu mơn mang

 Mời các bạn xem lại một vài hình ảnh của chuyến đi

 

Sáu Nẫu

Read Full Post »

Hồ Ngạc Ngữ


Em cắn mùa Đông trong củ sắn
Đôi môi mềm theo rét nhớ thương
Quy Nhơn có những ngày tháng Chạp
Những nụ cười thơm những mùi hương

Có mùa Xuân đi vào Ghềnh Ráng
Qua đèo Son hái trái sim rừng
Anh muốn hái thật nhiều hoa dại
Ướp hương vào mái tóc người dưng

Em có thấy mùa Thu trên phố
Đang vàng rơm những chiếc lá bàng
Đêm em nằm nghe cơn sóng vỗ
Đâu biết một người nhặt lá lang thang

Quy Nhơn có những cành phượng đỏ
Cho yêu thương cháy suốt mùa Hè
Khi xa rồi, lòng ai cũng nhớ
Một khoảng trời xanh thẳm tiếng ve…

19.02.2012

Read Full Post »

Bút ký của HUỲNH KIM BỬU

Tháng 5 / 1955, từ một làng quê xa ở dưới chân thành Hoàng Đế, có một cậu bé lên 10 theo người lớn đến Quy Nhơn để tiễn Cậu ruột xuống tàu thủy đi tập kết. Năm năm sau, cậu bé ấy là học sinh một trường Trung học công lập trong thành phố Quy Nhơn. Cậu ta nay đã là một người cao niên hay ngồi lại với bạn cũ để nhắc lại những “chuyện ngày xưa”, trong đó thường không thiếu chuyện ngày xưa của một thành phố một thời cậu ta đến theo đuổi việc học và đã sớm nhận ra, đó là một thành phố đẹp và thơ.

(more…)

Read Full Post »

Đến Quy Nhơn bạn hãy một lần ghé thăm Eo Gió để nghe tiếng gió vi vu thổi vào vách đá, luồn qua những hang động và hòa quyện tiếp với sóng dạt dào ngày đêm xô vào bờ.

Để nhìn những phiến đá kỳ vĩ đầy hình thù đang cố dang tay ôm lấy đại dương ngút ngàn; thấp thoáng đàn chim én lượn chao nghiêng trông đẹp đến ngỡ ngàng.

Đường lên Eo Gió

Eo Gió là một eo biển đẹp hình vòng cung thuộc thôn Hưng Lương, xã bán đảo Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Sở dĩ gọi là Eo Gió hay Eo Cửa Gió vì đây là một cửa eo nhỏ mà đứng từ trên cao dễ dàng nhìn thấy hai dải núi đá cong hình vòng cung ôm lấy một góc biển khơi trông tựa như một cái phễu.

Hoang sơ – kỳ vĩ

Những năm trước, để đến với Eo Gió không phải là điều đơn giản, phải đi ghe máy từ bến Hàm Tử vượt biển, nếu không phải băng qua đầm Thị Nại mênh mông rồi lội qua những đồi cát trập trùng, không một bóng nhà mới tới được Eo Gió. Nhưng bây giờ, từ khi cầu vượt biển Thị Nại hoàn thành (năm 2006) thì từ thành phố Quy Nhơn chỉ cần chạy xe 20km băng qua cầu Thị Nại là đến trung tâm xã Nhơn Lý, nơi có thắng cảnh Eo Gió.

Đường đến Eo Gió cũng thật đẹp và hoang sơ. Bạn hào hứng khi mình đang chạy trên cầu vượt biển Thị Nại, cây cầu dài nhất Đông Nam Á (2.500m). Đứng ở đầu cầu, gần như không thể nhìn thấy bên kia cầu bởi sự bao la của đầm Thị Nại, niềm tự hào của miền đất võ đầy nắng và gió. Đứng ở trên cầu, nhìn ngược lại, thành phố Quy Nhơn trông thật yên bình bên biển xanh.

Tiếp tục chạy xe, một cảm giác bồng bềnh khó tả khi gió từ biển thổi mát rượi, ven đường là những đồi cát trắng xóa tràn ra cả mặt đường. Đường dài hun hút, không một mái nhà, chỉ màu trắng của cát hòa lẫn với màu xanh ngắt của mây trời và xanh đậm của những rặng phi lao ven đường. Khung cảnh hoang sơ đến huyền bí.

Tưởng như đã thưởng thức no nê vẻ đẹp đặc trưng vùng biển thì khi leo lên hết con đường mòn mấp mô, chênh vênh để tận mắt mục sở thị Eo Gió, bạn chỉ biết ngỡ ngàng trước cảnh sơn thủy hữu tình; cảm giác mệt mỏi tan biến, thay vào đó ta dần thấy mát lạnh khi những cơn gió biển lọt vào eo xâm chiếm cả khu này.

Eo Gió đẹp bởi những rặng núi đá cao chót vót với đủ hình thù kỳ quái chạy lan ra trùng dương. Núi ôm biển, biển vờn quanh núi, sóng xô vào bờ như đang hát lời ru dạt dào, xa xa thấp thoáng dáng con thuyền, chập chờn đàn chim tung cánh. Từ trên cao quần thể Eo Gió trông đầy gợi cảm mà cũng thật hoang sơ, kỳ vĩ.

Là một trong những thắng cảnh nổi bật nhất Bình Định nhưng Eo Gió hầu như vẫn chưa có bàn tay tác động của con người. Những dịch vụ du lịch không phát triển nên chỉ mất tiền gửi xe ở những hộ dân quanh đó rồi ta tha hồ tự do thưởng ngoạn vẻ đẹp của biển trời bao la và những đường cong tuyệt đẹp của núi đá vẫn còn trinh nguyên, hoang sơ.

Bài hát của đá và gió

Lên đến đỉnh, điều đầu tiên bạn cảm nhận được là những dải núi đá uốn cong như một cái phễu hút gió từ biển rồi chạm vào những vách đá thổi ngược lại lồng lộng cho cảm giác mát lạnh. Ta nghe rõ âm thanh của gió rít bên tai hòa với tiếng sóng vỗ dịu êm, thi vị hơn bạn ngửi thấy cả mùi chát mặn của biển cả.

Eo Gió tựa như một bài hát do đá và gió tạo nên. Những âm thanh du dương của gió rít vào những vách đá, tiếng sóng biển nhè nhẹ dạt dào ngày đêm mãi xô vào bờ, thi thoảng đâu đấy là tiếng xôn xao của đàn chim từ những hang động bay ra. Tất cả tạo thành một bài hát đầy chất thơ, nghe rất êm tai.

Chính đá mới là nhân tố làm nên vẻ đẹp quyến rũ, man dại của Eo Gió. Đá nơi đây lởm chởm từ đỉnh cao vút chạy đến bờ thoai thoải; đi dọc theo chân núi là đến bãi Đá đẻ với rất nhiều đá lớn nhỏ được sóng mài phẳng lì. Sở dĩ gọi là Đá đẻ vì cứ nhặt đi lại thấy đá như “mọc” ra nhiều hơn. Từ Đá đẻ nhìn ra biển là những cụm đá lớn nổi trên mặt nước, đủ hình thù kỳ quái cho bạn thỏa sức tưởng tượng.

Những cụm đá hình thành nên những hòn đảo nhỏ như hòn Mòng, hòn Cỏ, hòn Cân… Mỗi hòn mang một dáng dấp khác, chẳng hạn như hòn Mòng người dân nơi đây coi như con cá sấu vươn mình ra biển cả hay con trâu đang ngụp lặn tắm mát.

Dọc theo những vách núi, ta còn bắt gặp những hang động nhỏ mà thiên nhiên vô tình kiến tạo ra; nào là hình hàm ếch, hình vòm… với những nhũ đá đa dạng màu sắc, gợi cảm. Đứng nơi đây vãn cảnh và chụp vài bức hình quả là tuyệt vời. Thú vị hơn, ở đây còn có giếng tiên, là một con suối nhỏ như dải lụa vắt bên vách núi; nước suối mát ngọt và trong vắt. Còn gì tuyệt hơn hơn sau khi chơi với đá, tắm biển rồi ngâm mình trong giếng tiên thả hồn theo mây gió, hệt như chốn tiên cảnh.

Biển bao la mang theo gió, sóng vỗ vào đá, gió cuốn lấy đá tạo nên nét đẹp Eo Gió, tạo nên một bài hát du dương, êm dịu…

TheoTTO

Read Full Post »

 Nếu như du khách đã quá quen thuộc với các tour du lịch Vũng Tàu, Nha Trang, Bình Thuận thì Quy Nhơn sẽ là điểm đến hấp dẫn cho những người yêu thích biển và sự bình yên.

Nằm ở phía Đông Nam tỉnh Bình Định, một bên là biển Đông vỗ về, 1 bên là núi biếc trùng điệp, thành phố Quy Nhơn mang một vẻ đẹp hoang sơ mà rực rỡ say lòng người.
Quy Nhơn trải dài theo hình cánh cung, ôm lấy bờ biển cát vàng óng ánh như tình nhân. 1 bên là biển rộng sóng vỗ rì rào, 1 bên là các dãy khách sạn, khu resort cao cấp hướng mình đón gió biển. Từ đây, có thể nhìn thấy những hàng dừa xanh đu đưa theo gió, phóng tầm nhìn ra xa 1 chút sẽ thấy một màu xanh đại dương tươi mát hòa với màu trời trong vắt như ngọc.
Sau khi chọn cho mình một chỗ dừng chân bên bờ biển, du khách có thể bắt đầu chuyến du lịch với bãi tắm Hoàng Hậu nên thơ dưới chân đồi Thi Nhân.
Cách trung tâm thành phố Quy Nhơn tầm 2 đến 3 Km, nằm trong khu du lịch Ghành Ráng, bãi tắm Hoàng Hậu đẹp một cách kiêu sa, đài cát.  Bãi tắm Hoàng Hậu hay còn gọi là bãi Trứng là một bãi biển rộng lớn với những viên đá xanh hình tròn, mặt nhẵn như quả trứng với đủ mọi kích cỡ xếp lên nhau trên bãi biển. Phía trước bãi là những tượng đá thiên nhiên chắn sóng, tạo nên 1 vùng nước lặng. Quý khách có thể tắm biển, xây lâu đài cát hoặc nhặt những viên đá lạ mắt về làm quà cho người thận.
Cao cao phía trên bãi tắm Hoàng hậu là đồi thi nhân, nơi đặt mộ nhà thơ Hàn Mặc Tử. Đồi thi nhân tĩnh lặng, đắm mình trong không gian thơ mộng và chan chứa tình. Hàng năm, vào ngày tết nguyên tiêu(ngày 15 tháng 1), đồi thi nhân lại tổ chức lễ hội thơ để vừa tưởng nhớ nhà thơ Hàn Mạc Tử, Yến Lan vừa vinh danh những tài năng thơ phú của tỉnh nhà.
Dưới chân đồi Thi nhân là làng phong Quy Hòa. Ở đây có hàng trăm ngôi nhà của các bệnh nhân phong được xây dựng từ hơn 80 năm trước. Mỗi ngôi nhà có 1 kiến trúc riêng, nhưng tất thảy đều toát lên vẻ mộc mạc, giản dị và yên bình đến nao lòng người. Có thể nói, khu điều trị phong Quy Hòa là một trong những bệnh viện đẹp và độc đáo nhất thế giới.
Trong làng phong Quy Hòa còn có khu vườn tượng độc đáo. Những bức tượng bán thân của các danh y lỗi lạc được đặt cạnh nhau dưới bóng phi lao rì rào vừa toát lên vẻ uyên bác, vừa lại thanh bình quá đỗi.
Đến Quy Nhơn mà không 1 lần đặt chân lên cầu Thị Nại là 1 điều vô cùng thiếu sót. Đây là cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam, nằm trong hệ thống cầu đường Nhơn Hội dài gần 7 Km nối liền thành phố Quy Nhơn với bán đảo Phương Mai.
Người Quy Nhơn mỗi khi muốn ngắm nhìn thành phố sẽ chạy xe lên con đường Quy Nhơn-Sông Cầu. Từ trên cao phóng tầm mắt xuống sẽ thu về toàn cảnh thành phố nhỏ bé yên bình như tranh vẽ, trong đáy mắt là một màu xanh của cây trái mượt mà, xanh của biển rộng, trong vắt màu trời.
Đêm Quy Nhơn không ồn ào, toàn thành phố chìm trong ánh đèn vàng dịu dàng ấm áp. Thành phố về đêm như đóa hoa quỳnh âm thầm nở bung, khoe ra vẻ đẹp kiều diễm cùng hương thơm ngọt ngào. Du khách có thể chọn cho mình 1 quán café bên bờ biển để ngắm nhìn biển đêm điểm xuyến ánh đèn đánh cá ngòai khơi lấp lánh.
Bãi biển cũng là 1 nơi thú vị về đêm với các trò chơi tập thể như đốt lửa trại, kéo co, hay đơn giản chỉ là những bữa tiệc barbecue bên bờ biển, cùng gia đình người thân quay quần nướng lên những món hải sản thơm lừng.
Những người yêu nhau lỡ ghé chân đến Quy Nhơn vào đêm trăng rằm sẽ không bỏ lỡ cơ hội nắm tay nhau bước đi trên bờ cát trắng mịn màng, dưới ánh trăng vàng tận hưởng dư vị ngọt ngào, lãng mạn của tình nhân.
Đã đến Quy Nhơn rồi nhất định phải đi cù lao xanh. Cù Lao Xanh còn gọi là đảo Vân Phi là một hải đảo nằm gần vịnh Xuân Đài, thuộc xã Nhơn Châu cách thành phố Quy Nhơn chừng 13 hải lý về phía Đông Nam.
Du khách có thể đến mũi Hàm Tử để đón thuyền ra Cù Lao Xanh, mất khoảng gần 2h đồng hồ là có thể đặt chân lên cù lao xanh mướt một màu này.
Không biết cái tên “Cù lao xanh” có tự bao giờ, chỉ biết rằng trên bản đồ địa chính quốc gia nó nhỏ hơn một hạt đậu xanh nổi trên mặt biển.
Bên cạnh một Quy Nhơn đô thị đang từng ngày thay da đổi thịt, vẫn luôn còn đó 1 Quy Nhơn dịu dàng đằm thắm, đẹp đến nao lòng người, luôn sẵn sang chào đón bước chân bạn ghé qua.
Khiếu Nguyệt
Nguồn: aFamily

Read Full Post »

Một thoáng Quy Nhơn

Nguyên Hùng

Biển Quy Nhơn lần đầu ta đến
Đã thân thương như chính biển quê nhà
Những rặng dừa dáng nghiêng phía biển
Như lòng người hướng phía khơi xa

Đi bên em dọc con đường mới
Biển xô đường cong nửa vầng trăng
Sao đèn chài níu hai đầu núi
Ngoái phía nào cũng thấy lưới giăng

Thành phố biển thanh bình thơ mộng
Đất võ tình người thấm đẫm hồn thơ
Biển nhớ ai miên man tiếng sóng
Ta nhớ ai lúc tỉnh lúc mơ?

Read Full Post »

Older Posts »