Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Nguyễn Thanh Quang’

Nguyễn Thanh Quang

.

Trường Lũy là một phức hợp bao gồm: lũy-bảo (đồn)-đường, hình thành từ thời chúa Nguyễn, xây dựng quy mô dưới triều Nguyễn; đi qua địa phận 3 tỉnh trước đây: Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.

Thế nhưng chỉ cần đi qua một đoạn ngắn công trình này, phần thuộc tỉnh Bình Định (cũ) chẳng hạn, bất cứ ai mến yêu quê hương, đất nước mình cũng sẽ bùi ngùi, kính ngưỡng trái tim, khối óc, trí tuệ người xưa.

Tôi đã nhiều lần đến với Trường Lũy trong nhiều vị thế, tư cách khác nhau, lần nào cũng dâng lên niềm cảm khái.

1.

Năm 1819, triều Gia Long, Tả quân Lê Văn Duyệt (1764 – 1832) khởi công xây dựng công trình kiến trúc phòng ngự dọc theo chân Đông Trường Sơn, từ Hà Đông (Quảng Nam) đi qua các huyện phía Tây Quảng Ngãi (Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Minh Long, Nghĩa Hành, Ba Tơ, Đức Phổ) và các xã Hoài Sơn (Hoài Nhơn), An Hưng, thị trấn An Lão, An Tân, An Quang (An Lão). Nguyễn Tấn, vị quan chỉ huy Trường Lũy trong những năm 1860, viết trong sách Vũ Man Tạp lục thư: “Quận công Lê Văn Duyệt tâu xin xây Trường Lũy, Nam giáp ranh giới Bồng Sơn tỉnh Bình Định, Bắc giáp ranh giới huyện Hà Đông (Núi Thành) tỉnh Quảng Nam”. Các bộ chính sử của triều Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí… đều có ghi chép về Trường Lũy.

1bg.jpg
Các nhà khoa học khảo sát Trường Lũy. Ảnh: N.T.Q

Trường Lũy được đánh giá là một trong những công trình phòng thủ dài nhất Đông Nam Á. Tuy nhiên, việc xác định chiều dài cụ thể lại có nhiều số liệu khác biệt. Sách Đại Nam thực lục chép lũy dài khoảng 117 dặm, còn Viêm Giao trưng cổ ký thì chép 177 dặm. Sự chênh lệch này có lẽ do mỗi thời điểm ghi chép, lũy lại được nối thêm hoặc tu bổ.

Hiện nay, qua khảo sát, các nhà nghiên cứu xác định chiều dài Trường Lũy cũng khác nhau. Đoàn khảo sát của Viện Viễn Đông Bác Cổ (Pháp) tại Hà Nội và Viện Khảo cổ học Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 cho biết: Lũy có thể lên đến 300 km, trong đó riêng đoạn trên đất Bình Định dài 30 km. TS Nguyễn Tiến Đông (Viện Khảo cổ học Việt Nam) ước tính chiều dài xấp xỉ 200 km… Dù con số chênh lệch nhưng có thể khẳng định độ dài của Trường Lũy ít nhất trên 100 km. Nếu tính cả các nhánh rẽ, có thể vượt 200 km. Theo hồ sơ di tích của Bảo tàng Bình Định, đoạn lũy qua Bình Định dài 14,4 km, với 19 bảo/đồn, mỗi đồn cách nhau từ 500 m đến 1.000 m. Men theo Trường Lũy, có dấu tích con đường cổ chạy song song phía Đông Lũy, là đường thiên lý Bắc – Nam trong lịch sử.

Trường Lũy là di tích kiến trúc đa dạng về chất liệu, có cấu trúc độc đáo, được xây dựng, củng cố và mở rộng trong suốt hơn 3 thế kỷ. Xét về phương diện kiến trúc xây dựng, Trường Lũy là một trong những kỳ công của người Việt. Điểm kỳ vĩ của Trường Lũy không chỉ về độ dài, mà còn ở đặc điểm quân sự – văn hóa. Đáng chú ý, lũy không phải bức tường “khóa chặt” địa bàn miền núi với miền xuôi. Lũy cắt ngang qua nhiều con sông suối và tại mỗi điểm cắt có đồn/bảo kiểm soát. Chính thiết kế này vừa ngăn quân nổi dậy tập trung tràn xuống, vừa mở lối cho giao thương hàng hóa (lâm thổ sản, muối, vải…) giữa người Việt dưới xuôi với đồng bào H’re, Ca Dong, Xơ Đăng… ở thượng du.

Giữa hai đòi hỏi cấp bách – an ninh lãnh thổ và an ninh thương mại – Trường Lũy được coi như là một thỏa hiệp. Nếu về phương diện chính trị, Trường Lũy thực sự là sáng kiến của triều đình thì về mặt xây dựng, nó là kết quả sau cuộc thương thảo giữa Lê Văn Duyệt và các thủ lĩnh người H’re, công việc xây dựng dựa vào công nghệ truyền thống và nguồn nhân lực của cả hai cộng đồng.

GS Phan Huy Lê nhận định: Trường Lũy không chỉ là một công trình phòng thủ đơn thuần mà còn mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, đó là giao thương giữa miền biển với miền núi. Các bảo/đồn vừa kiểm soát thu thuế, đồng thời cũng đảm bảo an ninh cho hệ thống giao thương. Điều đó có nghĩa đây là một công trình kiến trúc thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và có cả máu của tiền nhân.

Các nhà khoa học quốc tế và trong nước đánh giá cao về giá trị lịch sử, văn hóa của Trường Lũy. Cuối tháng 3.2011, đại sứ các nước Pháp, Ba Lan, Hungary, Anh, Hy Lạp, Italy cùng Phái đoàn Ủy ban châu Âu (EU) đã đến thăm di tích Trường Lũy. Các đại sứ, nhà nghiên cứu văn hóa đều có nhận định chung: Đây là công trình kiến trúc hết sức độc đáo, một di sản quý báu không chỉ của Việt Nam mà là của cả nhân loại.

2.

Tại hội thảo bảo tồn, phát huy di tích Trường Lũy gắn với du lịch tại Quảng Ngãi do UBND tỉnh Quảng Ngãi tổ chức ngày 6-5-2011, GS Christopher Young, Hội đồng Di sản Anh, Thành viên Hội đồng Di sản thế giới, có ý kiến: Phát triển du lịch di tích Trường Lũy sẽ tạo ra cơ hội việc làm, mang lại lợi ích kinh tế bền vững cho cư dân địa phương, thông qua dịch vụ du lịch; thúc đẩy du lịch địa phương và cả miền Trung phát triển nếu tỉnh có kế hoạch bảo tồn, quản lý và khai thác có hiệu quả. Đây là điều rất quan trọng, mang tính cốt lõi cho việc bảo tồn gắn với phát triển du lịch một cách bền vững.

2bg.jpg
Bảo tàng tỉnh phối hợp với Công ty thiết kế Bảo An khảo sát Trường Lũy La Vuông đo đạc khoanh vùng bảo vệ di tích. Ảnh: N.T.Q

Theo bà Jane Brantom – chuyên gia cao cấp về du lịch Anh, người có kinh nghiệm trong việc bảo vệ lũy Hadrian ở miền Bắc nước Anh, so với lũy Hadrian thì Trường Lũy có nhiều đoạn nguyên vẹn hơn. Việc khai thác Trường Lũy phục vụ du lịch không chỉ tạo ấn tượng tốt đẹp cho du khách về văn hóa, lịch sử của một vùng đất mà còn đem lại lợi ích lớn, tạo việc làm cho nhiều người, nhất là cộng đồng dân cư sống trong khu vực di tích. Dọc Trường Lũy có cộng đồng dân tộc H’re sinh sống nên cần phục hồi một số làng văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc để khách du lịch tham quan, tìm hiểu thêm về văn hóa, ẩm thực của người dân bản địa. Có thể đón du khách về ăn nghỉ tại nhà dân theo mô hình du lịch homestay”…

3.

Tỉnh Bình Định (cũ) đã xếp hạng 153 di tích (trong đó 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 35 di tích cấp quốc gia, 116 di tích cấp tỉnh). Với một người gắn bó với lĩnh vực này lâu năm, tôi thấy, trong hơn 150 di tích đã được xếp hạng, chỉ có chừng 10 di tích phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch. Điều đó cho ta biết rằng, không phải tất cả các di tích được xếp hạng đều có thể phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch, có di tích phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch ngay sau khi xếp hạng, tôn tạo, có di tích sẽ phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch trong tương lai và có những di tích chỉ lưu dấu sự kiện mà không thể phát huy giá trị gắn với phát triển du lịch. Bởi lẽ, để phát huy giá trị di tích gắn với phát triển du lịch, ngoài giá trị vốn có của di tích, còn phải đáp ứng những yêu cầu khác của du khách như đầu tư quy hoạch tôn tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông thuận tiện, hình thành các dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách tham quan…

them3-2.jpg
Các nhà khảo cổ học xử lý hiện trường ở lối ra vào đồn An Quang. Ảnh: N.T.Q

Năm 2024, UBND tỉnh Bình Định đã phát động cuộc thi ý tưởng thiết kế quy hoạch khu vực phát triển du lịch sinh thái La Vuông. Tháng 8-2024, TX Hoài Nhơn tổ chức Ngày hội du lịch La Vuông – Cao nguyên xanh vẫy gọi (nơi có hệ thống Trường Lũy). Đây là một cú hích nhằm giới thiệu, quảng bá vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa đất và người Hoài Nhơn, thu hút đầu tư phát triển du lịch. Nhưng tất cả đều thu lại kết quả rất hạn chế. Cho nên có thể nói, công tác bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa luôn đòi hỏi “bài toán” cân bằng giữa phát triển kinh tế và gìn giữ truyền thống.

Đến hôm nay, Trường Lũy vẫn vẹn nguyên giá trị văn hóa, lịch sử, khảo cổ, mở ra cơ hội phát triển du lịch và nghiên cứu. Quản lý, bảo tồn di tích này cũng chính là góp phần khẳng định bản sắc và chiều sâu lịch sử của vùng đất Bình Định nói riêng, cũng như Việt Nam nói chung. Phát triển du lịch thông qua bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa không chỉ thu hút, đáp ứng nhu cầu của du khách mà còn góp phần lan tỏa các giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc đến với bạn bè quốc tế.

Gialai.com.vn

Read Full Post »

Nguyễn Thanh Quang – Linh mục Gioan Võ Đình Đệ

​Paul Maheu sinh ngày 24.1.1869, tại Paris. Sau khi học xong lớp Tiểu chủng viện St. Nicolas ở Chardonnet và triết học ở Đại chủng viện Issy-les-Moulineaux, ông nhập Chủng viện MEP năm 1890 và chịu chức Linh mục ngày 30.6.1895, rồi nhận lệnh đi truyền giáo ở Đông Đàng Trong (Qui Nhơn). Năm 1930, Linh mục Maheu về Pháp, ông mất ngày 27.2.1931, yên nghỉ tại nghĩa trang Montparnasse.

Hơn 30 năm ở Việt Nam, Paul Maheu (1869 – 1931) đã không ngừng gieo những hạt giống tốt đẹp trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, bác ái xã hội: Ông là Giám đốc Nhà in Làng Sông, là người sáng lập Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn và Trại phong Qui Hòa.

Giám đốc Nhà in Làng Sông

​Paul Maheu rời Paris vào ngày 31.7.1895, xuống tàu tại cảng Marseille vào ngày 4.8.1895 đến Việt Nam. Ông học tiếng Việt tại cảng Qui Nhơn, sau đó được bổ nhiệm làm phụ tá cho Linh mục Villaume, tại Phan Rang, rồi được bổ nhiệm làm việc tại Ninh Hòa một thời gian ngắn. Sau đó do bị suy giảm sức khỏe, ông đi an dưỡng một năm ở Hồng Kông. Khi trở lại Việt Nam, ông được gửi đến vùng truyền giáo Bahnar – Kontum, bốn tháng sau, do sức khỏe suy yếu, ông phải trở lại Viện điều dưỡng Bêthanie ở Hồng Kông. Tại đây, Linh mục Maheu học vận hành máy in, đúc và sắp chữ, đóng gáy sách ở xưởng in Nazareth.

​Trở lại Việt Nam vào tháng 7.1904, Linh mục Maheu quản lý Nhà in Làng Sông. Thời gian Paul Maheu làm Giám đốc Nhà in Làng Sông từ năm 1904 đến năm 1930, là thời kỳ cực thịnh của Nhà in Làng Sông. Với người quản lý nhà in giỏi về kỹ thuật, hệ thống máy in được trang bị mới, khổ rộng và hiện đại nhất lúc bấy giờ, một số lượng sách, báo rất lớn đã được nhà in xuất bản. Trong năm 1922, Nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác, riêng Báo Lời thăm mỗi tháng hai số, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của Nhà in Làng Sông trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3.407.000 trang in.

Imprimerie de Lang Song, Imprimerie de la Mission de Qui Nhơn, Imprimerie de Qui Nhơn hoặc Librairie Imprimerie Quinhon cùng là ấn quán của giáo phận Đông Đàng Trong. Ngoài sách tiếng Latin và tiếng Pháp, Nhà in Làng Sông đã in một số lượng lớn sách Quốc ngữ đa dạng về thể loại như: Giáo lý, kinh thánh, giáo dục ấu học, trung học, truyện, tiểu thuyết, kịch, tạp chí, tuồng hát bội, lịch, sách dịch… Những ấn phẩm của Nhà in Làng Sông được thống kê trong Mémorial – Bản thông tin hàng tháng của địa phận và được tổng kết vào trang cuối năm, bằng tiếng Pháp xen với tiếng Việt (Quốc ngữ).

Một trang Mémorial thống kê sách đã in của Nhà in Làng Sông năm 1910 có 36 đầu sách, trong đó 25 đầu sách chữ Quốc ngữ, số còn lại là tiếng Pháp. Chia thành 4 nội dung: Sách trường học, sách giáo lý, sách cầu nguyện – đạo đức và các sách khác. Đáng chú ý, loại sách trường học được tái bản nhiều lần và được xếp mục đầu tiên, gồm có những đầu sách như: Phép đánh vần (tái bản lần thứ 5), Con nít học nói (tái bản lần thứ 3), Ấu học (tái bản lần thứ 3), Trung học, Địa dư Sơ lược. Ngoài ra, nhà in còn xuất bản các loại sách Quốc ngữ nâng cao dân trí, như: tiểu thuyết, tuồng hát bội, kịch nói, nông nghiệp… Đáng chú ý, quyển Hai chị em lưu lạc xuất bản năm 1927, được ghi nhận là tiểu thuyết dành cho thiếu nhi đầu tiên của văn chương Nam Trung bộ. Bản thống kê của Mémorial có ghi cụ thể giá tiền từng đầu sách.

Tháng 11 năm 1933, Nhà in Làng Sông bị bão sập. Một nhà in mới của giáo phận Đông Đàng Trong được khởi công xây dựng vào năm 1934 tại Qui Nhơn (trong khuôn viên chủng viện Qui Nhơn hiện nay). Năm 1935, Nhà in Qui Nhơn hoạt động song song với Nhà in Làng Sông (đã được tu sửa sau cơn bão). Ít lâu sau, Nhà in Làng Sông sát nhập vào Nhà in Qui Nhơn.

Ấn phẩm của Mémorial Làng Sông/Qui Nhơn ra số cuối cùng tháng 12.1953. Đến tháng 10.1957, ấn phẩm Bản thông tin địa phận Qui Nhơn bằng tiếng Việt được in tại Nhà in I – Đại, Qui Nhơn (một nhà in tư nhân) thay thế cho Mémorial bị gián đoạn trước đó. Như vậy, đến năm 1954 Nhà in Làng Sông/Qui Nhơn, sau gần một thế kỷ hoạt động đã giải thể, toàn bộ hệ thống thiết bị máy móc của nhà in chuyển vào Dòng Giuse Nha Trang.

Nhà in Làng Sông/Qui Nhơn (Bình Định) – Giáo phận Đông Đàng Trong, Nhà in Nhà Chung/Tân Định (Sài Gòn) – Giáo phận Tây Đàng Trong và Nhà in Kẻ Vĩnh/Ninh Phú (Hà Nội) – Giáo phận Tây Đàng Ngoài, là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển, truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.

Theo Maheu, “lo phần xác thì tốt nhưng chưa đủ, phải lấp đầy tri thức, làm cho nó phát triển”. Ngoài công việc in ấn, Linh mục Maheu còn có những hoạt động bác ái xã hội: thành lập Nhà tế bần tại Làng Sông dành cho người già neo đơn, nghèo khổ, bệnh tật, tổ chức một trạm y tế, dựng những túp lều tranh thu nhận những bệnh nhân nội trú. Maheu sáng lập Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn (1928), ông cùng bác sĩ Le Moine đi tìm địa điểm, vận động tài chính thiết lập Trại phong Qui Hòa (1929).

Sáng lập Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn

Linh mục Maheu đã loại bỏ những vấn đề chính trị và tôn giáo ra khỏi hai cơ sở này của ông, đây là điều đáng khâm phục nơi một vị tu sĩ. Mục đích duy nhất của ông là sự xích lại gần nhau giữa người Pháp và người Việt, giúp những con người ưu tú của hai dân tộc này hiểu nhau…

Buổi họp đầu tiên của Hội học Qui Nhơn diễn ra vào ngày 2.9 (1928), dưới sự điều hành của Linh mục Paul Maheu và Linh mục Antôn Huỳnh Ngọc Thạnh; 17 người Việt tham dự, bầu ông Nguyễn Văn Tờn là Hội trưởng. Tên của Hội là: Cercle d’études franco-annamite de Quinhon (Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn). Địa điểm của Hội là ngôi nhà thứ ba từ sở Quản lý Nhà Chung đến chợ cũ (hiện nay số 124 Trần Hưng Đạo, Trung tâm giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên Quy Nhơn).

Hội học dành cho tất cả những người Pháp và người Việt có học thức: thương nhân, công chức, thông dịch viên, giáo sư, thư ký v.v… không phân biệt tôn giáo. Các thành viên của Hội học liên kết với nhau: – Thực hiện các nghiên cứu chung về các vấn đề đạo đức, tôn giáo, khoa học, lịch sử, kinh tế và xã hội; – Thuyết trình bằng tiếng Pháp và tiếng Việt; – Họp nhau và tiêu khiển một cách thanh bạch.

Ra đời trong bối cảnh xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hội học Pháp – An Nam Qui Nhơn là một sáng kiến văn hóa lớn của Đông Dương nói chung và của Địa phận Qui Nhơn nói riêng. Ngày khai trương (10.11.1928) đã được loan tin rộng rãi trên các báo chí ở Pháp cũng như tại Đông Dương. Tờ Bulletin Catholique indochinois (của Pháp) số tháng 11 có bài tường trình về ngày khai trương này. Nhật báo Văn hóa Comaedia, số thứ Hai ngày 3.12.1928, đã đưa tin: “Từ Qui Nhơn, người ta viết cho Hãng tin Fides, rằng Cha Maheu và một người Việt tên là Thạnh vừa khai trương ở Qui Nhơn (Đông Dương) một trung tâm học hỏi đầu tiên dành cho thanh niên Việt. Có khoảng hai mươi người tham gia”.

Báo Lời Thăm của Địa phận Qui Nhơn đã tường thuật chi tiết về sự kiện trọng đại này với bài “Mầng khánh thành nhà Hội học (Cercle d’Études) Pháp Nam tại Qui Nhơn”:

“… Cuộc lễ nầy đã được mỹ mãn lắm, gần hết các người Pháp trong châu thành và những bậc thức giả tại Qui Nhơn, là các viên quan chức sắc, các ông giáo sư trường học, những nhà thương mãi lớn và mấy ông bang trưởng người Tàu đều đến dự…

Linh mục Maheu, người sáng lập Hội học đọc lời chào mầng quan khách và giới chức, mục đích của Hội: Biết nhau để hiểu rõ nhau hơn, mà hiểu rõ nhau, cho đặng mến và giúp đỡ lấy nhau. Ông Nguyễn Văn Tờn, Hội trưởng, thông ngôn tòa sứ diễn thuyết cảm ơn hết thảy đã có lòng chiếu cố, đến họp mặt đông đảo vui vầy và tỏ tấm lòng nhiệt thành cùng Hội…

Ngay từ tháng đầu tiên sau ngày khai trương, Hội đã có những hoạt động văn hóa theo tôn chỉ của Hội, đã có 3 tham luận của ông Bác sĩ, ông Gravelle (quản lý Nhà ngân hàng Đông Pháp ở Tourane) và một người Việt…

Sau một năm thành lập, Hội đã có những bước tiến triển khá thuận lợi: 117 hội viên, trong đó có 31 người Pháp, một con số đáng kể so với cư dân Pháp ở Qui Nhơn lúc bấy giờ. Một thư viện với hơn 1.200 cuốn sách (do Maheu trao tặng), Hội đặt mua hơn 100 đầu sách, và để cho các thành viên nắm bắt được tin tức của đất nước và thế giới, Hội cũng đã đặt mua 6 tạp chí và 8 nhật báo. Theo đề nghị của ông Công sứ Volny Dupuy, các lớp học tiếng Việt dành cho người Tây đã được tổ chức tại trụ sở của Hội, giáo viên đầu tiên là ông Ung Lang…

Hội là Hội học, nỗ lực chính yếu là khía cạnh trí thức. 11 cuộc Hội thảo khác nhau đã được triển khai do những người có thẩm quyền và cử tọa tham dự rất đông. Đồng thời, để cho mọi thành viên phát biểu và tham gia thảo luận, Hội đã tổ chức các buổi diễn thuyết và nói chuyện vào các ngày thứ Năm trong tuần. Hội thảo bàn về nhà ở sạch, giá rẻ và bệnh truyền nhiễm do bác sĩ Le Moine báo cáo, vì phần lớn nhà cửa người dân không đáp ứng các điều kiện vệ sinh, và ở Đông Dương hiện có sự gia tăng các căn bệnh truyền nhiễm, nhất là lao phổi… Những vấn đề xã hội khác cũng được nghiên cứu và trình bày tại trụ sở của Hội, “nơi mà tất cả mọi quan tâm chính trị hay tôn giáo phải bị loại bỏ, tất cả những phấn đấu tư lợi đều không được biết đến. Đây phải là mảnh đất thuận lợi cho việc phát triển mối tương quan trung thành và thân tình giữa hai dân tộc qua con đường thênh thang và đẹp đẽ của trí thức, vì lợi ích cho đất nước chúng ta”, lời tổng kết của ông Nguyễn Vỹ, Thư ký Hội, vào ngày 26.2.1930…

Việc truyền bá chữ Quốc ngữ cũng được cổ vũ ở đây, vì là nơi thu hút những thành phần trí thức quan tâm đến tương lai của đất nước: học sinh, giáo chức, viên chức các công sở. Hội là nơi tập trung để đọc sách báo, chơi cờ tướng, nghe diễn thuyết… Trong hai năm 1938 – 1939, Hội tổ chức liên tiếp các cuộc diễn thuyết của Nguyễn Xuân Lữ nói về tự do dân chủ, Phan Thanh nói về cải cách dân chủ và truyền bá chữ Quốc ngữ.

Đêm 21.5.1941, tại nhà Cercle Qui Nhơn (văn phòng Hội) đã tổ chức một buổi diễn thuyết do ông Trần Văn Hích, giáo sư ở Phan Thiết, nói về sự hợp tác giữa gia đình và học đường, thính giả phần đông là viên quan, quý thầy làm việc, các giáo sư và những vị tai mắt trong thành phố. Theo diễn giả: Nước nhà được mở mang tiến bộ, một phần rất lớn do sự đào tạo thanh niên. Vấn đề quan trọng này không chỉ một phụ huynh, hoặc một mình thầy, mà phụ huynh và thầy dạy phải phối hợp. Về vấn đề thể dục, diễn giả chú trọng vào những cuộc vận động không mất tiền, như tập chạy, bơi lội… Qua vấn đề trí dục, diễn giả nói phụ huynh và thầy phải cùng nhau xem xét trí tuệ đứa bé để chọn lựa nghề nghiệp phù hợp…”. Linh mục Maheu còn viết một cuốn từ vựng bỏ túi Pháp – Việt: Petit lexique de poche français-annamite, 326 trang, in tại Librairie Imprimerie Quinhon năm 1910.

Sáng lập Trại phong Qui Hòa

​Bị ảnh hưởng bởi số lượng lớn người phong cùi ở các quốc gia khác nhau của Liên minh (Đông Dương), đặc biệt ở An Nam. Vào những năm 1920, Bình Định được xác định có 360 người mắc bệnh phong, nếu tính cả những ca chưa được chẩn đoán, sống rải rác ở vùng nông thôn, thực tế có thể lên tới 1.200 ca, một con số đáng kể so với tổng số 70.000 dân của tỉnh. Năm 1929, trước tình cảnh hết sức cấp thiết, để qui tụ và chăm sóc những bệnh nhân này, Paul Maheu rời bỏ công việc in ấn rất thành công của mình cùng bác sĩ Lemoine, bác sĩ chăm lo sức khỏe cộng đồng ở Qui Nhơn, đã thành lập Laproserie de Qui Hoa – Trại phong Qui Hòa, người dân quen gọi là Làng phong Qui Hòa, cách Qui Nhơn 5km về phía Nam, tại một thung lũng bình yên vắng lặng hiếm có, được bao bọc xung quanh là núi đồi, mặt hướng ra đón gió biển. Bác sĩ Le Moine, chép: “Một buổi sáng đẹp trời, chúng tôi thấy trong một chiếc thuyền mành lỉnh kỉnh một chiếc giường gỗ, vài cái ghế, một cái bàn, một máy quay đĩa, nhiều sách, một nhà tu khổ hạnh với đôi mắt sáng ngời. Đó chính là Cha Maheu, người sẽ cống hiến cuộc đời mình cho những người phong cùi…”.

Theo địa bạ thời Gia Long (1815), Qui Hòa được ghi là khách hộ ấp (thuộc thôn Trúc Lâm), thuộc Thời Tú, huyện Tuy Viễn. Diện tích điền thổ: 115 mẫu, 01 sào, 04 thước, 03 tấc 2. Trong đó, tư điền 113 mẫu, 02 sào, 04 thước, 03 tấc 2; dân cư thổ trạch 01 mẫu, 09 sào; một khoảnh mộ địa; một khoảnh hoang nhàn thổ cát.

Quan tâm giúp đỡ cho sáng kiến, chính quyền địa phương của An Nam hứa sẽ hỗ trợ tài chính cho người sáng lập, nhưng vì nguồn vốn cung cấp không đủ, Maheu kêu gọi cộng đồng tham gia, và đã chiếm được sự ủng hộ nhiệt tình ở Đông Dương. Dự án của Maheu là thiết lập khu Trại phong, gồm: nhà nguyện dành cho nhân viên bệnh viện, phòng thăm, văn phòng, bệnh xá, khu điều trị – nơi sẽ dành cho những bệnh nhân nặng, những người bị cách ly khỏi gia đình, người được chăm sóc liên tục theo yêu cầu, và nhà ở riêng cho mỗi gia đình bị phong cùi.

Việc xây dựng chưa hoàn thành, Trại phong đã chứa 120 người phong hủi, tiếp nhận và điều trị những người phong cùi ở các tỉnh thuộc Trung phần An Nam, phòng bệnh lúc này là những ngôi nhà tranh vách đất. Bác sĩ Marcel Le Moine phụ trách chuyên môn y khoa. Một thầy thuốc Đông y có bài thuốc gia truyền chữa bệnh phong cùi cộng tác với bác sĩ. Ngoài ra, có các Nữ tu dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn giúp băng bó, lau rửa vết thương… Năm 1930, Trại phong đã có 140 bệnh nhân.

Năm 1932, để chăm sóc cho số lượng bệnh nhân ngày càng lớn, sáu nữ tu Phan Sinh người Pháp đã từ Marseille, lên đường tới Qui Nhơn. Khi đến nơi, họ vừa củng cố cơ sở vật chất, vừa chăm sóc, tắm rửa cho 180 bệnh nhân mỗi ngày. Những ngôi nhà tranh được dựng thêm để phục vụ các bệnh nhân và người nhà đến ở cùng.

Năm 1933, Trại phong bị một cơn bão tàn phá, từ những tàn tích, một cơ sở mới rộng rãi, khang trang đã được xây dựng. Khuôn viên Trại phong giờ đây có thêm nhà thờ, tu viện cùng 200 ngôi nhà cho bệnh nhân lưu trú.

Hiện nay, Khu Bệnh phong – da liễu Trung ương Qui Hòa có khoảng 1.000 nhân khẩu với gần 300 hộ gia đình, họ sống đoàn kết, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau vượt lên nỗi đau bệnh tật, một “nơi tình người bao la”. Tượng Paul Maheu được tạc đặt trang trọng trên bục cao trong cổng Bệnh viện.

Xin mượn lời của nhà văn Jacques Lê Văn Đức, đăng trong Courrier Saigonnais, 4 Mars 1931 để kết thúc bài viết:

“… Không một người Đông Dương nào mà không cảm thấy đau buồn khi biết tin Cha P. Maheu qua đời tại Paris vào ngày 27 tháng 2 năm 1931.

Ở vùng Đông Dương ai mà không biết đến con người tốt bụng này, một con người có nhiều phẩm chất cao quý nhất: lòng tốt, sự tận tâm, vị tha, nhân ái. Ngài sống chỉ để làm điều thiện, hoàn toàn quên mình trong việc hoàn thành sứ vụ tông đồ của mình. Ngài chỉ thấy mình được hạnh phúc khi thấy người khác hạnh phúc, dù người đó là ai, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt người Pháp hay người Việt. Ngài đặc biệt cống hiến hết mình cho những người nghèo khổ, thất học, bị bỏ rơi…”.

​​​​​​​​NTQ – Lm Gioan VĐĐ

Read Full Post »

Nguyễn Thanh Quang

 

Việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, công đầu được ghi nhận bởi ba nhà truyền giáo dòng Tên tại cư sở tiên khởi Nước Mặn: Francesco Buzomi (Ý), Francisco de Pina (Bồ) và Cristoforo Borri (Ý). Tuy nhiên, vai trò của Linh mục Bề trên Buzomi với chữ Quốc ngữ chưa được đánh giá khách quan, công bằng…

​Chỉ dẫn của dòng Tên khi các thừa sai đi truyền giáo, ghi cụ thể: “… Cha tìm hiểu ngôn ngữ mà các dân tộc ấy dùng để nói; nếu có nhiều ngôn ngữ, thì hãy chú ý ghi ngôn ngữ nào được sử dụng nhiều nhất, chủ yếu là trong giới bình dân. Cha tìm hiểu về chữ mà họ dùng để viết; về các chữ này, cha tìm cách hỏi những văn sĩ ưu tú mà cha gặp được, để ghi lại một bản chữ cái, kể cả những dấu nối và dấu phân câu mà họ dùng; cha cũng chú ý ghi lại bằng mẫu tự Latin tương ứng với cách phát âm, để ta có thể so sánh…”.

​Việc Latin hóa các hệ thống chữ viết không dùng mẫu tự Latin đã trở thành thông dụng và được xem như “truyền thống” của các thừa sai dòng Tên. Các thừa sai khi đến truyền giáo ở một đất nước nào, thì việc đầu tiên là học ngôn ngữ của nước đó. Muốn học ngôn ngữ bản địa, trước hết các thừa sai phải dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng nói của địa phương, đồng thời tiến hành biên soạn từ điển và ngữ pháp ngôn ngữ của đất nước đó. Các từ điển và ngữ pháp thường căn cứ theo mẫu các sách từ điển và ngữ pháp của tiếng Latin.

Dòng Tên Tỉnh dòng Nhật Bản bị chi phối bởi Bồ Đào Nha, trụ sở của dòng lúc ấy được đặt tại các lãnh địa của người Bồ ở Goa và Macau.Các nhà truyền giáo đương thời thuộc các quốc gia khác, phải được thụ huấn một thời gian trước khi lên đường đi truyền giáo. Vùng hoạt động truyền giáo của Tỉnh dòng bao gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Macau và các vùng liền kề, trong đó có Đại Việt, thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha. Nhân sự của Tỉnh dòng gồm nhiều quốc tịch, như: Ý, Pháp, Bồ, Nhật… trong đó đa số là người Bồ Đào Nha.

​Nhờ sự bảo trợ của Trần Đức Hòa, Khám lý Tuần phủ Qui Nhơn, cư sở tiên khởi của dòng Tên tại Đại Việt được thành lập tại Nước Mặn (Residentia di Pulocambi) vào Tháng 7 năm 1618. Từ năm 1618 – 1620, tại cư sở Nước Mặn có các nhà truyền giáo: Linh mục Pina (Bồ), Linh mục Borri (Ý), tu huynh Diaz (Bồ) và Linh mục Buzomi (Ý) là Bề trên của cư sở. Năm 1625, cư sở Nước Mặn của Linh mục Bề trên Buzomi có các linh mục: Gaspar Luis, Majorica và các tu huynh K’ieou, Nishi.

​Cha Bề trên Buzomi chú trọng thực hiện cụ thể Chỉ dẫn của Nhà dòng về việc tìm hiểu, học hỏi ngôn ngữ bản địa. Sử liệu dòng Tên cho biết, những năm 1618 – 1620 các thừa sai làm việc ở Nước Mặn, Đàng Trong là những người đầu tiên học và biết tiếng Việt.

​Theo Báo cáo thường niênnăm 1618, tại cư sở Nước Mặn có một thanh niên mười sáu tuổi, lanh lợi và thông minh, giỏi Hán văn, được dân làng yêu mến, là một tân tòng, tên thánh rửa tội là Phêrô. Dưới sự giám sát của cha Buzomi, anh giúp các thừa sai biên dịch sang tiếng địa phương quyển sách giáo lý gồm các kinh: Lạy Cha, Kính Mừng, Tin Kính, Mười điều răn… mà các Kitô hữu đã thuộc. Hiện nay, quyển sách giáo lý ấy chưa được tìm thấy, các nhà nghiên cứu cho rằng sách được soạn bằng chữ Nôm. Theo Linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được biên soạn bằng ngôn ngữ Đàng Trong, loại ngôn ngữ phổ thông (chữ Nôm)… Song song với việc biên soạn bằng chữ Nôm, sách cũng được phiên âm bằng mẫu tự Latin để các thừa sai được tiện dùng.

​Báo cáo thường niên năm 1619, chép: “Các thừa sai dòng Tên ở Nước Mặn là những người đầu tiên chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ hơn bất cứ điều gì khác”. Cha Buzomi thành lập một trường học tại cư sở Nước Mặn, chọn một thầy giáo xuất sắc về chữ Hán và chữ Nôm để làm việc tại trường nhằm giúp các thừa sai trong việc nghiên cứu và ghi âm tiếng Việt, hoặc dịch các tài liệu cho các thừa sai.

Ba Linh mục dòng Tên đầu tiên tại cư sở Nước Mặn được ghi nhận có những đóng góp ban đầu trong việc dùng mẫu tự Latin ghi âm tiếng Việt, sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là: Bề trên Buzomi, Pina và Borri.

+ Francisco de Pina: Đến Đàng Trong năm 1617, chết năm 1625. Pina có 8 năm truyền giáo ở Đàng Trong. Bức thư được cho là của linh mục Pina viết tại Dinh Chiêm năm 1623, bằng tiếng Bồ, xen lẫn vài cụm từ Latin, Nhật hay Mã Lai và vài tiếng Việt Nam được ghi bằng mẫu tự Latin. Pina được ghi nhận là người nói tiếng Việt giỏi nhất trong các nhà truyền giáo lúc bấy giờ.

+ Cristoforo Borri: Đến Đàng Trong năm 1618, rời Đàng Trong năm 1622. Bốn năm ở Nước Mặn, Borri đã để lại một số câu từ “Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” trong tác phẩm nổi tiếng: Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina (Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong). Ông Thanh Lãng đếm trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong tài liệu viết tay có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, mọi, càn…

+ Francesco Buzomi sinh năm 1574 tại Napoli (Ý), giáo sư thần học. Ông đến Macau năm 1608, sau đó qua Nhật. Năm 1615 đến Đại Việt, lúc đầu ông làm việc với người Công giáo Bồ ở cửa Hàn (Đà Nẵng), người Công giáo Nhật ở Hội An (Quảng Nam). Năm 1617 vào Nước Mặn, học tiếng Việt và bắt đầu truyền giáo cho người Việt. Với khả năng tổ chức tốt, ông đã sớm tìm kiếm những cộng tác viên ưu tú người Nhật, người Việt để giúp các giáo sĩ dòng Tên đến Đàng Trong học tiếng Việt. Từ năm 1618 – 1629, Linh mục Buzomi làm Bề trên cư sở Nước Mặn. Năm 1929, cùng với các thừa sai khác, Buzomi bị chúa Nguyễn trục xuất khỏi Đàng Trong, sang truyền giáo tại Cambodia (1629-1634). Năm 1934, từ Cambodia Linh mục Buzomi về Macau. Năm 1635 – 1639, Buzomi trở lại Đàng Trong với tư cách Bề trên miền truyền giáo. Năm 1639, lệnh chúa nguyễn Phước Lan trục xuất các thừ sai. Theo Linh mục Đỗ Quang Chính: “Francesco Buzomi… qua đời tại Áo Môn vì bệnh, ngày 01.7.1639”.

Linh mục Alexandre de Rhodes nhận định: cha Buzomi là vị tông đồ đích thực của Đàng Trong, người đã tận tụy lo việc truyền giáo, hoạt động trong hơn hai mươi năm với một sự kiên trì đáng được khen ngợi, ca tụng. Ngày 13.7.1626, Linh mục Buzomi viết một bức thư bằng tiếng Ý dài 4 trang gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, Bề trên cả dòng Tên. Trong thư có một số chữ Quốc ngữ được viết theo lối cách ngữ như ngày nay:

Trình độ hiểu biết sâu sắc nghĩa từ tiếng Việt và tài năng điển chế từ ngữ tiếng Việt của Linh mục Buzomi trong thư kể trên được Đỗ Quang Chính ghi nhận:

“Trong thư nầy, Buzomi tỏ ra không tán thành các từ Thiên, Thượng Đế, Thiên Chủ Thượng Đế, Ngọc Hoàng; vì không chỉ rõ Đấng Tối cao theo giáo lý Công giáo (như Thiên, Thượng Đế), hoặc chỉ một thứ tín ngưỡng đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam (Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng Thượng Đế), hoặc cụm từ có tính cách hoàn toàn Trung Hoa (Thiên Chủ Thượng Đế), nên Buzomi ngã theo cách dùng từ ngữ Thiên Chúa , vừa vắn, vừa hợp với văn hóa xã hội Việt Nam, vì hai từ Thiên và Chúa đã quá quen thuộc trong xã hội nầy”.

Linh mục Đỗ Quang Chính cũng nhận định chữ Quốc ngữ của Linh mục Buzomi tiến bộ hơn so với các giáo sĩ cùng thời, trong thư 1626: “Nhìn vào những chữ Quốc ngữ của Buzomi, mặc dầu ít, nhưng đã thấy tiến triển, nếu đem so sánh với lối viết của João Roiz, C. Borri, Đắc Lộ, Gaspar Luis và Antonio de Fontes từ năm 1626 trở về trước”.

Thế nhưng, Linh mục Đỗ Quang Chính nêu danh sách gần mười vị góp công sáng tạo chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, gồm: Francisco de Pina, Cristoforo Borri, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa, Alexandre de Rhodes, Filippo Marini, Bento Thiện, Igesico Văn Tín, mà không có tên Francesco Buzomi trong danh sách này!

Linh mục Daniello Bartoli (1608-1685) – Nhà sử học dòng Tên (cùng thời với Buzomi và Pina) nhận xét về trình độ hiểu biết tiếng Việt của Buzomi vào năm 1623 như sau: “Ngoài ra, với trí nhớ sâu sắc như một thiên tài cùng với sự nhiệt tình tuyệt vời của cha đã giúp cho cha học nhanh ngôn ngữ đó [Đàng Trong], nắm bắt tính đa nghĩa của từ, tính chất của các dấu nhấn và cung giọng được thể hiện theo ý muốn. Nhờ vậy, trong một thời gian ngắn, cha đã biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp tốt đẹp”. Bartoli còn cho biết khả năng ngôn ngữ Đàng Trong của Buzomi và Pina: “Cha Pina và cha Buzomi là những thừa sai nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của Đàng Trong, có thể thuyết giáo, trao đổi với các nhân sĩ và các vị sãi, trong các việc riêng tư hay trong nơi công hội”.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu – Linh mục Roland Jacques đưa ra nhận định: “Nhà chép sử dòng Tên Bartoli cho rằng Buzomi sáng tác một hệ thống văn phạm và ngữ vựng. Một trong những chứng lý là một bức thư viết năm 1622 mà chúng tôi không thể tìm ra. Có thể có sự lẫn lộn với Pina chăng…”!

Bức thư bằng tiếng Bồ của Pina viết tại Đàng Trong năm 1622, gửi cha Giám sát dòng Tên là Jérónimo Rodrigues “senior”, chép: “Tại Pulo Cambi [Nước Mặn], cha Buzomi có ba ông sãi làm thay cha hết mọi việc. Vì thế, nếu xảy ra chuyện gì, hoặc có công việc gì phải điều hành hay chuyển tin tức quan trọng, cha phái một thông dịch viên, hay một trong ba ông sãi… Khi giờ giáo lý kết thúc, cha ra về, còn họ thì ở lại hoặc để ôn tập, hoặc để chuyện trò với các dự tòng”.

Vai trò của Buzomi trong việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo chữ Quốc ngữ được ghi nhận khá mờ nhạt so với các nhà truyền giáo cùng thời, với lý lẽ thông thường được đưa ra là: cha Buzomi khi giao dịch hoặc giảng giáo lý cha dùng thông ngôn, nên cho rằng Buzomi không nói được tiếng Việt.

Việc Linh mục Buzomi thường xuyên sử dụng thông ngôn chứng tỏ Linh mục là người cẩn trọng, hơn nữa là một Bề trên, Buzomi còn có nhiều công việc khác. Chính Linh mục Buzomi đã cho biết trong bức thư viết vào tháng 5 năm 1622 gởi cho cha “kinh lược sứ”: “Ngôn ngữ xứ này rất khó vì ý nghĩa của nó được phân biệt bằng thanh điệu hơn là từ ngữ. Tôi bị bệnh lâu ngày và làm việc liên tục, điều đó không cho phép tôi chờ đợi qua thời gian dài. Do đó, khi dạy giáo lý, tôi luôn sử dụng thông ngôn. Tôi hỗ trợ anh ta và gợi ý cho anh ta từng bước một những gì anh ta phải nói và hướng dẫn anh ta nếu có điều gì có thể bị hiểu nhầm. Và như thế những gì anh được nói, nó có giá trị như chính tôi đã nói”.

Sử gia Bartoli đã ghi nhận: “Khi Linh mục không đủ tự tin vào khả năng ngôn ngữ của mình để rao giảng chân lý đức tin, Linh mục dùng thông ngôn, người mà trước đó đã được Linh mục đào tạo vững vàng về kiến thức đức tin để có thể giải nghĩa cho dân chúng. Trước tiên Linh mục cố gắng diễn đạt bằng ngôn ngữ của mình, sau đó thông ngôn người Đàng Trong nói lại bằng ngôn ngữ Đàng Trong của anh bằng những từ diễn đạt chính xác ý nghĩa, nói được như bản sao của bản chính”.

Linh mục Borri, một trong hai thừa sai (Borri và Pina) được cho là nói thạo tiếng Việt vào thời điểm 1620. Tuy nhiên, Borri bối rối, từ chối dạy giáo lý cho Bà vợ sứ thần được cử đi sứ Cambogia khi bà xin học giáo lý để được rửa tội trước khi lên đường. Linh mục Borri viết: “…Sau đó, tôi xin lỗi bà vì tôi không thể đáp ứng ngay lập tức ước nguyện thánh thiện và đúng đắn của bà, vì cho dù tôi đã có chút ít hiểu biết về ngôn ngữ Đàng Trong, tuy nhiên không đủ để giảng dạy những điều cao thượng và những mầu nhiệm cao cả của Kitô giáo. Vì thế, tôi xin bà nên đợi Cha Buzomi, trong một vài ngày nữa sẽ từ Đà Nẵng trở về cùng với một thông ngôn tài giỏi, nhờ đó bà sẽ được hướng dẫn thỏa đáng và sẽ làm cho bà hài lòng về ước nguyện thánh thiện của bà… Nhờ người thông ngôn này cùng với tính siêng năng, cần mẫn và chú tâm học giáo lý vào hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều trong suốt 15 ngày, bà đã học đầy đủ giáo lý của đạo thánh chúng ta. Bà cảm kích việc Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người vì yêu thương nhân loại. Sau khi được cha Buzomi giảng giải giáo lý, bà đã được rửa tội tại nhà thờ Nước Mặn cùng với hai mươi lăm người phụ nữ khác. Bà chọn thánh Ursula làm bổn mạng”. Tự thuật của Borri đã chứng minh việc Linh mục Bề trên Buzomi sử dụng thông ngôn là cần thiết; các thừa sai dù thông thạo tiếng Việt nhưng chưa đủ khả năng truyền đạt giáo lý, những chân lý về đạo cho người Việt.

Cần lưu ý, các thừa sai thường phải học ngôn ngữ của nơi đến truyền giáo là để giải tội. Việc xưng tội và giải tội là chuyện hoàn toàn “riêng tư” của người xưng tội và Linh mục giải tội, không thể có người thứ ba phiên dịch. Các Linh mục nghe hiểu người xưng tội xưng những tội gì, thì mới có thể giải tội được.

Linh mục Buzomi còn có vai trò đặc biệt đối với trường dạy Quốc ngữ đầu tiên cho các nhà truyền giáo tại Nước Mặn và là thầy dạy tiếng Việt tại Nước Mặn cho các Linh mục: Emmanuel Borgès (Bồ) và Giovanni di Leira (Ý) (đến 1622), Gaspar Luis (Bồ) và Girolamo Majorica (Ý) (đến 1624). Linh mục Girolamo Majorica là học trò của Buzomi tại Nước Mặn từ năm 1624 – 1629. Năm 1632, ông đến Đàng Ngoài, làm Bề trên giáo đoàn Đàng Ngoài, ông qua đời năm 1656 tại Thăng Long. Trong khoảng 30 năm hoạt động truyền giáo ở Đại Việt (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) ông đã khởi xướng và chủ biên tới 48 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm. Hiện nay, Thư viện Quốc gia Paris lưu trữ 15 cuốn với 4.200 trang. Mỗi trang có từ 9 đến 12 dòng, mỗi dòng có từ 30 đến 34 chữ Nôm, tổng cộng có 1.400.000 chữ. Có thể nói, Girolamo Majorica là “nhà Nôm học”, một hiện tượng độc đáo trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam, ông có một chỗ đứng thật đặc biệt, đại diện cho văn xuôi Nôm thế kỷ XVII.

Với tư cách là Bề trên, Linh mục Buzomi triển khai chỉ dẫn các thừa sai, vừa là người tổ chức, vừa là người đôn kiểm, giám sát, vừa là người đồng hành, vừa là thầy dạy tiếng Việt. Ông đã tham gia việc nghiên cứu và sáng tạo chữ Quốc ngữ một thời gian khá dài – trên 20 năm ở Đàng Trong, thời gian đầu cùng với Linh mục Pina, Linh mục Borri và một số người Việt tại Nước Mặn, thời gian sau với các Linh mục: Emmanuel Borgès,Giovanni di Leira, Gaspar Luis và Girolamo Majorica…

Linh mục Bề trên Buzomi là nhân vật số một trong buổi đầu truyền giáo của dòng Tên ở Đàng Trong. Giống như Pina và Borri, Buzomi cũng chỉ ký âm tiếng Việt, biên soạn từ vựng và luật mẹo ngữ pháp sử dụng cho riêng mình học tiếng Việt, cả ba nhà truyền giáo tiên phong chưa làm được công việc mà sau đó các giáo sĩ Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de Rhodes thực hiện, đó là biên soạn Từ điển. Thế nhưng, không thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của Linh mục Bề trên Buzomi đối với việc ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latin sáng tạo ra “chữ Quốc ngữ tiền Đắc Lộ” cùng hai giáo sĩ Pina và Borri tại cư sở tiên khởi Nước Mặn.

​​​​​​​​​​NTQ

Read Full Post »

Nguyễn Thanh Quang

.

​Tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ ở Việt Nam từ khi khởi thảo đến khi hoàn tất khoảng hai thế kỷ. Dựa vào những tư liệu hiện có, người ta đã chia ra làm bốn thời kỳ: thời kỳ phôi thai, thời kỳ hình thành, thời kỳ phát triển và thời kỳ hoàn tất. Bình Định, vinh dự là vùng đất phôi thai, sáng tạo chữ Quốc ngữ (TK XVII), truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ (TK XIX-XX), nơi “dòng sông chữ Việt” không ngừng chảy.

​Chữ Quốc ngữ ra đời từ các giáo sĩ dòng Tên trong thế giới nhà thờ Công giáo, thâm nhập vào cuộc sống, xã hội như một đột phá, một cách mạng về chữ viết, được hoàn thiện dần và trở thành chữ viết Quốc gia, vai trò quyết định là những trí thức Việt Nam, những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, các cộng đồng cư dân, là Nhà nước Việt Nam độc lập. Chữ Quốc ngữ có tác động toàn diện và rất mạnh đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam.

Từ Cư sở Nước Mặn

​Trong địa hạt tôn giáo, các miền truyền giáo tại Việt Nam được các thừa sai dòng Tên ở Macao thuộc tỉnh dòng Nhật Bản thành lập, ở Đàng Trong vào năm 1615 [1] và ở Đàng Ngoài vào năm 1627 [2].

​Đầu thế kỷ XVII, Xứ Quảng là một miền đất chung bao gồm cả Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, được coi là nơi mở đầu trang sử khai đạo chính thức ở Việt Nam. Do vậy, các học giả nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ thường cũng tính thời điểm khởi nguyên công việc sáng chế loại chữ mới này ở Việt Nam mà cụ thể là ở Đàng Trong, ở Xứ Quảng vào năm 1615, khi các nhà truyền giáo dòng Tên mở đạo ở Việt Nam và hoạt động của họ được ghi lại trong các tài liệu lưu trữ khá đầy đủ. Tuy nhiên, xét riêng về phương diện lịch sử chữ Quốc ngữ, thời điểm quan trọng nhất phải là khi thiết lập cư sở Nước Mặn, thuộc phủ Qui Nhơn (ngày nay thuộc xã Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định) vào năm 1618.

Những bản dịch các văn bản Ki-tô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618 tại cư sở Nước Mặn. Tại đây, linh mục Bề Trên Buzomi cùng Pina và Borri nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi uyên bác về chữ Hán có tên rửa tội là Phê-rô. Bản phúc trình của cư sở ghi: “Người ấy (một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền giáo) có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên lanh lợi và thông minh nhất trong vùng; anh này lại viết chữ Hán rất đẹp, được dân chúng hâm mộ vô cùng… Anh tên thánh rửa tội là Phê-rô, nhờ có tài hay chữ nên giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh Pater noster, Ave Maria, Credo và Mười Điều Răn ra tiếng địa phương…”[3].

​Trong bức thư đề ngày 17.12.1621 Gaspar Luiz chép: “Cuốn giáo lý mà người ta đã biên soạn bằng tiếng Đàng Trong, giúp ích rất nhiều, vì không những trẻ em học thuộc lòng sách đó, mà người lớn cũng học…” [4]. Theo linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được sáng tác bằng ngôn ngữ Đàng Trong [chữ Nôm]…. Ban đầu tiếng Việt được phiên âm bằng mẫu tự châu Âu để cho các thừa sai tiện dùng kèm với chữ Nôm người Việt sử dụng, dần dần bản phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự châu Âu trở thành hình thái đầu tiên ghi âm Latin hóa ngôn ngữ Việt Nam, một hình thái chữ Quốc ngữ “tiền Đắc Lộ”. Chúng ta có được một số chứng từ về những hình thái đầu tiên của việc Latin hóa trong Bản tường trình của linh mục Borri [5].

Tập sách “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” là những ghi chép của linh mục Christoforo Borri, xuất bản bằng tiếng Ý lần đầu tiên năm 1631, chữ Quốc ngữ Borri đã sử dụng trong đó là chữ Latin hoá được ông ghi chép khi ông ở Nước Mặn với hai linh mục Buzomi và Pina từ năm 1618 đến 1621. Theo tác giả Hoàng Xuân Việt: “Ông Thanh Lãng đã đếm được trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong một tài liệu viết tay, ông viết: “Có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, Macao, mọi, càn.v.v…”” [6].

​Hội An là điểm xuất phát truyền giáo buổi đầu, lập giáo đoàn tại Nước Mặn – cư sở truyền giáo tiên khởi do các linh mục Buzomi, Pina, Borri đảm nhiệm, các giáo sĩ đã đi tiên phong trong việc sáng chế ra chữ Quốc ngữ. Poulo Cambi/Qui Nhơn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ – chữ Quốc ngữ “tiền Đắc Lộ”.

Đến Nhà in Làng Sông

Ba nhà in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam: Nhà in Nhà Chung (Sài Gòn) của giáo phận Tây Đàng Trong, Nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) của giáo phận Đông Đàng Trong và Nhà in Kẻ Vĩnh (Hà Nội) của giáo phận Tây Đàng Ngoài.

Báo cáo tình hình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1872, viết năm 1873 của Giám mục Charbonnier, có ghi: giáo phận có 3 nhà thuốc và 1 nhà in [7]. Báo cáo hiện tình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1885 của Giám mục Van Camelbeck Hân, về thiệt hại nhân sự và cơ sở vật chất do Văn Thân như sau: “cơ sở vật chất bị phá hủy 17 cô nhi viện, 10 phước viện, 4 nông trại, 2 tiểu chủng viện, 2 nhà phát thuốc, 1 nhà in,…” [8].

Căn cứ các báo cáo này, nhà in Làng Sông của giáo phận Đông Đàng Trong có trước thời điểm năm 1872, bị phá hỏng năm 1885. Có thể nhà in Làng Sông được xây dựng cùng thời với nhà in Nhà Chung của giáo phận Tây Đàng Trong (1867) [9] và nhà in của giáo phận Tây Đàng Ngoài [10]. Ấn phẩm của Mémorial Làng Sông/Qui Nhơn ra số cuối cùng tháng 12.1953.

Một trang Mémorial thống kê sách đã in của nhà in Làng Sông năm 1910 có 36 đầu sách, trong đó 25 đầu sách chữ Quốc ngữ, số còn lại là tiếng Pháp. Chia thành 4 nội dung: Sách trường học, sách giáo lý, sách cầu nguyện – đạo đức và các sách khác. Sách học được xếp mục đầu tiên với những loại sách như: Phép đánh vần (tái bản lần thứ 5), Con nít học nói (tái bản lần thứ 3), Ấu học (tái bản lần thứ 3), Trung học, Địa dư Sơ lược. Bản kê có ghi giá tiền từng đầu sách.

Trong năm 1922, nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác, riêng Báo Lời thăm mỗi tháng hai số, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của nhà in Làng Sông/Qui Nhơn trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3.407.000 trang in [11].

Đáng chú ý, nhà in Làng Sông đã in nhiều loại sách của các cây bút Quốc ngữ nổi tiếng ở Nam Bộ lúc bấy giờ như: Chuyện đời xưa (tái bản lần thứ 2) của Trương Vĩnh Ký; Chuyện giải buồn (2 tập) của Pierre Lục; 30 đầu sách của Lê Văn Đức gồm nhiều thể loại: Tây hành lược Ký, Đi bắt ăn cướp (tuồng), Tìm của báu (tiểu thuyết), Chúa Hài Nhi ở thành Nadarét (kịch), Du lịch Xiêm….

Nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) cùng với Nhà in Nhà Chung (Sài Gòn), và Nhà in Kẻ Vĩnh (Hà Nội), là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển, truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.

Hệ thống Trường Quốc ngữ Đông Đàng Trong

Việc chữ Hán bị bãi bỏ trong kỳ thi cử năm 1915 ở Bắc kỳ và chấm dứt trên cả nước năm 1919 ở Trung kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi cho chữ Quốc ngữ đi vào trường học. Năm 1917, Toàn quyền Đông Dương – Albert Sarraut ký Quyết định thành lập Bộ Học chính tổng quy (Règlement général de s’Instruction publique). Năm 1924, Toàn quyền Đông Dương – Merlin ký Quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy 3 năm đầu cấp tiểu học.

Dưới thời Pháp thuộc (1924-1945), ở tỉnh lỵ và vài huyện lớn có trường Tiểu học, các tỉnh lớn có trường Sơ học hay Tiểu học dành riêng cho nữ sinh. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 2-4 trường Tiểu học, mỗi trường có từ 100 đến vài trăm học sinh. Các thành phố lớn có trường Cao đẳng tiểu học, như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Lạng Sơn (Bắc kỳ); Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Qui Nhơn (Trung kỳ); Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ (Nam kỳ).

Ở Trung kỳ có 3 trường thi Hương ở: Huế, Vinh và Bình Định, khi đặt ách đô hộ, thực dân Pháp cũng mở tại nơi này 3 trường công lập đầu tiên gọi là trường Collège. Trước năm 1920, Qui Nhơn có trường Pháp – Việt (Ecole Franco Annamite) từ lớp 5 (Cours enfantin) trở lên. Niên khóa 1921-1922, mở thêm lớp Đệ nhất niên (Cour Première année), đổi tên là Ecole plein exercice de Qui Nhơn, bắt đầu có hệ cao đẳng Tiểu học (Primaire supérieur). Sau đó, lấy tên trường Collège de Qui Nhơn, có 10 lớp cho 10 cấp học, dạy bằng tiếng Pháp, trừ môn Hán văn và Quốc văn. Trường Collège de Qui Nhơn thu nhận sĩ tử của 9 tỉnh Trung kỳ, từ Quảng Nam đến Bình Thuận và Tây Nguyên. Số thí sinh dự thi vào lớp Đệ nhất niên có đến hơn 1.000 người, nhưng trúng tuyển chỉ 50 thí sinh, trong đó có 5 thí sinh người dân tộc.

Từ năm 1910 – 1930, giáo dục Quốc ngữ được hình thành có tính chất hệ thống. Ngoài hệ thống trường công lập, còn có hệ thống trường do Giáo hội Công giáo xây dựng. Tờ Mémorial de Qui Nhơn tháng 5 năm 1924 có in bức “Thơ chung về sự thành lập trường Quấc ngữ” của Giám mục Đamianô [12]. Ngoài ra, để đôn đốc các linh mục quản xứ, Giám mục Đamianô cũng đã có “Lời riêng cùng các Cha” [13].

Theo thống kê trong Mémorial de Qui Nhơn tháng 2 năm 1927, Địa phận Đông Đàng Trong có tất cả 57 trường. Trong đó, Hội An 1 trường, Quảng Nam 4 trường, Tam Kỳ 3 trường, Bồng Sơn 8 trường, Tây Bình Định 8 trường, Đông Bình Định 15 trường, Phú Yên 2 trường, Khánh Hòa 8 trường, Phan Rang 4 trường; Bình Định, chiếm hơn một nửa số lượng trường cả địa phận: 31/57 trường. Thống kê trong Mémorial de Qui Nhơn tháng 5 năm 1928, Địa phận có 1.576 học sinh, trong đó Bình Định có 939 học sinh, chiếm gần 2/3 học sinh toàn địa phận; bình quân 30 học sinh/trường, riêng trường Gagelin, Kim Châu, Bình Định số lượng học sinh đông gấp 6 lần bình quân: 182 học sinh.

Và “Trường Thơ Loạn”

​Văn học nghệ thuật đã góp phần quan trọng trong việc truyền bá và phát triển chữ Quốc ngữ. Tiêu biểu như: Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Tự Lực Văn Đoàn, phong trào Thơ mới,…

​Phong trào thơ mới chỉ hình thành hơn mười năm (1930-1945), nhưng đã khép lại dòng văn học quy phạm, chuẩn mực. Với sự bùng nổ của ngôn từ đã đem đến một thi pháp mới, đưa thơ Việt Nam vào quỹ đạo của văn học thế giới. Nếu nói thơ mới mở ra một cuộc cách mạng trong thi ca, thì có thể xem “Trường Thơ Loạn” là hiện tượng độc đáo và bí ẩn nhất của phong trào thơ mới. Khởi nguồn của trường thơ này chính là nhóm thơ Bình Định: Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên (Long, Lân, Qui, Phụng). Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng dòng thơ ấy đã băng qua bầu trời thi ca Việt Nam như vầng sáng, vừa rực rỡ vừa kinh dị, báo hiệu sự phát triển và phá cách của thơ hiện đại [14].

Cùng với nền giáo dục Quốc ngữ, một hệ trí thức mới được sản sinh, góp phần đáng kể vào sự nghiệp chấn hưng văn hóa dân tộc. Kể từ sau năm 1945, chữ Quốc ngữ đã trở nên không thể thay thế trong công cuộc truyền bá, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa lại địa vị ngôn ngữ chính thức của Quốc gia cho tiếng Việt – chữ Quốc ngữ. Từ đó, tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng, toàn diện, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngôn ngữ thiểu số ở Việt Nam. Và Qui Nhơn/Bình Định – nơi “dòng sông chữ Việt” chảy xuyên suốt từ lúc phôi thai hình thành chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ XVII đến giai đoạn truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

​NTQ

CHÚ THÍCH:

[1] Nicola da Costa “Annua do Collegio de Macao desde Janeiro de 615 ate o outro de 616”, đề ngày 17.01.1616 tại Macao (ARSI, JAP-SIN, Vol.114, trang 1-9).

[2] Alexandre de Rhodes, Divers Voyages et Mission, Cramoisy 1653, trang 91.

[3] Báo cáo năm 1618 của Francesco Eugenio đề ngày 21.01.1619 tại Macao trong Lettere Annue Del Japonne, China, Goa, et Ethiopia, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 400-401.

[4] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Lettre du Père Gaspar Luis sur la Concincina, trang 127-128.

[5] BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 420.

[6] Hoàng Xuân Việt, Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007, tr. 125.

[7] AMEP. Donatien Éveillard (1835-1883) Fiche Individuelle, la fiche biographique, Numéro: 795.

[8] AMEP. Rapport des Évêques, Rapport n0 41, Mgr Charbonnier, Cochinchine Orientale, 1873.

[9] AMEP. Rapport n0 8, Mgr Isidore Comlombert, Cochinchine Occidentale, le 15 Octobre 1893.

[10] Giám mục Puginier. Báo cáo địa phận Tây Đàng ngoài năm 1873 có một nhà in thạch bản và hai nhà in typô (Kẻ Vĩnh, Kẻ Sở).

[11] AMEP. Rapport des Évêques, Rapport n0 553. MGR. Gallioz, Chapitre VI, Groupe des Missions de Cochinchine et du Cambodge .

[12] Xem Mission de Quinhon, Mémorial de Quinhon 1924, Imp. Làng Sông 1924, tr. 67.

[13] Xem Mission de Quinhon, Sđd, tr. 24-69.

[14] Võ Như Ngọc, Trường Thơ Loạn – Thi pháp tượng trưng đa ký hiệu, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020, tr. 20.

Read Full Post »

Nguyễn Thanh Quang

Girolamo Majorica là một trong 4 học trò đầu tiên học tiếng Việt từ linh mục Bề trên Buzomi tại Nước Mặn, ông là một trong rất ít người đầu tiên viết văn xuôi bằng chữ Nôm, được ghi nhận là người khởi xướng và chủ biên 48 cuốn sách bằng chữ Nôm.

Một số tác phẩm tiêu biểu của Girolamo Majorica. (more…)

Read Full Post »

       

            

Nguyễn Thanh Quang

Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bình Định

 

Ngày 24.8.2016, tại thị xã Điện Bàn diễn ra Hội thảo khoa học “Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ” do UBND tỉnh Quảng Nam phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Ngôn ngữ Việt Nam… tổ chức. Sau một ngày Hội thảo với nhiều ý kiến thảo luận sôi nổi, một số tồn nghi chưa được Hội thảo giải quyết rốt ráo. Thay mặt đoàn chủ trì Hội thảo, nhà sử học Dương Trung Quốc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam – người báo cáo đề dẫn và tổng kết Hội thảo – đã kết luận: “Hội thảo chưa có tổng kết …”.

sach1

(more…)

Read Full Post »

Thành Hoàng Đế là một địa điểm hai lần là kinh đô của hai tộc người, hai triều đại, trong hai thời kỳ lịch sử khác nhau. Do vậy, dù được khai quật khảo cổ nhiều lần, những tồn nghi quanh di tích này vẫn nối dài. Mới đây, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch mời Viện Khảo cổ học Việt Nam khai quật khảo cổ di tích thành Hoàng Đế lần thứ 5 với mục tiêu cụ thể: Xác định không gian “Tử thành” (thành con) để phục vụ công tác trùng tu tôn tạo.

Mô hình thành Hoàng Đế (theo tư liệu của GS. Phan Huy Lê) trưng bày ở Bảo Tàng Bình Định. Ảnh: N.T.Q

Từ 500 năm thành Đồ Bàn …

Theo thư tịch cổ, ngôi thành cổ này có rất nhiều tên gọi: Vijaya, Chà Bàn, Xà Bàn, thành Lồi, Đồ Bàn… Trong đó, tên gọi Chà Bàn được sử liệu Việt Nam ghi chép sớm nhất vào thời Lê (1403) và sử dụng nhiều nhất, một số sử liệu về sau gọi là thành Đồ Bàn. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết: “Sách Thiên Nam dư địa chí gọi là Chà Bàn, sau nhiều sách chép lầm là Đồ Bàn vì chữ Chà và chữ Đồ gần giống nhau”.

Năm thế kỷ vương quốc Champa định đô ở vùng Vijaya (TK XI-XV), chiến tranh nhiều lần chà xát khu vực này. Sau lần bị người Khơme tấn công vào cuối thế kỷ XII, kinh đô bị hủy hoại nặng nề. Đến năm 1832, để tránh cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông, người Chăm lại bỏ kinh thành chạy lên vùng thượng du. Cuộc chiến với nhà Trần và đặc biệt là nhà Lê của Đại Việt vào năm 1471 đã đưa Vijaya vào Đại Việt, thành Đồ Bàn chấm dứt vai trò lịch sử của nó với vương quốc Champa. Hiếm có kinh đô nào lại xây dựng, bị hủy hoại, rồi tu sửa, phục hồi nhiều lần như Đồ Bàn.

Về thành Đồ Bàn, thư tịch cổ cho biết: “Trong phủ có thành Đồ Bàn, là nơi vua nước Chiêm ở đó, lộng lẫy kiên cố nay dấu cũ hãy còn” (Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú); “Xã Phú Đa xưa có thành xây bằng gạch gọi là Đồ Bàn. Thành vuông mỗi bề dài một dặm, có 4 của. Trong thành có điện, có tháp. Điện đã bị đổ , tháp còn lại 2 tòa gọi là tháp con gái” (Thiên Nam tứ chi lộ đồ thư); “Thành cũ Chà Bàn ở địa phận 3 thôn: Nam Định, Bắc Thuận và Bả Canh về phía đông huyện Tuy Viễn, xưa là quốc đô của Chiêm Thành, chu vi 30 dặm, trong thành có tháp cổ, có nghê đá, voi đá đều là của người Chiêm Thành” (Đại Nam Nhất thống chí),…

Một đoạn thành ở rất gần miếu Song Trung, trong khu vực Tử Cấm thành. Ảnh: B.PHÙNG.

Đến Thành Hoàng Đế của Vương triều Thái Đức.

Khởi nghĩa Tây sơn giành thắng lợi, Nguyễn Nhạc đã chọn tòa thành cổ Đồ Bàn hơn 300 năm hoang phế để xây dựng kinh đô Vương triều Thái Đức (1778).

Sử cũ chép về Thành Hoàng Đế: “Nguyễn Nhạc nhân đất cũ của Chiêm Thành, sửa đắp thành Đồ Bàn, đào lấy đá ong thành Lũy, mở rộng cung điện” (Sách Lê Quí Dật Sử); “Tây Sơn Nguyễn Nhạc chiếm cứ thành này, nhân nền cũ xây đá ong tiến xưng là Thành Hoàng Đế” (Đại Nam Nhất Thống Chí); “Đồ Bàn có từ lâu đời, khắc phục tự nhà Trần, bị phá vỡ tự đời nhà Lê, khôi phục được từ nhà Tây Sơn, sau dần dần phá bỏ mà nay nền cũ vẫn còn…Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37, nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc năm thứ 4 bèn nhân nơi đó mà đóng đô, mở rộng cửa đông kéo dài đến 15 dặm, tường thành được đắp cao rồi xây bằng đá ong, bề cao đến 1 trượng 4 thước, bề dày 2 trượng, mở thêm 1 cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có 2 cửa, bên tả là cửa Tân Khai, bên hữu là cửa Vệ môn…phía tây thành có đắp con đê đỉnh nhĩ để phòng nước lụt, phía Tây Nam có đàn Nam Giao để tế trời đất, bên trong thành xây thêm bức thành con, chính giữa dựng điện Bát Giác…phía sau là điện Chánh Tẩm (nhà chính), trước điện Bát Giác có lầu Bát Giác; hai bên dựng hai nhà thờ, bên tả thờ tổ tiên ông Nhạc, bên hữu thờ tổ tiên bà Nhạc; trước lầu Bát Giác có cung Quyển Bồng, hai bên có dãy hành lang là nơi làm việc; trước cửa cung có cửa Tam Quan cũng gọi là cửa Quyển Bồng, hay là cửa Nam Lâu mà cửa Vệ Môn đứng ở trước mặt” (Đồ Bàn Thành Ký Nguyễn Văn Hiển).

Theo Chapman, một thương gia người Anh khi đến thăm Nguyễn Nhạc vào giữa năm 1778 viết: “Tường thành phía Đông dài nửa dặm, không thấy có đại bác, lỗ châu mai, tháp canh gì cả. Cũng không thấy có lính canh ở cổng và trên tường thành”.

Đến năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm thành Hoàng Đế đổi tên là thành Bình Định. Năm 1800, quân Tây Sơn vây thành, đến năm 1801 chịu không nổi trùng vây của quân Tây Sơn, hai tướng giữ thành của Nguyễn Ánh là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự sát.

Năm 1802, quân Tây Sơn bỏ thành ra Bắc. Khi Gia Long lên ngôi, nơi đây trở thành dinh Bình Định rồi trấn Bình Định. “Năm Gia Long thứ 7 (1808) dời đến chỗ hiện nay (thôn Kim Châu và An Ngãi), năm thứ 14 đắp bằng đất, năm thứ 16 xây bằng đá ong” (Đồ Bàn Thành Ký Nguyễn Văn Hiển). Để xây thành Bình Định, nhà Nguyễn đã dỡ lấy vật liệu đá ong từ thành Hoàng Đế và xây lăng mộ Võ Tánh ngay trên địa điểm điện Bát Giác và lầu Bát Giác.

Cuộc khai quật lần trước giúp phát lộ hồ bán nguyệt trong khu vực Tử Cấm thành. Hy vọng những cuộc khai quật tới đây sẽ cung cấp thêm nhiều cứ liệu khoa học  giúp chúng ta hình dung rõ ràng hơn về tòa thành cổ này. Ảnh: B.PHÙNG.

Những tồn nghi nối tiếp

Trải qua bao cuộc biển dâu, việc bóc tách để phân biệt đâu là thành của người Chăm, đâu là của nhà Tây Sơn và đâu là của nhà Nguyễn là vấn đề không đơn giản, do đó tồn nghi nối tiếp tồn nghi.

Năm 1986, GS Phan Huy Lê cùng một số nghiên cứu sinh Đại học Tổng Hợp Hà Nội khảo sát thực địa di tích Thành Hoàng Đế và công bố Thành Hoàng Đế gồm 3 vòng thành: Thành Ngoại, thành Nội và Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành có cấu trúc hình chữ nhật, dài 174m, rộng 126m (khuôn viên Lăng Võ Tánh hiện nay).

TS. Lê Đình Phụng – Viện khảo cổ học Việt Nam, người chủ trì 4 đợt khai quật khảo cổ thành Hoàng Đế cũng xác định thành Hoàng Đế có 3 vòng thành: thành Ngoại, thành Nội và Tử Cấm Thành. Tuy nhiên Tử Cấm Thành có chiều dài 321m. Bởi vì dấu tích thành Đông và thành Tây Tử Cấm Thành nối dài ra phía Bắc. Mặt khác, thành Bắc Tử Cấm Thành (theo GS. Phan Huy Lê) và là tường Bắc lăng Võ Tánh hiện nay, xây sau thành Đông và thành Tây vì tường Bắc xây tiếp giáp với tường Đông và Tây bằng kỹ thuật gối đầu (không câu neo), kỹ thuật xây ghép đá ong thành Bắc khác thành Đông và thành Tây. Và TS, Lê Đình Phụng xác định thành Bắc Tử Cấm Thành là bờ Bắc thành Nội theo xác định của GS. Phan Huy Lê.

Năm 2009, Viện khoa học Công nghệ xây dựng phối hợp với Ban Quản lý di tích tỉnh đào thám sát kiểm tra các thông số kỹ thuật để lập thiết kế trùng tu, kết quả cho thấy: Bờ thành Bắc Tử Cấm Thành theo công bố của TS. Lê Đình Phụng không nối với thành Đông và còn kéo dài  về phía Đông, kích thước đá ong và tường thành Bắc đều lớn hơn kích thước đá ong và tường thành Đông và Tây hiện còn.

Vừa qua, trong quá trình phục hồi tường Đông, Tây và Nam Tử Cấm Thành (theo xác định của GS. Phan Huy Lê) đã phát hiện bờ tường Nam nối với tường Đông và tường Tây cũng xây gối đầu (không câu neo) và tường Nam cũng nối dài ta ngoài tường Đông và tường Tây hiện còn, kích thước tường Nam được phục hồi theo dấu tích chân tường hiện còn, có chiều rộng nhỏ hơn tường Đông và tường Tây.

Dấu gạch nối còn in bên ngoài góc Đông Nam bờ tường Tử Cấm Thành (thành Nam Kéo dài ra phía Đông Tử Cấm thành). Ảnh: N.T.Q

Điều đáng lưu ý ở đây là tất cả các tư liệu lịch sử để lại không có tài liệu nào nói cấu trúc thành Hoàng Đế có 3 vòng thành là: thành Ngoại, thành Nội và Tử Cấm Thành. Đây là mô hình thành Bắc Kinh của Trung Quốc. Tòa thành được sơn màu tím (tử) là nơi cấm địa, nên gọi là Tử Cấm Thành.

Trong Đồ Bàn Thành Ký của Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển chép về thành Hoàng Đế như sau: “…thành nội trúc tử thành….”, tạm dịch: “bên trong thành xây thành con”. Chữ “tử” ở đây nghĩa là “con”, chứ không phải tử là “màu tím”. Trong sách: Thành Hoàng Đế – kinh đô vương triều Tây Sơn, trang 154, TS. Lê Đình Phụng viết: “Về thành Hoàng Đế qua ghi chép của sử liệu (Đồ Bàn Thành Ký) cho thấy kinh đô vương triều Tây Sơn có 3 lớp vòng thành: Thành Ngoài, thành Trong (gọi là thành Nội), và thành Con (sau này gọi là Tử Cấm Thành)”.

Qua những tư liệu lịch sử viết về thành Đồ Bàn và thành Hoàng Đế nêu trên và những phát hiện mới những năm vừa qua, trong quá trình khai quật khảo cổ và phục hồi tường thành Hoàng Đế cho thấy rằng: Công bố của GS. Phan Huy Lê và TS. Lê Đình Phụng xác định về cấu trúc cũng như không gian của 3 vòng thành Thành Hoàng Đế còn nhiều điều tồn nghi. Hy vọng những cuộc khai quật tới đây sẽ cung cấp thêm nhiều cứ liệu khoa học  giúp chúng ta hình dung rõ ràng hơn về tòa thành cổ này.

(Theo baobinhdinh.com.)

NGUYỄN THANH QUANG

Read Full Post »

  Hoài Nhơn, Quy Nhơn, Quy Ninh là địa danh qua các thời kỳ của tỉnh Bình Định ngày nay – vùng đất có nhiều gắn bó với việc ra đời và phát triển chữ Quốc ngữ, là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ. Có một điều ít người biết, một trong ba nơi có cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam thuộc về Bình Định – Nhà in Làng Sông.

 
Tiểu chủng viện Làng Sông. Ảnh: Đào Tiến Đạt

Việc cấm đạo vốn đã có từ thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, đến thời Tự Đức còn được siết lại chặt hơn. Nhưng sách vở truyền đạo vẫn tiếp tục ra đời, chữ Quốc ngữ vẫn cứ thế phát triển theo quy luật tất yếu của ngôn ngữ. Vào nửa sau thế kỷ XIX, nhu cầu của cuộc sống buộc phải có nhà in. Do đó, một số nhà in của các giáo phận được thành lập, các loại sách – bao gồm các loại kinh sách, truyện, giáo khoa… bằng chữ Quốc ngữ được in và lan truyền nhiều hơn.

Ba nhà in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam là: Nhà in Tân Định – Sài Gòn – Nhà in của giáo phận Tây Đàng Trong; nhà in Ninh Phú- Tây Đàng Ngoài (Hà Nội); để ở miền Trung, nhà in của giáo phận Đông Đàng Trong được đặt ở Tiểu chủng viện Làng Sông – ngày nay thuộc thôn Quảng Vân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

 
Trang bìa Mémorial nhà in Làng Sông, tháng 3 năm 1908.

Đi cùng sự phát triển của chữ Quốc ngữ

Nghề in đúc (typô) đầu tiên du nhập vào Việt Nam tại Sài Gòn năm 1861, tất cả máy, chữ, mực in, giấy và công nhân kỹ thuật được đưa từ Pháp sang.

Tại địa phận Tây Đàng Trong (Sài Gòn), nhà in được xây dựng năm 1865 (có tài liệu viết 1863 hoặc 1867) tại sở quản lý Nhà Chung. Đến năm 1874 thì chuyển nhà in về Tân Định. Một trong những quyển sách đầu tiên mà nhà in Sài Gòn (Tân Định) in là một cuốn sách bằng tiếng Pháp: ABC ABCD (Vần An Nam để đọc tiếng Latinh), in năm 1867 và quyển sách Quốc ngữ Bổn dạy ABCD, của D. Eveillard, in năm 1868. Ở Đàng Ngoài, ngoài Từ điển An Nam-La tinh (Dictionarium Annamatico-Latium) của J.S. Theurel, nhà in Ninh Phú, 1887, quyển sách Quốc ngữ in sớm nhất hiện còn là Bổn giảng về bảy phép cực trọng chúa Jesu đã lập, Nhà in địa phận Tây Đàng Ngoài, năm 1882. Theo Báo cáo năm 1873 của Giám mục Puginier, địa phận Tây Đàng Ngoài có một nhà in thạch bản và hai nhà in typô, một dành cho các sách Latinh, một dành cho các sách Việt Nam (Quốc ngữ).

Tiểu chủng viện Làng Sông xây dựng vào thập niên 40, thế kỷ XIX. Sau đó, Tòa giám mục và Nhà in của địa phận Đông Đàng Trong (từ Quảng Nam đến Bình Thuận và Tây Nguyên) cũng được xây dựng tại chủng viện này.

Trong Báo cáo hiện tình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1885 của Giám mục Van Camelbeck Hân, về những thiệt hại nhân sự và cơ sở vật chất có đoạn: “… hỏng 1 nhà in…”. Và Báo cáo tình hình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1873 của Giám mục Charbonnier được viết năm 1872 ghi rõ: giáo phận có 3 nhà thuốc và 1 nhà in.

Căn cứ các báo cáo này, nhà in của giáo phận Đông Đàng Trong – nhà in Làng Sông có trước thời điểm năm 1872, bị hỏng năm 1885. Và có thể nhà in Làng Sông được xây dựng cùng thời với nhà in của giáo phận Tây Đàng Trong (Sài Gòn) và nhà in của địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội). Như vậy có thể tin rằng, sự phát triển của chữ Quốc ngữ có phần đóng góp của các nhà in này rất lớn.

Năm 1904, Giám mục Damien Grangeon Mẫn cho tái thiết nhà in Làng Sông và giao cho Linh mục Paul Maheu làm giám đốc. Linh mục Paul Maheu rất thông thạo về kỹ thuật in ấn, và đây là thời kỳ cực thịnh của nhà in Làng Sông. Với hệ thống máy in mới, khổ rộng và hiện đại nhất lúc bấy giờ, một số lượng sách, báo rất lớn đã được nhà in xuất bản.

Trong năm 1922, nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác, riêng Báo Lời thăm mỗi tháng hai số, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của nhà in Làng Sông (Quy Nhơn) trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3,407 triệu trang in.

Đáng chú ý, nhà in Làng Sông đã in nhiều loại sách của các cây bút Quốc ngữ nổi tiếng ở Nam Bộ lúc bấy giờ như: Chuyện đời xưa (tái bản lần thứ 2) của Trương Vĩnh Ký; Chuyện giải buồn (2 tập) của Pierre Lục; 30 đầu sách của Lê Văn Đức (một trí thức nổi tiếng, thế hệ sau Trương Vĩnh Ký) gồm nhiều thể loại hiện còn lưu giữ ở Thư viện Quốc gia (Hà Nội): Tây hành lược Ký, Đi bắt ăn cướp (tuồng), Tìm của báu (tiểu thuyết), Chúa Hài Nhi ở thành Nadarét (kịch), Du lịch Xiêm….

Imprimerie de Làng Sông, Imprimerie de la Mission de Quy Nhơn hoặc Imprimerie de Quy Nhơn đều là tên gọi ấn quán của giáo phận Đông Đàng Trong. Ngoài sách tiếng Latinh và tiếng Pháp, nhà in Làng Sông (Quy Nhơn) đã in một số lượng lớn sách Quốc ngữ đa dạng về thể loại như: Giáo lý, kinh thánh, giáo dục ấu học, trung học, truyện, tiểu thuyết, kịch, tạp chí, tuồng, lịch, sách dịch… Những ấn phẩm của Làng Sông được thống kê trong Mémorial– Bản thông tin hàng tháng của địa phận và được tổng kết vào trang cuối năm, bằng tiếng Pháp xen với tiếng Việt (Quốc ngữ).

Một trang Mémorial thống kê sách đã in của nhà in Làng Sông năm 1910 có 36 đầu sách, trong đó 25 đầu sách chữ Quốc ngữ, số còn lại là tiếng Pháp. Chia thành 4 nội dung: Sách trường học, sách giáo lý, sách cầu nguyện – đạo đức và các sách khác. Sách học được xếp mục đầu tiên với những loại sách như: Phép đánh vần (tái bản lần thứ 5), Con nít học nói (tái bản lần thứ 3), Ấu học (tái bản lần thứ 3), Trung học, Địa dư Sơ lược. Bản kê có ghi giá tiền từng đầu sách.

Tháng 11 năm 1933, nhà in Làng Sông bị bão đánh sập. Một nhà in mới của giáo phận được khởi công xây dựng vào năm 1934 tại Quy Nhơn (trong khuôn viên chủng viện Quy Nhơn). Năm 1935, nhà in Quy Nhơn hoạt động song song với nhà in Làng Sông (đã được tu sửa sau cơn bão). Ít lâu sau, nhà in Làng Sông được sát nhập về nhà in Quy Nhơn.

 
Ấn phẩm của nhà in Làng Sông năm 1910 được thống kê trong Mémorial.

Tham gia phục vụ kháng chiến

Trong chính sách tiêu thổ kháng chiến (1946 – 1947), cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà in Quy Nhơn được tháo dỡ, chuyển về giáo xứ Nam Bình (xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước) do thầy Paul Định làm giám đốc. Tại đây, các nhà tu hành đã mở dạy kỹ thuật sắp chữ in cho đội ngũ công nhân mới. Nhà in của nhà thờ được sử dụng để in tài liệu phục vụ kháng chiến, sách giáo khoa phục vụ giáo dục.

Một thời gian sau, theo yêu cầu của kháng chiến, máy in lại được chuyển ra Đại An (xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát), rồi lên Ân Thường (xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân). Năm 1955 lại đưa về Kim Châu (thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn) và cuối cùng được chuyển vào Nha Trang năm 1957.

Trong thời gian này, nhà in này đã in ra một lượng lớn ấn phẩm phục vụ kháng chiến, sản xuất và giáo dục, không chỉ cho Bình Định mà còn cho cả các tỉnh Liên khu 5 (từ Quảng Nam đến Bình Thuận và Tây Nguyên). Rất nhiều ấn phẩm ra đời trong giai đoạn này nay còn được lưu giữ tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định như: Báo Tin Tức, Báo Dân Chúng, Bản tin, Tập san, Đặc san, thơ và sách văn, toán, lý, hóa trung học, tiểu học (sách lý và hóa của Đoàn Nhật Tấn, sách toán của Đinh Thành Chương, Việt ngữ chính tả của Nguyễn Châu, Chiều biên khu (thơ) của Nguyễn Tiểu Đào, Miền Trung khói lửa (thơ) của Nguyễn Đình …).

Mémorial Làng Sông (Quy Nhơn) – ấn phẩm của cơ sở ra số cuối cùng tháng 12.1953. Như vậy, đến năm 1954 nhà in Làng Sông – Quy Nhơn, sau gần một thế kỷ hoạt động đã giải thể, toàn bộ máy móc nhà in chuyển vào Nha Trang.

 
Bìa sách Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký in tại nhà in Làng Sông năm 1909.

Làng Sông – một địa danh lịch sử

Từ sau năm 1865, chữ Quốc ngữ được sử dụng rộng rãi trong các loại sách đạo, sách đời, riêng loại sách giáo dục chữ Quốc ngữ được in tái bản nhiều nhất. Số lượng đầu sách chữ Quốc ngữ từ năm 1865 đến những thập niên đầu thế kỷ XX lên đến hàng ngàn. Tuy nhiên, trải qua nhiều biến cố lịch sử, một số lượng lớn sách Quốc ngữ của các nhà in đầu tiên phần lớn đã thất lạc.

Hiện nay, tại Thư viện Quốc gia (Hà Nội) còn lưu giữ 241 đầu sách Quốc ngữ của nhà in Quy Nhơn (Làng Sông) như: Lưu tình (tâm lý tiểu thuyết), Nguyễn Vân Trai; Thiệt phận thuyền quyên (tiểu thuyết), Đinh Văn Sắt; Hai chị em lưu lạc (tiểu thuyết trẻ nhỏ), Pierre Lục; Nghề trồng rau, Mai Hữu Tưởng; Con nít học nói cho nhằm lễ nghi, Simon Chính; Địa dư tỉnh Phú Yên, Nguyễn Cầm; Địa dư nông học Bình Định, Bùi Văn Lăng …

Nhà in Tây Đàng Trong – Tân Định (Sài Gòn), nhà in Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), nhà in Làng Sông (Quy Nhơn) – Đông Đàng Trong là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ hậu bán thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.

Ngày nay, người ta biết đến Tiểu chủng viện Làng Sông phần lớn là ở góc độ là nơi có công trình kiến trúc đẹp, lâu đời. Rất ít người biết rằng nơi đây từng tồn tại một nhà in có nhiều đóng góp cho sự phát triển của chữ Quốc ngữ, có một đoạn rất dài đi cùng kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc.


  • Nguyễn Thanh Quang (Baobinhdinh.com)

Read Full Post »