Nguyễn Thanh Quang
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bình Định
Ngày 24.8.2016, tại thị xã Điện Bàn diễn ra Hội thảo khoa học “Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ” do UBND tỉnh Quảng Nam phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Ngôn ngữ Việt Nam… tổ chức. Sau một ngày Hội thảo với nhiều ý kiến thảo luận sôi nổi, một số tồn nghi chưa được Hội thảo giải quyết rốt ráo. Thay mặt đoàn chủ trì Hội thảo, nhà sử học Dương Trung Quốc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam – người báo cáo đề dẫn và tổng kết Hội thảo – đã kết luận: “Hội thảo chưa có tổng kết …”.
Từ việc xác định địa điểm Dinh trấn Quảng Nam
Mặc dù vị trí địa lỵ sở của Dinh trấn Quảng Nam tại Thanh Chiêm (Điện Bàn) hay tại Cần Húc (Duy Xuyên) đã được đưa ra bàn thảo từ Hội thảo khoa học về Dinh trấn Quảng Nam tổ chức tại Hội An ngày 27.8.2002, nhưng “hãy còn những ý kiến khác nhau; tạm đi đến thống nhất là lúc đầu đặt tại địa bàn thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên hiện nay, sau mới chuyển sang địa phận Thanh Chiêm, xã Điện Phương, huyện Điện Bàn (Tổng kết Hội thảo của GS. Trần Quốc Vượng), Hội thảo “Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ” vừa qua cũng đã có hai nhóm tác giả quan tâm đến vấn đề này : một nhóm chứng minh Dinh trấn Quảng Nam đặt ở địa phận huyện Duy Xuyên, một nhóm chứng minh đặt ở huyện Điện Bàn.
Tiêu biểu của nhóm tác giả xác định Dinh trấn Quảng Nam tại Duy Xuyên là PGS.TS. Ngô Văn Minh (Học viện Chính trị khu vực III). Theo ông, các danh xưng Kẻ Chiêm, Kẻ Chàm, Dinh Chiêm, Cacciam Ciam, Dinh Cham, Dinhciam, Digcham, Cacciam, Cachao, Cáchão, Cacham, Cachàm… trong các nguồn sử liệu Việt Nam và sử liệu phương Tây vào các thế kỷ XVII – XIX chỉ khẳng định đó là lỵ sở của Dinh trấn Quảng Nam, mà không chỉ rõ đó là Thanh Chiêm như cách hiểu của nhiều người. Đồng thời, PGS.TS. Ngô Văn Minh trưng dẫn một số nguồn sử liệu : Bản đồ An Nam đồ do Đặng Chung, Phó tổng binh Quảng Đông vẽ năm 1608 xác định “vị trí của lỵ sở thừa chánh Quảng Nam nằm ở phủ Thăng Hoa” (Duy Xuyên); Sách Nam Triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm viết năm 1719 cho biết : Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đặt lỵ sở Dinh Quảng Nam tại phủ Thăng Hoa; Năm 1776, Lê Quý Đôn viết Phủ biên tạp lục nói rõ : dinh Quảng Nam, tục gọi là Dinh Chiêm ở xã Cần Húc, huyện Duy Xuyên; “Đại Nam thực lục tiền biên”, Quốc sử quán triều Nguyễn viết : năm Nhâm Dần (1602), mùa thu, tháng 7, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đi chơi núi Hải Vân… liền vượt qua núi xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc; “Đại Nam nhất thống chí” (bản thời Tự Đức) chép : Lỵ sở cũ của Dinh Chiêm ở xã Cần Húc, huyện Duy Xuyên… Và đi đến kết luận : lỵ sở ban đầu của dinh Quảng Nam ở thời chúa Nguyễn được đặt tại phần đất Duy Xuyên. Còn Thanh Chiêm được chọn làm nơi đặt lỵ sở mới của dinh Quảng Nam ở thời triều Nguyễn, vào tháng 12 năm Gia Long thứ 6 (1807).
Để chứng minh và khẳng định Cachao, Cacham, Dinh Cham… chính là Thanh Chiêm ngày nay, linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng, đại diện nhóm tác giả dẫn chứng 5 bản đồ do phương Tây vẽ vào thế kỷ XVII, trên đó có ghi vị trí Cacchiam, Dinh Cham… nằm ở phía bờ Bắc sông Thu Bồn, ứng với làng Thanh Chiêm ngày nay. Và hai tác giả Đinh Trọng Tuyên – Đinh Bá Truyền cho rằng : tên gọi của vùng đất Thanh Chiêm ngày nay có nguồn gốc từ Champa à Chăom à Chàom à Kẻ Chàm à Kẻ Chiêm (Nhân Chiêm) à Thanh Chiêm à Thanh Triêm (viết theo Hán tự).
Đến linh mục Pina, “cha đẻ chữ Quốc ngữ”…
Lịch sử ra đời chữ Quốc ngữ đến nay khoảng 400 năm. Đã có một số công trình nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ, hầu hết do các linh mục thực hiện dựa trên các nguồn tư liệu lưu trữ ở các thư viện của Dòng Tên, đặc biệt thư viện của nhà chính tại Rôma. Tuy nhiên, thông tin tư liệu và nhận định của các tác giả trong các tác phẩm có những điểm không thống nhất, ngay cả trong hai tác phẩm của cùng một tác giả cũng có sử liệu không nhất quán. Phần lớn các tác giả tham luận Hội thảo Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ dựa vào một vài công trình nghiên cứu đã được xuất bản, các tác giả chưa có điều kiện tiếp cận các tài liệu nguyên bản. Để chứng minh Thanh Chiêm là miền đất khai sinh chữ Quốc ngữ và linh mục Pina là cha đẻ chữ Quốc ngữ, các tác giả có “tham luận đinh”, “giàu tính thuyết phục” của Hội thảo (theo Ban tổ chức) đã đưa ra dẫn chứng “đầu Ngô, mình Sở”, trích dẫn không đúng với tài liệu gốc, và theo TS. Trần Đức Anh Sơn: “Là người trực tiếp đọc và biên tập 69 tham luận (trừ tham luận bị sót của nhà báo Thắng Trương Điện) nên mình khá rõ “giá trị” của các tham luận. Do vậy những tham luận mình “chọn” để trình bày là những tham luận “đinh” trong các chủ đề; có những phát hiện mới (chứng cứ, tư liệu); có những kiến giải mới và quan điểm khách quan; có tính phản biện cao và có những đề xuất mà theo mình là có giá trị khoa học, đóng góp cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích Dinh trấn Thanh Chiêm, tôn vinh chữ Quốc ngữ”. Xin được nêu một số tham luận có trích dẫn sử liệu không chuẩn xác sau :
PGS.TS. Lưu Trang, Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng, với tham luận Quảng Nam – Trung tâm dạy, học tiếng Việt và ngôn ngữ các nước phương Tây đầu tiên ở nước ta thời Chúa Nguyễn đã viết : “Trong thời gian bốn tháng, Buzomi có thể truyền đạo trực tiếp bằng tiếng Việt”, và “dân Quảng Nam rất thích nghe cha Buzomi giảng bằng tiếng Việt, 10 người xin chịu phép Rửa (tội) dịp Lễ Phục Sinh năm 1615” (Kỷ yếu Hội thảo Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ, tr. 712).
Không thể trong năm 1615 (sau 4 tháng đến Quảng Nam) Buzomi có thể truyền đạo trực tiếp bằng tiếng Việt. Đây là trích dẫn không chuẩn xác.
Trong tham luận Giáo đoàn Thanh Chiêm thời kỳ sơ khai 1623-1626, linh mục Nguyễn Hai Tính, S.J. – Ts. Nguyễn Huy Hoàng, S.J., viết : “Các thừa sai khi vào Đàng Trong đầu tiên ngụ ở Hội An (Faifo), sau đó nhanh chóng hoạt động tại Quy Nhơn (Nước Mặn từ năm 1618), và năm năm sau tiếp tục thành lập cư sở ở Thanh Chiêm (1623). Trong khoảng thời gian này (1620) tại Hội An, các thừa sai đã viết một quyển sách giáo lý bằng “chữ Đàng Trong”, tức chữ Nôm…”. (Kỷ yếu Hội thảo Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ, tr. 625).
Và tham luận Khai sinh chữ Quốc ngữ (từ 1620-1659); Đồng tác giả Đinh Trọng Tuyên – Đinh Bá Truyền, khẳng định : “Tại Thanh Chiêm, Pina cùng với Phêrô, một thanh niên địa phương, đã lần đầu tiên dịch Kinh Thánh sang chữ Quốc ngữ, sự kiện này được biết qua một bản phúc trình chính thức của Francisco Eugenio, tu sĩ Dòng Tên người Ý ở Macao”. Hai tác giả kết luận: “Francisco de Pina đáng được phải tôn vinh như là người khai sinh ra chữ Quốc ngữ”. (Kỷ yếu Hội thảo Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ, tr. 340, 345).
Chúng tôi xin đưa ra một vài dẫn chứng có thể khác với những tham luận này :
– Cư sở Cacham được thành lập sau tháng 7-1625 (GASPAR LUIS, Cocincinae Missionis Annuæ Litteræ Anni 1625. ARSI, JAP-SIN 71, F. 56-71 ). Báo cáo thường niên năm 1624 do cha Manoel Fernandes viết tại Faifo (Hội An) ngày 02 tháng 7 năm 1625 gởi cho cha Nuno Mascarenhas, Bề trên của Dòng : “…Một nhà đã được lập tại Cachão, thủ phủ của chúa. Cho đến lúc nầy, chiếu theo luật của Dòng, nhà nầy không được tính vào số các nhà [Casa-Residentia/Cư sở] của Dòng, mặc dù một cha và người bạn dòng của ngài luôn ở đó. Hiện giờ, tại nhà nầy cha Francisco de Pina đang dạy ngôn ngữ cho cha Alexandre de Rhodes và cha Antonio de Fontes”. (Thư Manoel Fernandes gởi Nuno Mascarenhas, ARSI. JAP-SIN 68, tr. 11-12).
– Bản báo cáo năm 1618 của học viện Macao do Francesco Eugenio viết tại Macao ngày 21 tháng Giêng năm 1619 cho biết: cuốn sách giáo lý đầu tiên bằng ngôn ngữ địa phương được soạn tại Nước Mặn, có sự cộng tác của một thanh niên, tên thánh rửa tội là Phêrô. Và giáo sư, linh mục Roland Jacques xác định : cuốn sách bổn được làm tại Nước Mặn vào năm 1618 dưới sự giám sát của linh mục Buzomi, Bề trên cư sở Nước Mặn. Tác nhân chính của cuốn sách là linh mục Pina và một người thanh niên Việt Nam. (Roland Jacques Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha…tr. 82-85).
Trong tham luận Dinh trấn Thanh Chiêm xứng đáng là cái nôi phát triển chữ Quốc ngữ, linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng đã “điểm lại các khuôn mặt đệ tử trực tiếp được Pina hướng dẫn, ta thấy có: Girolimo Majorica để lại gần 40 tác phẩm chữ Nôm, chắc chắn phải quá rành chữ Quốc ngữ”. (Kỷ yếu Hội thảo Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ, tr. 380);
Và tham luận Vị trí, vai trò dinh trấn Thanh Chiêm đối với sự ra đời và truyền bá chữ Quốc ngữ, Thy hảo Trương Duy Hy “xoáy vào chính điểm” Thanh Chiêm, cái nôi phát minh ra chữ Quốc ngữ đã liệt kê: các vị thừa sai đến Quảng Nam hoạt động giáo vụ thời gian lâu, tiêu biểu, năm 1624: Gaspar Louis. Tác giả cho rằng: “Sau ngày bị nạn tại biển Hội An (1625), tất cả công trình nghiên cứu chữ quốc ngữ của linh mục Francisco de Pina, không thể để ngoài cư sở Thanh Chiêm, nơi đó cũng là nơi ăn ở và làm việc của A. de Rhodes, thì không còn nghi ngờ gì là những tài liệu đó được tập trung vào tay A. de Rhodes…”. Và “Thanh Chiêm còn là nơi có trường dạy chữ Quốc ngữ Việt Nam đầu tiên với duy nhất hai học trò là Alexandre de Rhodes và Antonio de Fontes gốc người phương Tây do một giáo viên người Bồ Đào Nha là Francisco de Pina giảng dạy”. (Kỷ yếu Hội thảo Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ, tr. 460, 464).
Chúng tôi cũng có đọc những tài liệu sau đây không giống với những tham luận tại Hội thảo :
– Năm 1622, sau khi gọi linh mục Borri về Macao, Bề trên đưa ba linh mục : Em. Fernández, Em. Borges (Bồ), J. Leira (Ý) và thầy Romano Niti (Nhật) vào Đàng Trong. Fernández thay Marquez ở Hải Phố, Marquez đi giúp Pina, còn hai linh mục Emmanuel Borges (Bồ) và Giovani Leira (Ý) vào Nước Mặn học tiếng Việt và tập sự với linh mục Buzomi. (Lm. Bùi Đức Sinh, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Quyển I, tr. 100). Năm 1624, lm. Gaspar Luis và lm. Girolamo Majorica vào Nước Mặn học tiếng Việt và tập sự với lm. Buzomi. (Đỗ Quang Chính, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, tr. 65-69; DANIELLO BARTOLI, Dell’ Istoria Della Compagnia Di Gesù La Cina, Terza Parte, Delle Asia, Libro Quarto, Torino 1825, tr. 61; Wikipedia, the free encyclopedia, mục từ Jerônimo Majorica; Thư Fernandes gởi cho Nuno Mascarenhas ngày 02/7/1625 tại Faifo. ARSI. JAP-SIN 68, tr. 11).
– Trong bài tựa Tự điển Việt – Bồ – La (Giáo sĩ Đắc Lộ và Tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên, Nxb Tinh Việt Văn đoàn, Sài Gòn, 1961, tr. XLIV-XLV), Nguyễn Khắc Xuyên – Phạm Đình Khiêm cho biết: giáo sĩ Đắc Lộ đã nhắc tới ba nhân vật có công trong việc biên soạn các tác phẩm của ngài, người đầu tiên Đắc Lộ nhắc tới là Pina chỉ: là người đầu tiên am tường tiếng Việt… Tiếc thay, ngày nay chúng ta không được biết gì về những bút ký của nhà truyền giáo De Pina, nếu thực ra ngài có viết. Hẳn để sử dụng riêng cho ngài, ngài đã có một phương pháp viết Quốc ngữ nào đó? Ngài có truyền cho người học trò trẻ tuổi một văn kiện nào của ngài không? Có lẽ không, theo chính lời giáo sĩ Đắc Lộ trong bài tựa kể trên.
Song hai vị khác đã được xướng danh rõ ràng, đó là giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa. Theo Đắc Lộ thì vị thứ nhất đã soạn một tự điển Việt – Bồ và vị thứ hai một tự điển Bồ – Việt.
Và Hội thảo chưa có tổng kết…
Thanh Chiêm là nơi đầu tiên khai sinh ra chữ Quốc ngữ và Giáo sĩ Francisco de Pina là cha đẻ của chữ Quốc ngữ, hai vấn đề trọng tâm được Hội thảo Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ đặt ra nhằm xác định vai trò của dinh trấn Thanh Chiêm với chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, với những tồn nghi tiêu biểu trong các tham luận “đinh” nêu trên và kết luận của GS.VS.NGND Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tại Hội thảo Bình Định với chữ Quốc ngữ tổ chức tại TP. Qui Nhơn ngày 13.01.2016 : “Chữ Quốc ngữ trong trạng thái phôi thai, ra đời sớm nhất ở ba trung tâm: Nước Mặn, Hội An và Thanh Chiêm, trong đó Nước Mặn có phần sớm hơn. Nước Mặn cũng là trung tâm học tiếng Việt hình thành sớm ở Đàng Trong. Năm 1622, giáo sĩ Emmanuel Borges, Giovanni di Leira, rồi năm 1624, giáo sĩ Gaspar Luis, Girolamo Majorica đều đến Nước Mặn học tiếng Việt”, nên nhà sử học Dương Trung Quốc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã kết luận : “Hội thảo Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ chưa có tổng kết …”.
Ngôn ngữ học giống như Toán học.. vậy. Người đã tạo ra, sáng lập, khai phá và người đã khám phá, hoàn thiện chúng đều rất trân trọng và xiển dương như nhau theo từng giai đoạn phát triển (ít hay nhiều tùy..) để cho tới tận hôm nay chúng ta nhờ đó mà có thể sử dụng và áp dụng chúng vào đời sống để mang lại tốt đẹp, thịnh vượng.. văn minh chung cho nhân loại. Đó mới là điều quan trọng để nói đến, để bàn đến..; chứ không phải nơi phát sinh đầu tiên ra chúng hay người đầu tiên sáng tạo ra chúng. Theo RB nhìn thấy ‘by’ năng lực “Thần nhãn Từ bi” thì nơi đầu tiên đã “khai phá” ra chữ Quốc ngữ là ở Gò Bồi, quê nội của RB, Phước Hòa, Tuy Phước, Bình Định. (Tin hay không là quyền của quý vị hihi).
“Alexandre de Rhodes est connu pour un dictionnaire vietnamien-latino-portugais; Il a perfectionné un script romanisé, appelé Quoc-ngu, développé par les premiers missionnaires Gaspar de Amaral et Antonio de Barbosa, et il a ajouté des marques spéciales aux lettres romaines, dénotant des tons qui, en vietnamien, indiquent le sens des mots. Son script facilitait la communication des doctrines chrétiennes aux Vietnamiens et augmentait le taux d’alphabétisation parmi la population.” (Một đoạn ngắn được trích)
Chào thân ái. Happy Father’s Day!
PS: NEVER áp dụng ‘Kinh tế thị trường’ vào một đất nước ‘Xã hội chủ nghĩa’. (Dân & Nước sẽ bị lụn bại từ bị thương đến chết nếu không may được vận dụng theo cái kiểu “hắc ám mắc dịch” này). Đây là Chân lý! Amen.
Gò Bồi quê nội có Giòng sông Mắt biếc
Phước Lý ngoại tôi có Gió biển Eo thon
Dòng ngọt mặn cứ chảy vòng theo năm tháng
Nội ngoại tôi nay đã mất hay còn?!
RB
Tôi nghĩ Bình Định nên làm một nhà lưu niệm về sự kiện này , nhà lưu niệm về nơi ra đời của chữ quốc ngữ chắc chắn cũng sẽ trở thành địa điểm du lịch văn hóa ấn tượng.
Cung cấp bạn đọc Xứ Nẫu thêm một bài viết liên quan được đăng Báo Công Giáo Dân Tộc để tiện tham khảo.
Thứ Sáu, 23 Tháng Chín, 2016 18:26
0
TỪ HAI HỘI THẢO VỀ CHỮ QUỐC NGỮ TỔ CHỨC Ở BÌNH ĐỊNH VÀ QUẢNG NAM : THỬ ĐÁNH GIÁ VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC THỪA SAI ĐẦU TIÊN TRONG VIỆC SÁNG TẠO CHỮ QUỐC NGỮ
Mặc dù, đã có nhiều cuộc Hội thảo khoa học chữ Quốc ngữ về ngôn ngữ, tuy nhiên về lịch sử chữ Quốc ngữ chưa được bàn thảo tường tận. Tháng 01/2016, tại Bình Định đã có cuộc Hội thảo “Bình Định với chữ Quốc ngữ”, chứng minh : Nước Mặn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ. Tháng 8/2016, tại Quảng Nam tổ chức Hội thảo “Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ”, đi tìm : Nguồn gốc Dinh trấn Thanh Chiêm và ông tổ chữ Quốc ngữ đó là thừa sai Francisco de Pina.
Tại hai Hội thảo trên, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận thức khác nhau…
Tại Hội thảo “Bình Định với chữ Quốc ngữ”, một số nhà nghiên cứu chứng minh: Việc linh mục Borri sử dụng một số chữ Quốc ngữ trong tác phẩm “Relatione della nuova missione delli PP. della Compagnia di Giesù al Regno della Cocincina – Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” và các Lm. Giram, Roiz, Luis sử dụng chữ Quốc ngữ trong các bản báo cáo viết tay của mình, chứng tỏ rằng : ngay từ những năm 1618 – 1620 đã có một khởi đầu hình thành chữ Quốc ngữ tại Nước Mặn, Bình Định. Và Nhà in Làng Sông / Qui Nhơn (Bình Định) – thuộc Giáo phận Đông Đàng Trong, Nhà in Nhà Chung / Tân Định (Sài Gòn) – thuộc Giáo phận Tây Đàng Trong và Nhà in Kẻ Vĩnh / Ninh Phú (Hà Nội) – thuộc Giáo phận Tây Đàng Ngoài là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển, truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. GS. Phan Huy Lê – Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã tổng kết Hội thảo: “Chữ Quốc ngữ trong trạng thái phôi thai, ra đời sớm nhất ở ba trung tâm : Nước Mặn, Hội An và Thanh Chiêm, trong đó Nước Mặn có phần sớm hơn. Nước Mặn cũng là trung tâm học tiếng Việt hình thành sớm ở Đàng Trong. Năm 1622, giáo sĩ Emmanuel Borges, Giovanni di Leira; rồi năm 1624, giáo sĩ Gaspar Luis, Girolamo Majorica đều đến Nước Mặn học tiếng Việt”.
Còn ở Hội thảo “Dinh trấn Thanh Chiêm và chữ Quốc ngữ”, những nhà nghiên cứu khác lại nhận định : Dinh trấn Thanh Chiêm là “Kinh đô” thứ hai ở Đàng Trong, nơi đầu tiên khai sinh ra chữ Quốc ngữ và xác định Francisco de Pina là cha đẻ chữ Quốc ngữ.
Tuy nhiên, sử liệu chép : Dinh trấn Quảng Nam mà các giáo sĩ gọi Dinh Quảng Nam là Ciam/Dinh Cham/Dinhciam/Digcham/Cacciam/Cachao/Cáchão/Cacham/Cachàm, không thấy sử liệu chép Dinh trấn Thanh Chiêm và các giáo sĩ không gọi Dinh Quảng Nam là Thanh Chiêm. “Chúng ta chưa tìm ra được một tài liệu nào do chính họ viết nói rõ Thanh Chiêm là nơi đặt lỵ sở dinh Quảng Nam, hay là nơi ra đời chữ Quốc ngữ” (PGS.TS. Ngô Văn Minh). Với Pina, các tham luận chỉ dẫn chứng ông là người nói giỏi tiếng Việt. Trong khi, nói giỏi tiếng Việt và biên soạn ngữ pháp tiếng Việt là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. Sau một ngày hội thảo, Nhà sử học Dương Trung Quốc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã tổng kết Hội thảo : “Hội thảo chưa có Tổng kết …”.
Từ hai cuộc Hội thảo trên, thử đánh giá vai trò của các thừa sai trong buổi đầu sáng tạo hình thành chữ Quốc ngữ :
1. Những Cư sở đầu tiên :
Cư sở (Residentia) là một loại nhà của các thừa sai Dòng Tên được Hiến pháp Dòng Tên quy định : Khu nhà lớn, có nhiều tu sĩ ở và có nhiều loại hình hoạt động tông đồ.
– Cư sở Nước Mặn thành lập 7/1618, cư sở đầu tiên của Đàng Trong [1] .
– Cư sở Hội An : cuối 1619 [2], trước chỉ là 1 cộng đoàn thuộc quyền linh mục Buzomi (thư 1618). Linh mục Pedro Marques là Bề trên tiên khởi của cư sở. Năm 1619, linh mục Marques, sau khi rửa tội được 40 Nhật kiều đã dựng cho họ một nhà nguyện [3].
– Cư sở Cacham (Dinh Chiêm) được thành lập sau tháng 7/1625 [4]. Theo bức thư báo cáo thường niên năm 1624 do linh mục Manoel Fernandes viết tại Faifo (Hội An) ngày 02 tháng 7 năm 1625 gởi cho linh mục Nuno Mascarenhas, Bề trên của Dòng thì : “…Một nhà đã được lập tại Cachão, thủ phủ của chúa. Cho đến lúc này, chiếu theo luật của Dòng, nhà này không được tính vào số các nhà [Casa-Residentia] của Dòng, mặc dù một cha và người bạn dòng của ngài luôn ở đó. Hiện giờ, tại nhà này cha Francisco de Pina đang dạy ngôn ngữ cho cha Alexandre de Rhodes và cha Antonio de Fontes” [5].
Theo báo cáo thường niên năm 1625 do linh mục Gaspar Luis viết tại Nước Mặn, đề ngày 01 tháng 01 năm 1626, tại Đàng Trong có ba cư sở : Hội An, Thanh Chiêm và Nước Mặn [6]. Như thế, theo luật Dòng, cư sở Thanh Chiêm được thành lập năm 1625, vào thời điểm sau ngày 02 tháng 7 năm 1625, tức sau ngày linh mục Manoel Fernandes viết thư báo cáo cho linh mục Nuno Mascarenhas, Bề trên của Dòng.
2. Các thừa sai đầu tiên sáng tạo chữ Quốc ngữ
Linh mục Bề Trên Francesco Buzomi (Ý) và hai cộng sự của giáo đoàn ông là Francisco de Pina (Bồ), Christoforo Borri (Ý) là ba thừa sai đầu tiên sáng tạo phôi thai chữ Quốc ngữ. Công lao của các giáo sĩ khác như Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa và nhất là Alexandre de Rhodes là ở các giai đoạn sau – giai đoạn hình thành chữ Quốc ngữ, thường được kể từ sau năm 1626.
* Linh mục Francesco Buzomi :
Đến Cửa Hàn năm 1615. Bị chúa Nguyễn trục xuất, năm 1617 Buzomi được quan trấn Qui Nhơn Trần Đức Hòa đưa vào Nước Mặn. Ông rời hẳn Đàng Trong năm 1639. Trong ba giáo sĩ đầu tiên đến Đàng Trong gồm Buzomi, Pina và Borri, Buzomi là người có thời gian ở Đàng Trong lâu nhất. Buzomi cũng là Bề Trên đầu tiên miền truyền giáo Đàng Trong từ năm 1618. Nước Mặn là Cư sở đầu tiên của các giáo sĩ Dòng Tên tại Đại Việt. Daniello Bartoli (1608-1685) – Nhà sử học Dòng Tên chép : “Linh mục Buzomi đã cố gắng nghiên cứu học hỏi, biên soạn ngữ vựng và văn phạm tiếng Đàng Trong. Và vào năm 1623, cha Pina và cha Buzomi là những thừa sai đã nắm bắt được ngôn ngữ thông dụng của Đàng Trong”. Bức thư của Buzomi viết tại Nước Mặn năm 1626, có một số chữ Quốc ngữ viết theo lối cách ngữ và có một số dấu giọng [8].
Năm 1622, sau khi gọi linh mục Borri về Macao, Bề trên đưa ba linh mục khác là Em. Fernández, Em. Borges (Bồ), J. Leira (Ý) và thầy Romano Niti (Nhật) vào Đàng Trong. Fernández thay Marquez ở Hải Phố để Marquez đi giúp Pina ở Dinh Chiêm; hai linh mục Borges và Leira vào Nước Mặn học tiếng Việt và tập sự với linh mục Buzomi. Năm 1622, tại Nước Mặn, Buzomi dạy tiếng Việt cho hai Linh mục Emmanuel Borges và Giovani Leira [9]; năm 1624, linh mục Gaspar Luis cùng linh mục Girolamo Majorica cũng vào Nước Mặn học tiếng Việt từ linh mục Buzomi [10]. Như vậy, năm 1622 tại Nước Mặn có “Trường dạy tiếng Việt” đầu tiên của các giáo sĩ Dòng Tên ở Đàng Trong.
* Linh mục Francisco de Pina :
Đến Hội An năm 1617, không may lúc này người ta đang truy đuổi các giáo sĩ “đạo ngoại”, chúa Nguyễn ban bố lệnh trục xuất các thừa sai, Pina được giáo dân Nhật kiều ở Hội An cưu mang, nuôi giấu. Sau đó, được quan trấn Qui Nhơn Trần Đức Hòa đưa vào Nước Mặn từ năm 1618 đến cuối năm 1619. Từ năm 1620 đến năm 1622, Pina đi đi về về giữa Hội An và Nước Mặn; năm 1623, Pina mua nhà ở Dinh Chiêm và năm 1625 lập Cư sở Dinh Chiêm. Ông mất năm 1625 ở Cửa Đại, táng tại Hội An [11].
Pina là giáo sĩ đầu tiên nói giỏi tiếng Việt, năm 1624 ông giảng đạo không cần thông ngôn. Ông từng soạn một tập nhỏ về chữ viết và các cung điệu về ngôn ngữ, đang bắt tay vào ngữ pháp, tuy nhiên vẫn phải nhờ người đọc để ghi ra bằng mẫu tự Bồ Đào Nha (thư Pina viết năm 1623). Năm 1624, Pina là thầy dạy tiếng Việt đầu tiên cho Alexandre de Rohdes và Antonio de Fontes tại Dinh Chiêm [12].
* Linh mục Christoforo Borri
Đến Cửa Hàn năm 1618, rồi vào ngay Nước Mặn cùng với Buzomi và Pina. Năm 1622, Borri rời Nước Mặn. Tác phẩm “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” của Borri xuất bản bằng tiếng Ý lần đầu tiên năm 1631, tại Rôma. Dầu vậy, chữ Quốc ngữ Borri đã sử dụng trong “Tường trình” là chữ Latinh hóa được ông ghi chép từ những năm ở Đàng Trong, khi ông ở Nước Mặn cùng với hai linh mục Buzomi và Pina. Trong đó, có 94 từ Quốc ngữ (ngoài tên người tên đất, chữ Quốc ngữ của Borri còn có cấu trúc câu từ 3 đến 6 từ, có 2 câu phức tạp hơn và đã viết theo lối cách ngữ…).
Dù Borri không thông thạo tiếng Việt bằng Pina, nhưng ông cũng đủ hiểu biết tiếng Việt để giảng giáo lý Kitô cho giáo dân người Việt tại Nước Mặn mà không cần phiên dịch. Chính ông là người đã cho chúng ta hiểu biết nhiều nhất về cách ký hiệu phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latinh của các thừa sai Dòng Tên khi giao tiếp với người Việt trong buổi đầu hình thành chữ Quốc ngữ. Cách ký hiệu phiên âm Latinh hóa chữ viết tiếng Việt của Borri viết từ những năm 1618-1622, nhưng giống với chữ Quốc ngữ ngày nay hơn so với chữ Quốc ngữ của Pina viết trong thư năm 1623 (người giỏi tiếng Việt nhất lúc bấy giờ) và một số nhà truyền giáo khác trong giai đoạn 1615-1626.
* Gaspar d’ Amaral và Antonio Barbosa
Gaspar d’ Amaral với cuốn “Diccionario da Lingua Annamitica” và cuốn “Diccionario anamita-portugues-latim” và Antonio Barbosa với cuốn “Diccionario portugues-anamita” (Tự điển Việt-Bồ và Tự điển Bồ-Việt). Những cuốn sách này đã bị thất lạc, chúng ta chỉ biết qua tài liệu ghi chép.
* Linh mục Alexandre de Rhodes
Alexandre de Rhodes đến Việt Nam muộn (cuối năm 1624), nhưng là giáo sĩ duy nhất ra vào nhiều thời gian ở cả hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài (Đàng Trong 7 năm, Đàng Ngoài 4 năm). Ba tác phẩm chữ Quốc ngữ của ông, in năm 1651 là “Phép giảng tám ngày”, “Văn phạm Việt ngữ” và “Từ điển Việt-Bồ-La”. Trong gần hai thế kỷ, mãi cho đến lúc xuất hiện hai cuốn từ điển “Việt-La” và “La-Việt” của Taberd năm 1838, ba tác phẩm ấy vẫn là những công trình duy nhất áp dụng hệ thống chữ viết Quốc ngữ được in.
3. Francisco de Pina là cha đẻ chữ Quốc ngữ ?
Roland Jacques trong “Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam”chép : “Theo chính lời xác nhận của linh mục Pina, ngay từ năm 1622, ông đã hoàn thành việc xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự Latinh cho thích hợp với lối phát âm và thanh điệu tiếng Việt Nam”. Nhưng bản chuyển bức thư của Pina ra Việt ngữ từ tiếng Pháp có đối chiếu bản tiếng Anh của dịch giả Trần Duy Nhiên lại khác : “Về phần con, con đã soạn một tập nhỏ về chữ viết và các cung điệu về ngôn ngữ này; con hiện đang bắt tay vào ngữ pháp. Mặc dù con cũng đã tập hợp những câu chuyện thuộc nhiều thể loại khác nhau để ghi trích dẫn của các tác giả, hầu xác định ý nghĩa của các từ ngữ và các mẹo luật ngữ pháp, nhưng cho đến giờ này con vẫn phải nhờ một người đọc để con ghi ra bằng mẫu tự Bồ Đào Nha”.
Trong bài tựa Tự điển Việt-Bồ-La, giáo sĩ Alexandre de Rhodes đã nhắc tới ba nhân vật có công trong việc biên soạn các tác phẩm của mình, nhân vật đầu tiên Rhodes nhắc tới là người thầy Pina, sau đó mới đến hai giáo sĩ Amaral và Barbosa là tác giả Tự điển Việt-Bồ và Tự điển Bồ-Việt.
Có một nhận xét cũng đáng lưu tâm :
“Pina là người đầu tiên am tường tiếng Việt. Ngài thông thạo đến nỗi ngài giảng dạy cho dân chúng trong ngôn ngữ của họ. Giáo sĩ Đắc Lộ đã được hân hạnh làm học trò của ngài, và không ngớt ca tụng, thán phục ông thầy dạy tiếng Việt cho mình. Tiếc thay, ngày nay chúng ta không được biết gì về những bút ký của nhà truyền giáo De Pina, nếu thực ra ngài có viết. Hẳn để sử dụng riêng cho ngài, ngài đã có một phương pháp viết Quốc ngữ nào đó ? Ngài có truyền cho người học trò trẻ tuổi một văn kiện nào của ngài không ? Có lẽ không, theo chính lời giáo sĩ Đắc Lộ trong bài tựa kể trên. Song hai vị khác đã được xướng danh rõ ràng, đó là giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa. Theo Đắc Lộ thì vị thứ nhất đã soạn một tự điển Việt-Bồ và vị thứ hai một tự điển Bồ-Việt” (Nguyễn Khắc Xuyên – Phạm Đình Khiêm: Giáo sĩ Đắc Lộ và Tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên, Nxb Tinh Việt Văn đoàn, Sài Gòn, 1961, tr. XLIV-XLV).
Như vậy, từ ghi chép của Pina trong bức thư năm 1623 và “lời tri ân” của A.Rhodes đối với những người giúp đỡ ông hoàn thành Tự điển Việt-Bồ-La cho chúng ta biết rằng : Pina nói thành thạo tiếng Việt. Do vậy, giống như Buzomi và Bori, Pina cũng chỉ mới tự soạn một phương pháp viết Quốc ngữ để sử dụng riêng cho mình, Pina chưa làm được công việc mà sau đó các giáo sĩ Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de Rhodes thực hiện, là biên soạn Tự điển.
Với những chứng cứ khoa học hiện biết được : “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” của Borri; Bức thư năm 1623 của Pina; Bức thư năm 1626 của Buzomi…, chúng ta có thể xác định, ba nhà truyền giáo có công đầu tiên trong việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là linh mục Bề trên Buzomi và hai linh mục trong giáo đoàn của ông là Pina và Borri, chứ không thể xác định ai là người đầu tiên duy nhất.
Nguyễn Thanh Quang
(Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Định)
_______________________________________________
[1] Lettere Annue Del Giappone, China, Goa, et Ethiopia… Generale della Compagnia di Giesù, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 392-401;
– Daniello Bartoli, Dell’ Istoria della Compagnia di Gesù La Cina, Terza parte, vol.17, Libro terzo, Torino 1825, trang 269.
[2] João Rodrigues Girão, Annua De Cochinchina De 1619, JS 71, ARSI.
[3] Daniello Bartoli, Dell’Istoria Della Compagni Di Gesù La Cina, Terza Parte, Vol. 17, Libro Terzo, Torino 1825, trang 272.
[4] GASPAR LUIS, Cocincinae Missionis Annuoe Litteroe Anni 1625. ARSI, JAP-SIN 71, F. 56-71.
[5] – Thư Linh mục Manoel Fernandes gởi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, ARSI. JAP-SIN 68, trang 11-12. Thư viết tay bằng tiếng Bồ. Linh mục Roland Jacques biên tập đoạn văn trên trong tác phẩm «Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, 2004, Định Hướng Tùng Thư , France, Tome I, chú thích số 56, trang 86-87 « và dịch sang tiếng Pháp.
[6] – Gaspar Luis, Cocincinae Missionis Annuoe Litteroe Anni 1625. ARSI, JAP-SIN 71, F. 56-71. Thư viết bằng tiếng Latinh, 30 trang khổ 20×27.
– Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sài Gòn 1972, trang 32-35.
[7] Daniello Bartoli, Dell’ Istoria Della Compagnia Di Gesù La Cina, Vol. 17, Libro Terzo, Torino 1825, trang 123-126; 328-329.
[8] Đỗ Quang Chính, Lịch sử Chữ Quốc ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sài Gòn 1972, trang 38.
[9] Bùi Đức Sinh, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Quyển I, tr. 100.
[10] – Đỗ Quang Chính, Dòng Tên trong xã hội Đại Việt, tr. 65-69;
– Daniello Bartoli, Dell’ Istoria Della Compagnia Di Gesù La Cina, Terza Parte, Delle Asia, Libro Quarto, Torino 1825, tr. 61;
– Wikipedia, the free encyclopedia, mục từ Jerônimo Majorica.
[11] Daniello Bartoli, Dell’Istoria Della Compagni Di Gesù La Cina, Libro Quarto, Torino 1825 trang 67-68 .
[12] Thư Fernandes gởi cho Nuno Mascarenhas, đề ngày 02/7/1625 tại Faifo. ARSI. JAP-SIN 68, trang 11.
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, tòa soạn sẵn sàng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng cgvdt.vn của mình. Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi rõ nguồn bên dưới: theo Báo Công giáo và Dân tộc hoặc theo cgvdt.vn.
Nhưng hình như vẫn chưa có kết luận chính thức về vụ này thì phải tác giả ơi
Để giải tỏa băn khoăn của THUY LE (và có thể của một số bạn đọc khác), xin cung cấp trích đoạn bài Tổng kết Hội thảo “Bình Định với chữ Quốc ngữ” của GS. Phan Huy Lê – Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (được đăng tải trên nhiều Tạp chí, Báo và in trong Kỷ yếu “Bình Định với chữ Quốc ngữ” Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2016).
“… tôi nghĩ rằng Bình Định trong vị trí của Dinh Quảng Nam, trong vị trí của Đàng Trong, đây là một trong 3 nơi ra đời sớm nhất chữ Quốc ngữ, cùng với Hội An, cùng với Thanh Chiêm. Nhưng về di tích mà nói, trước kia chúng tôi có về khảo sát và khai quật ở Thanh Chiêm nhưng chưa tìm thấy dấu tích, còn Hội An thì chúng ta biết rồi. Theo tôi nên đặt Nước Mặn trong quá trình phôi thai của chữ Quốc ngữ, trong đó hình thành ba vùng, ba trung tâm như vậy. Không nên chọn một trung tâm duy nhất hay một vùng duy nhất, còn mối quan hệ của 3 trung tâm này như thế nào, theo tôi Hội An là trung tâm hoạt động mậu dịch, kinh tế, vừa là nơi truyền đạo và nhất là khi các giáo sĩ gặp khó khăn người ta tìm đến Hội An để trốn tránh với sự giúp đỡ của người Nhật ở đây. Vị trí Thanh Chiêm là nơi trấn trị của Dinh Quảng Nam và Nước Mặn như đã nói. Trong 3 trung tâm này thì tôi cho rằng Nước Mặn có quyền tự hào là có phần sớm hơn, nơi phôi thai chữ Quốc ngữ sớm hơn so với Hội An và Thanh Chiêm, mà đây là giai đoạn phôi thai của chữ Quốc ngữ chứ chưa nói đến toàn bộ tiến trình phát triển của chữ Quốc ngữ. Theo tôi, Bình Định, trong đó có Nước Mặn, là một trong những địa bàn giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu phôi thai nảy nở chữ Quốc ngữ”.
Tôi thích cái kết luận này, chừng mực mà phải đạo ” Với những chứng cứ khoa học hiện biết được : “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” của Borri; Bức thư năm 1623 của Pina; Bức thư năm 1626 của Buzomi…, chúng ta có thể xác định, ba nhà truyền giáo có công đầu tiên trong việc sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là linh mục Bề trên Buzomi và hai linh mục trong giáo đoàn của ông là Pina và Borri, chứ không thể xác định ai là người đầu tiên duy nhất.”
Dù còn nhiều tranh cải nhưng đây là tài liệu hay
Watch “Đất nước mình ngộ quá phải không anh – thơ Trần Thị Lam, Nguyễn Ngọc Phong diễn ngâm” on YouTube
Thank you!
Mấy cái thằng LUẬN GIÁO này không bằng 1/3 của hậu bối Huỳnh Quốc Huy. Thành thật!
Thật ra giờ này RB vẫn còn giữ 32 accounts của facebook; 20 accounts của Twitter; 19 accounts của YouTube (lúc từ khi họ mới sanh ra đời cho đến tận ngày hôm nay hìhì); 1 account của Xứ Nẫu; 1 account Hương Xưa. Trang BinhDinh thì bỏ không, không thèm để ý tới sorry và… Để “TU TÂM DƯỠNG TÁNH” vậy. A Di Đà Phật. Thành thật!
Lương giáo mang lại NÉT ĐẸP VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG cho Việt Nam.
Phật giáo mang lại AN LẠC cho Việt Nam.
Công giáo mang lại VĂN MINH cho Việt Nam.
Và những Tôn giáo khác đều mang lại những ĐIỀU TỐT ĐẸP LỢI ÍCH cho Việt Nam.
Chỉ có “Đảng giáo” mang lại những điều GÌ GÌ cho Việt Nam thì RB thật sự “KHÔNG BIẾT”. Cái này thì phải nhờ đến tất cả giáo dân của Xứ Nẫu mách bảo dùm. Thank you!
Đặc biệt THANKs to sự “Phát minh” [Chữ Quốc Ngữ] quý báu của những bậc Tiền Bối kính yêu mà chúng con, người Việt Nam, đã có thể sử dụng (to communicate and write/ communiquer et écrire) hằng ngày và cho tới tận hôm nay RB rất hân hạnh vẫn còn dùng đến để viết nên những dòng chữ trên. Thành kính tri ân!
Đất nước Việt còn
Dân Việt còn
Đất nước Việt mất
Dân Việt mất
Ngôn ngữ là vấn đề phụ. Đất nước còn ngôn ngữ còn. Vậy thôi! Đất nước mất ngôn ngữ mất. Thật ra hiện tình hôm nay chúng ta nên lo nghĩ về ĐẤT NƯỚC là chính, chứ không phải ngôn ngữ. Sắp mất đất nước thật rồi. BUỒN! Chúc NÔ LỆ vui vẻ. Thành thật!
Dinh Trấn Quảng Nam-Thanh Chiêm[Điện Bàn}Cầu Húc[Duy Xuyên]Phủ Thăng Hoa Vị trí Hội Thảo tổ chức Hội An…Đặng Chung vẽ bản đồ An Nam.Tư liệu Lưu Trữ CHỮ QUỐC NGỮ.. Ở Thư Viện Nhà Chính tại Rôma VÀ các Thư Viện của Dòng Tên
…..Hội Thảo xong vẫn chưa TỔNG KẾT?-Thanh Chiêm Khai Sinh ”Chữ Quốc Ngữ””LINH MỤC Pina – GIÁO SĨ Đắc Lộ”???Hai Tự điển” BỒ VIỆT-VIỆT BỒ”-Pina Cha ĐẺ-Phụ tá Phêrô Chàng VIỆT TRẺ
…..Ba VỊ TRÍ-”Nước Mặn-Hội An-Thanh Chiêm”-”CHỮ QUỐC NGỮ”Khai Sinh ĐẦU TIÊN?Có phải CHÍNH”Dinh TRẤN Thanh Chiêm???Vẫn TỒN NGHI- CÂY ĐINH Thanh Chiêm???[Cho nên chưa TỔNG KẾT?]
Bài viết công phu , rất có giá trị.