– Được, ta sẽ cho cái bóng đối chất với ngươi. Ta sẽ treo cổ kẻ phản trắc! Bất kể kẻ đó là ai.
– Công bằng! Phải như vậy mới công bằng.
Đèn thắp lên, cái bóng được hắn đưa tới trước vành móng ngựa, thản nhiên đứng nghe, không chút gì lo sợ.
Cuộc đối chất bắt đầu.
Hắn nói với cái bóng:
– Ta sinh ra ngươi. Ngươi thuộc về ta!…
Cái bóng ngắt ngang:
– Không đúng! Là ông tự nghĩ, tự cho như vậy. Ông không hề sinh ra thứ gì hết. Thượng đế sinh ra tôi để làm bạn đồng hành với cuộc sống của ông thôi!
Hắn tiếp:
-Ta ở đâu ngươi phải ở đó.
– Đúng!
– Ta làm gì ngươi phải làm theo.
– Đúng!
– Ta vui ta buồn, ngươi cũng phải buồn vui theo…
– Đúng! Tôi là cái bóng của ông. Trước sau vẫn vậy. Vĩnh viễn không thay đổi.
Hắn tiếp:
– Gần đây thì khác! Ngươi không nghe lời ta nữa…
– Không đúng!
– Ngươi không theo ta, không tham dự vào bất kỳ việc gì của ta…
– Không đúng!
– Tới trong giấc ngủ, ngươi cũng không thèm chui vào ta như ngày xưa…
– Không đúng! Tôi vẫn trung thành với ông như ngày nào. Tuyệt đối trung thành. Ông không thấy, không biết, chẳng qua là ông thay đổi. Ông đã mượn áo người khác. Mượn cuộc sống người khác. Ông tình nguyện làm cái bóng của người khác, để hưởng chút vinh quang thừa thãi, chút bổng lộc thừa mứa của họ. Ông tự đánh lừa mình, không phải tôi!
– Không phải ngươi cố tình cho ta thấy, ngươi đang theo một cái hình khác sao? Đồ phản trắc!
– Không đúng! Cái hình tôi theo chính là ông ngày cũ. Chỉ có ông, chính ông đã phản bội con người mình. Chính ông mới là kẻ phản trắc!
Toà nhìn xuống hắn. Bộ quần áo đang mặc. Cái mặt nạ đang đeo. Luôn cả cử chỉ và lời nói của hắn, đều toát ra sự gian trá, bịp bợm.
Toà chỉ tay vào hắn:
– Ta đã thấy! Không cần những thứ cái bóng kể. Chỉ riêng chuyện ngươi nhẫn tâm gạt bỏ, kẻ đi theo mình suốt cuộc đời, đủ thấy ngươi là kẻ bội bạc, kẻ vô lương. Chính ngươi! Ngươi mới là kẻ phản trắc! Kẻ phải treo cổ chính là ngươi, chứ không phải cái bóng!
Mặt trời lên, pháp trường được lập. Hắn đứng trước sợi dây thòng lọng đong đưa. Tiếng trống dồn dập, báo hiệu giờ hành quyết. Hắn sợ hãi, hắn bất động! Chiếc mặt nạ trên mặt rơi xuống. Từ sau lưng hắn, cái bóng nhẹ nhàng bước lên, cho đầu vào trong vòng tròn sợi dây…
Chiều 28 Tết, thằng cháu dưới quê mang lên cho con gà nòi trống, đặng làm thịt cúng 30, đón ông bà. Nó cột 1 chưn bỏ phía sau nhà. Coi như xong, không ai quan tâm tới con gà nữa…
Sáng 29 Tết, hắn dậy sớm. Hồi này hắn hay mang mấy thứ không đâu vào giấc ngủ, chập chờn tới 3,4 giờ sáng là thức. Hắn bắc ấm nước, mở cửa nhìn ra sân sau. Con gà qua một đêm, như đã hồi sức lại sau một chuyến đi dài, đang nghiêng nghiêng cái đầu ngó hắn. Trời vừa ửng sáng. Hắn thảy cho nó nắm gạo, quay vô pha ly cà phê, thì nghe tiếng đập cánh, rồi tiếng gáy vang dội ngoài sân. Thằng cháu cũng lò mò dậy, tiếng còn ngái ngủ, nhưng vẫn không dấu được sự kinh ngạc:
– Ý!…Lạ nghen! Gáy nghe được quá chứ!
Hắn hỏi:
– Là sao?
Thằng cháu nói:
– Con này thua độ, con mua lại của trường gà! Bữa đó, con coi mình, coi chưn, coi vảy thấy ngon lành. Đem xổ với con dưới màu rõ ràng. Vậy mà thua một trận lãng nhách! Đau thấu bà cố luôn…
– Tao hỏi tiếng gáy kìa…
– Thì chắc nó cũng đau, nên thua trận đó về, tắt tiếng luôn! Giờ lên tới trên này nó gáy ngon lành, còn khí thế nữa chứ. Hay là nó biết mai phải chết, nên gáy từ giã!…
Con gà lại gáy, tiếng gáy không một chút e dè, như ngạo nghễ, như thách thức, như muốn lên tiếng về sự có mặt của mình…
Hắn lại hỏi:
– Mà sao thua?
– Cha chủ gà bán độ cậu ơi! Chả chơi chiêu. Ra trường đá thấy thiên hạ kết cái tướng gà, cáp 10 ăn 7, theo nhau nằm cửa trên. Chả ngầm bấm con gà muốn liệt, nhảy không nỗi, dính cựa liên tục. Chứ nó trên chưn, dễ gì thua! Tưởng nó bỏ gáy rồi…
Thằng cháu ngưng ngang, soạn đồ, pha thêm bình trà. Rót cho hắn một chung trước. Chậm rãi hớp một hớp cho thấm giọng rồi mới tiếp:
– Nghĩ mắc cười. Mấy con gà cũng lạ. Thấy mặt là nhào đầu vô đá nhau trối chết, tưởng tranh hùng tranh bá gì, ai dè chỉ để mua vui cho con người. Bị con người lợi dụng bày ra thành trò chơi, để móc túi nhau. Hồi xưa, ra đá, hai con gà như hai võ sĩ thượng đài. Quần nhau từng thế võ, tính toán, cân nhắc từng cái né, cái ra đòn, để thắng đối thủ. Con nào kém tài, chịu không nỗi, thua thì tơi tả chạy, cùng lắm là bị thương nằm bẹp, chứ khó chết lắm! Đá một trận, có khi ba, bốn hồi nhang, cả tiếng đồng hồ.
Thằng cháu rót trà tiếp, chép miệng, ngao ngán:
– Giờ đâu còn…Đá vậy lâu ăn lắm! Cũng bởi tính lợi, tính hại, vì đồng tiền mà ra. Chuốt cựa cho bén cũng xưa rồi. Con người mang cái ác trùm lên mình chúng. Họ gắn thêm cựa sắt, bén nhọn như con dao trong tay người. Hai con gà thản nhiên giết nhau mà không biết. Nhảy mấy cái, cựa đâm thấu tim, chết ngắc. Đá vậy mới mau ăn thua. Rồi cũng vì vậy mà sinh ra tráo trở, gian manh.
Cái thằng, bữa nay mắc chứng gì mà lý sự dữ. Hắn cười:
– Gà không biết nói, chỉ biết gáy, thì nó gáy! Còn hơn người biết nói, mà nói những lời khó nghe mới dị. Để nó đó, tao nuôi cho nó gáy chơi. Lát bây ra chợ, kiếm con khác về mần thịt thế…
Vậy là con gà được sống. Tiếng gáy đã thay đổi số phận của nó. Và rồi những ngày Tết sau đó, mỗi lần nó gáy lại như mang trả cho hắn hình ảnh của ruộng đồng, những ngày Xuân quây quần thời niên thiếu! Từng hình ảnh xưa cũ theo về. Hắn hồi hộp sờ tay lên áo, mường tượng mấy bao lì xì đỏ còn nằm yên trong túi. Hắn như nghe cười, tiếng nói của người đã khuất. Tiếng pháo râm ran, tiếng chúc tụng của người lớn như còn nguyên ở đâu đó. Tiếng reo hò, tiếng chân chạy theo nhau trên đường đê của đám bạn, xúng xính trong bộ quần áo mới. Hắn thấy gian bếp nhà đầy nhóc đồ ăn. Chơi tới chừng nào thấm mệt, chỉ cần chạy ào vô, là có khoanh bánh tét với dưa cải, hay tô cơm nguội, thịt kho hột vịt…
Ăn xong, lại bàn thờ ông Địa đốt cây nhang cầm tay, đi rảo chung quanh vườn, rình coi con gà trống nào đang hung hăng rượt đá mấy con khác, là hắn đốt tặng cho mấy viên pháo mót, nổ hoảng vía chơi…Nhiều, nhiều lắm! Mỗi lần con gà cất tiếng gáy là hắn lại nhớ tới một thứ, liên tu bất tận.
Hắn vui với tất cả những điều này…
Qua tới mùng 8 Tết, con gà không gáy nữa. Nó nằm yên, nhướng con mắt mệt mỏi nhìn hắn, khi hắn tới gần. Vết thương của trận chiến cũ đã không buông tha nó. Hắn bồng nó trên tay, vuốt ve đám lông trên lưng nó, rồi thầm thì:
Có thằng đệ, trước đi phụ xe tải cho hắn. Anh em no đói có nhau. Thân không vợ con, hắn thương thằng nhỏ như con, chỉ dạy tận tình. Dạo đó xe hiếm, toàn xe quốc doanh. Kiếm được cái bằng lái đã trần thân, có được cái xe chạy kiếm cơm là phước đức ông bà để lại! Tiền lương tháng, xí nghiệp trả, của ai nấy lấy. Xe ra tới đường là xe của hắn, hắn chịu trách nhiệm. Mất mát, hư hỏng, tai nạn…mọi thứ đều đổ lên đầu hắn. Thế nên tiền chở hàng thêm, tiền bán dầu dư, hắn muốn xử sao là chuyện của hắn, lơ xe miễn ý kiến. Hắn chia cho thằng đệ rất ít, phần của hắn cũng không hơn gì. Tới ăn nhậu hắn cũng hạn chế tối đa. Dư được đồng nào, hắn cất hết vô trong cái hộp thiếc, để bên dưới ghế ngồi. Chuyện để dành chút đỉnh phòng khi đau ốm, hay có sự cố là chuyện tất nhiên, ai cũng phải vậy, nhứt là với loại kiếm miếng ăn ngoài đường như tụi hắn. Hắn không nói ra, thằng đệ cũng chớ có mà dám hỏi. Chỉ âm thầm chịu đựng, chấp nhận thiệt thòi hơn khi có dịp tâm sự với mấy đứa đi phụ xe khác trong xí nghiệp. Hắn mặc kệ. Hiểu cũng được, mà không hiểu cũng không sao! Hắn tính rồi, chỉ cần gom đủ tiền là hắn xin cho nó vô trường lái liền, 18 tháng ăn học ở trường chứ ít ỏi gì. Ai nuôi? Ai đóng tiền học? Học xong, lấy bằng rồi, cũng phải chừa một ít để xin xỏ, để kiếm xe chạy cho bằng chị bằng em. Đi lơ miết biết chừng nào khá!…
Vậy mà, đùng một cái, thằng nhỏ xin nghỉ. Hắn tưởng nó giận hắn chuyện tiền nong, so bì ít nhiều mà đòi bỏ nghề. Cực chẳng đã, hắn mới nói chuyện để dành tiền làm gì cho nó nghe.
Thằng nhỏ ứa nước mắt, nhưng nó vẫn nói nghề xe cực quá, còn nguy hiểm, nó nhắm kham không nổi. Để nó đi kiếm nghề khác mẩn ăn.
Tự nhiên hắn thấy buồn ngang xương. Thôi kệ, nó đã muốn vậy, nghề không muốn nhận nó, giữ nó lại cái kết cuộc cũng chẳng tốt lành gì. Chữ nghĩa thằng nhỏ nhiều hơn hắn, nó còn trẻ, hy vọng đồi nghề sẽ khá hơn!…
Hôm thằng nhỏ nhận quyết đinh thôi việc của xí nghiệp, hắn nghỉ chạy, dẹp xe. Thằng nhỏ lấy nước rửa, rồi rị mọ lau từng ngóc ngách trong xe, như để nói lời chia tay. Hắn mặc kệ cho nó làm. Chiều lại, đợi nó lau xong, hắn mở tấm nệm ghế ngồi, lôi cái hộp thiếc đựng tiền để dành cầm theo, trước khi ra quán nhậu quen. Hắn nói với nó:
– Bữa nay mày có quyền uống thoải mái, sức uống được bao nhiêu cứ uống!
Cái tưởng chừng như đơn giản này lại là thứ tối kỵ trước đây, hắn luôn nhắc và không cho phép nó hay chính mình được làm.
Thằng đệ ngồi uống, hắn lấy tiền trong hộp thiếc ra đếm, cẩn thận từng tờ một.
Bỏ lại vô hộp một ít, còn bao nhiêu hắn đưa hết qua phía nó:
– Tiền của xe để lại. Tiền này trước để dành lo cho mày vô trường lái. Giờ không cần nữa. Nó là của mày, cầm lấy làm vốn. Khi nào rảnh nhớ ghé về thăm tao là được…
Sau bữa đó, thằng đệ đi biệt, không tin không tức gì. Hắn và chiếc xe vẫn tiếp tục cuộc sống thường nhật của mình. Xí nghiệp đưa đứa khác theo phụ, hắn lắc đầu không cần, mình hắn cân hết. Hắn bắt đầu uống rượu nhiều hơn. Sống hoang đàng hơn, tiền bỏ vô hộp thiếc để dành cũng thưa dần, thậm chí nhiều khi không bỏ luôn. Có quái gì phải lo nữa đâu!
Mới đó mà gần 20 năm. Hắn cũng đã mấy lần thay xe khác, cái hộp thiếc vẫn đi theo và nằm đúng vô chỗ của nó. Rồi cũng tới tuổi hưu. Ngày hắn giao xe cho xí nghiệp để nghỉ. Anh em xe hùn lại mua tặng hắn cái điện thoại di động, cho dễ liên lạc. Hắn nhận, cười:
– Có nhậu nhớ a-lô nghen!
Chỉ có vậy. Hắn rời nơi đã gắn bó với gần hết cuộc đời mình nhẹ tênh. Mỗi bộ đồ và cái hộp thiếc đi theo…
Nghỉ lại thì lúc trước thằng đệ cũng có cái lý của nó. Nghề xe coi vậy chứ bạc lắm. Buông xe ra, bước xuống đất, là huề trớt. Cái kiếm được trên đường trả lại cho đường sạch nhách. Cái vô-lăng tròn vo, xoay tới xoay lui, buông ra cũng trở về như cũ, y chang như cuộc đời cầm lái của hắn vậy. Có cha tài xế nào mà về chiều có của ăn của để đâu!…
Gần Tết, buổi sáng trời trở lạnh. Hắn ho sù sụ, ngực rát rạt. Bao nhiêu sức lực phung phí từ hồi còn ôm xe, cộng với mấy đợt covid, làm hắn xuống thấy rõ.
Điện thoại reng. Hắn giật mình khi nghe tiếng thằng đệ:
– A lô! Ông thầy khỏe không?
– Trời đất! Khoẻ!…Khoẻ!…Mày đang ở đâu? Sao…Sao biết số của tao?
– Dễ ẹt! Điện hỏi xí nghiệp chứ đâu! Tui ở xa lắm, Móng Cái lận, tuốt gần biên giới. Để đó nói sau đi. Ông thầy bắn cái tài khoản qua đây, tui gửi ít tiền xài tết!…
– Cái…Cái gì?…Số tài khoản hả? Tao làm gì có cái đó! Hồi nào tới giờ có xài gì tới nó đâu?…
– Lạc hậu thiệt chứ! Thôi bắn cái số chứng minh với cái số nhà cho tui cũng được, tui gửi bưu điện cho, ra đó lãnh nha!…
Chưa kịp hỏi thêm thì nó đã tắt máy. Chiều 23 Tết, hắn ôm cục tiền cúa nó gửi, mới lãnh ở bưu điện về. Nhiều, nhiều quá, tới mấy chục triệu! Hắn mở nắp cái hộp thiếc, ngó mấy đồng bạc ít ỏi còn lại, rồi bỏ luôn cọc tiền vô đó.
Ngoài đường xôn xao chợ búa. Người ta đang mua sắm đón Tết.
Hắn rót cho mình ly rượu, uống khan. Hơi rượu xộc lên mũi, hắn nghe hai mắt cay xè. Hắn nhớ tới những cái Tết trên đường, những lúc xe giao hàng xong không về kịp. Nhứt là cái lần có thằng nhỏ. Chiều 30, tấp xe vô chân đèo. Con đường vắng thấy sợ. Giờ này có mấy ai ra đường. Cúng xe xong, thì trời sụp tối. Xe trống, hai thầy trò leo lên thùng xe ngồi ăn. Thằng nhỏ bất ngờ lôi ra chai rượu tây, có hiệu đàng hoàng, không biết nó mua hồi nào. Hắn buột miệng:
– Sang dữ bây!…
Nó cười:
– Kệ, Tết mà…Thà trâu bò đạp chết, chứ để ruồi muỗi cắn chết đau lắm ông thầy ơi!…
Lần đầu tiên trong đời, hắn kể cho người khác nghe, chuyện một đứa nhỏ mồ côi, lê lết ở bến xe cho tới ngày làm tài xế như thế nào. Thằng nhỏ nắm lấy bàn tay chai sần của hắn, đặt cái ly rượu lên đó. Hắn hỏi:
– Còn mày, sao không chịu học hành, theo nghề này chi?
– Tui khác! Tui có cha mẹ anh em, có nhà cửa, có đi học. Cái gì cũng có! Cái có nhiều nhứt là cái nghèo! Mà nghèo hoài chịu sao thấu!…
Hắn bật cười. Hắn thấy vui với cái cách nói chuyện văn chương của thằng đệ. Chai rượu có bao nhiêu đâu mà đêm đó hắn say quắc…
Hắn cầm cái hộp thiếc đầy tiên lên ngắm nghía. Lớp sơn bên ngoài tróc gần hết, dễ chừng nó theo hắn mấy chục năm rồi còn gì. Hắn lại cầm cọc tiền lên tay. Bất chợt hắn nói như nói với cái hộp:
– Mày thấy đó! Má! Tao cần nó vác cái mặt về thăm tao, chứ cần chó gì cái thứ này…
Chất xong mấy cây mai, cho quá giang xe tải về trồng lại. Ba Đực thở phào. Mai năm nay đẹp, giá lại thấp hơn năm ngoái, vậy mà ít khách. Chắc năm rồi làm ăn khó, người ta để tiền, mua những thứ cần thiết hơn cho ba ngày Tết. Tánh Ba Đực ngang, đói thì chịu, nhứt định không phá gía! Công lao cực khổ cả năm trời, bán đổ bán tháo lão xót, thà đem về dưỡng cho năm sau…
Đã quá trưa 30, chợ bắt đầu thưa người. Ba Đực đứng tần ngần ngắm hai cây mai đẹp nhứt để lại, hy vọng từ giờ tới chiều, có người mua, vớt cú chót rồi về. Lão lẩm nhẩm hát, bài hát lão thích nhứt hồi trẻ: “Nếu mai không nở, anh đâu biết xuân về hay chưa…”*
Có mai nở là có mùa xuân. Thấy mai là thấy Tết. Ba Đực nhớ những ngày ở rừng. Những ngày ở gần cái chết. Sự sống ở màu vàng mai, làm thoát ra khỏi cái u ám, cái tối tăm đe doạ của bạt ngàn cây lá. Mai không có mùi thơm. Mai mang mùi bình yên, mùi của sự sống. Cái mùi làm cho buổi sớm thanh thản, nhẹ nhàng hơn. Ba Đực không ngửi mà cảm thấy rất rõ, sau mỗi phiên gác đêm, trong cái chòi nhỏ ven rừng. Mùi mai trong gió, trong hơi thở của rừng. Ba Đực mang theo, làm thành cái nghề mới.
Tiếng con Lành phía sau:
– Dọn sớm vậy cậu Ba?
– Ừa, sớm gì nữa, cho nó đỡ cực! Sớm là bây kìa. Bữa nay cũng mần nữa ha?
– Làm gì có, thiên hạ về với gia đình hết rồi, ế độ ra chơi với cậu thôi… – Cúng kiến gì chưa? – Chưa cậu ơi, còn cậu?
– Qua hả? Khoẻ re, có một mình với mấy con chó, về tới dưới, mần thịt con gà là xong. Mình nghèo, lo kiếm ăn, ông bà khuất mày, khuất mặt, đâu có chấp! Lành im lặng một lát, rồi ngập ngừng: – Tui cũng mình ên! Buồn đứt ruột! Vô tui chơi đi cậu Ba, chiều về…
– Thôi! Qua già rồi…
– Đừng thôi mà cậu Ba, cậu làm không được thì tui…làm cho cậu! Tui năn nỉ mà…Coi như xả xui cuối năm đi cậu…
Vừa nói, Lành vừa nắm tay Ba Đực lắc lắc. Thấy con nhỏ gần muốn khóc, Ba Đực cầm lòng không đặng. Lão ngó ra chỗ khác, rồi gật:
– Vô trước đi, chút qua vô
– Thiệt nghen, thề nghen cậu Ba…
Ba Đực lại gật lia lịa. Lành đi khuất, tự nhiên lão cũng thấy bồn chồn. Lâu rồi, không gần đàn bà, giờ nhắc cũng thèm. Hồi thiếu uý, dính hết 1 năm cải tạo! Ba Đực mới 22, ra tù lủi về quê, sống cu ky với mấy công ruộng, ông bà gìa để lại. Anh em tứ tán, thân ai nấy lo. Có con bồ thì vượt biên mất biệt! Ba Đực chán đời, ở vậy mà sống.
Làm ruộng thất, Ba Đực lên vườn, trồng mai bán Tết, cũng có ăn. Năm nào 23 Tết, đem mấy chục gốc mai lên đúng chỗ này, ăn dầm nằm dề, bán lai rai tới 30 thì rút. Ngồi bán ngắm thiên hạ sắm Tết cũng vui. Riết rồi ghiền cái không khí Tết của chợ. Mấy năm trước không, năm nay lại có thêm con Lành. Chỗ Ba Đực bán, nhè ngay đầu hẻm nhà trọ của nó. Lành bán bia ôm và đi khách luôn ở cái quán tuốt ngoài đường rầy xe lửa. Chiều qua, quán nghỉ. Lành lang thang chán, mò về ngang qua chỗ bán mai của Ba Đực.
Đúng lúc lão đang nướng con khô sặc ăn cơm. Mùi thơm lừng. Con Lành ghé vô làm quen, rồi ăn cơm với lão luôn. Chập tối, khách coi mai đông, nó cũng líu lo chào mời, phụ với Ba Đực tới khuya, còn tự nguyện đi mua cho lão tô mì gõ, rồi mới chịu đi ngủ… Ngồi trầm ngâm một lát, chừng như hài lòng với quyết định của mình. Ba Đực đứng phắt dậy, gửi 2 cây mai cho bạn hàng bên cạnh. Dắt chiếc Dream dông xuống dốc Cầu Bông, mua con vịt quay, mấy ổ bánh mì với lít rượu đế. Về lại chỗ bán. Ba Đực cột thêm miếng ván phía sau yên, chất một cây lên đó. Còn lại một cây, Ba Đực lục túi lấy cuốn sổ, kiếm cái số nhà, rồi kêu tay xe ôm quen. Tay này ngày thường chở người. Tết chở cây kiểng kiếm ăn. Ba Đực đưa cho hắn tiền và cái địa chỉ, dặn: –
Nói với thầy Tân là cây mai này tui biếu thầy chơi Tết. Chúc thầy ăn Tết vui vẻ, năm sau gặp.
Ba Đực chỉ mới biết thầy Tân mấy năm sau này. Lần nào lên bán cũng gặp. Thầy có vẽ thích và rành về mai. Chắc hồi trẻ phong lưu lắm. Có thầy ghé qua, Ba Đực cũng pha ấm trà mời. Rảnh thì tiếp chuyện, không thì thầy cứ ngồi đó, nhâm nhi trà mà ngắm mai thoải mái. Thầy Tân nói hồi chiến tranh, gia đình thầy không còn ai trong cái Tết năm nào. Thầy lưu lạc luôn từ đó! Cái ấm cúng, cái hạnh phúc của gia đình thầy, như chỉ chờ mai nở mà hiện về. Ngồi giữa những chậu mai đầy hoa của Ba Đực, thầy như sống lại được những ngày tháng êm đềm cũ. Chỉ có vậy, chưa bao giờ nghe thầy hỏi mua. Mai bây giờ là cái thú, cái khoe sự sung túc. Ba Đực biết thầy Tân thích lắm. Ra ngồi chơi thôi, mỗi lần Ba Đực bán đi cây mai đẹp nào, khách chở đi. Thầy Tân đều ngó theo, ánh mắt đầy tiếc rẻ. Nhưng mai quá mắc, mua không nổi so với hoàn cảnh của thầy hiện nay. Ba Đực biết, thầy Tân mượn cớ, có buôn bán, làm ăn gì đâu, mà nhờ mai nở rộ, đặng cầu tài cầu lộc, rồi làm bộ ngó lơ, nuốt nước miếng mà nhịn…
Chào từ giả và chúc tết bạn hàng chung quanh xong. Ba Đực chậm rãi chở cây mai còn lại vô nhà Lành. Hẻm nhỏ, người ta ngồi đầy bên sòng cắc-tê, sì-dách, bầu cua lộ thiên. Phải khó khăn lắm, Ba Đực mới chui vô được tới nơi. Lành đứng đợi sẵn lão trước cửa. Chậu mai bỏ xuống choán gần hết nửa đường đi. Cũng chướng, nhưng thây kệ, Tết mà. Cả con hẻm sáng rực. Lành ngó cây mai, ngó lão, ngạc nhiên. Ba Đực cười: – Để chưng cho có 3 ngày Tết! Căn nhà nhỏ xíu, trống hốc trống hoác. Một cái bàn gỗ ọp ẹp kê sát vách làm bàn thờ. Trên có hình người phụ nữ và cái hủ cốt. Ba Đực để con vịt quay, chai rượu và mấy ổ bánh mì lên đó. Không có giường, chỉ có chiếc chiếu, chắc mới được trãi ra, ngay dưới chân bàn.
– Bà già tui đó, chết năm rồi… – Đốt nhang đi. Có gì cúng nấy!
Lành vói tay cài chốt cửa, thấy Ba Đực nhìn chiếc chiếu có vẽ ngần ngại, nó cười: – Không sao, bà già… quen rồi!… Mùi nhang hăng hắc làm căn phòng thêm ngột ngạt. Ba Đực xá mấy xá, lẩm bẩm mấy câu với người phụ nữ trong hình. Quay lại, con Lành đã cởi quần áo từ hồi nào. Nó kéo Ba Đực nằm xuống, vuốt ve khắp người lão. Thằng đàn ông trong người Ba Đực trỗi dậy. Lão nhìn con Lành nằm tênh hênh bên cạnh. Ngực phập phồng, hai cái đùi bắt chéo, nhô đám lông đen ra ngoài khiêu khích. Con Lành chờ đợi, nó sợ Ba Đực đổi ý, sợ lão từ chối. Sợ bất kỳ cái khái niệm đạo đức nào, bất chợt trỗi dậy trong người lão. Chút…tự ái nghề nghiệp. Cái nghề chết tiệt! Cái nghề được nhắc đến giữa thương cảm và khinh bỉ. Cái nghề luôn bị kẻ nhân danh sự cao cả, cúi xuống nhìn như một thứ rác rưởi. Ba Đực khác. Cái nông dân trong lão nghĩ suy rất đơn giản. Con Lành bán thân như lão bán mai vậy. Ai thích, ai cần thì mua. Sòng phẳng. Mua trong thích thú, vui vẻ, lão sướng. Mua mà ngắm nghía, nâng niu từng cánh hoa, để thấy hết cái đẹp, cái hồn của hoa. Rẻ một chút, lão cũng bán. Còn ngược lại, chờ cái thế kẹt, tàn chợ hoa Tết của lão như bữa nay, mà chê bai, dè bĩu, ép gía, trả tiền như ban ơn. Thứ đó không biết chơi, lão cóc cần. Ba Đực bán mai là bán nguyên cây. Bán cái công cưa cành, tỉa nhánh làm thành cái tướng, cái nổi trội của cây mai giữa muôn ngàn cây khác. Không phải gía, lão đem về. Ăn Tết nghèo thêm một chút, thiếu thốn một chút, đã sao! Tết quê thì có sắm sửa gì đâu. Mồi nhậu thì minh thiên. Chủ yếu là lo cúng kiến cho phải đạo. Ba Đực ngó con Lành, ngó quanh cái phòng lần nữa. Lão chợt xót. Lão nửa muốn nằm úp lên cái thân thể đó, nửa ái ngại muốn đứng lên. Lại lo con Lành tự ái, tưởng lão chê, nó tủi thân. Tội! Ngày mai là ngày đầu năm. Tống cựu nghinh tân. Con Lành thì tân nổi gì, cựu hơn, tơi tả hơn thì có. Lành cứ lặng im vuốt ve Ba Đực. Lành đang rách, đang cần tiền. Nhưng không hiểu sao, giờ này, nằm đây, Lành lại thấy khang khác. Cái hơi đàn ông không còn là để chịu đựng, để chán chường, mà lại là thứ để che chở, để an ủi. Lành chờ cái ôm của Ba Đực. Cái ôm không cần tính tiền! Phần Ba Đực cũng thấy lạ với mình. Ngay từ đầu Ba Đực đã không muốn vô đây. Lão quen sống cu ky một mình, không có đàn bà lâu lắm rồi. Ở quê loay hoay từ sáng tới chiều, hể chịu làm là làm không hết chuyện, làm cho quên ngày tháng, quên cái thiếu thốn, trống vắng trong căn nhà. Tối lại, lai rai vài ly cho dễ ngủ. Tới chừng thấy cần có người bên cạnh, giựt mình ngó lại thì gìa cha nó rồi, thôi nhịn luôn… Bữa nay, con Lành làm lão cao hứng, lão muốn tự thưởng cho mình, một ngày không như mọi ngày cũng đáng. Ba Đực ngó mặt con Lành, ngó cặp mắt lim dim của nó thấy cũng ngộ, lão không đành lòng, lão không muốn nó buồn. Lão ôm lấy nó, lão quên hết chuyện đời, hì hục thở. Lành rướn người, nhích tới nhích lui, đụng chân bàn, cái hủ cốt khua lộp cộp trên đầu… Lâu lắm, Ba Đực mới hoàn hồn. Lành vẫn để mình trần, ngồi tiếp rượu với lão. Nó uống cũng ngọt sớt. Ba Đực thấy vui, thấy bớt lẽ loi hơn mọi năm, bớt chán chường hơn khi nghĩ tới lúc phải về căn nhà với miếng vườn dưới quê. Lành xé cái đùi vịt quay đưa cho lão:
– Ở dưới quê ăn Tết chắc vui hơn trên này hé cậu Ba?
Ở đây buồn lắm, Tết đâu có ai đi chơi bời. Mấy đứa kế bên về quê hết rồi. Tui mà có quê, tui về liền… Ba Đực gạt ngang:
– Tầm phào! Sao không có? Con người mà không có quê hương, xứ sở đâu phải con người. Lành bật cười, cười mà như khóc:
– Tui nè, cậu Ba. Nhiều khi tui cũng không biết tui phải người không nữa. Người sao khổ quá vậy! – Tầm bậy, sông có khúc người có lúc…
– Lúc nào không biết, chứ tới giờ thì… Lành ngưng ngang. Nó rót đầy chung rượu, cầm hai tay đưa Ba Đực đàng hoàng. Chờ lão uống xong, Lành rót cho mình, nó uống còn lẹ hơn Ba Đực. Đặt cái chung xuống chiếu, Lành ngó Ba Đực:
– Để tui kể cho cậu Ba nghe. Bà già tui bỏ quê, lên ở đợ trên này. Thằng chủ nhà, tức là ông gìa tui đó, rù quến quất cho một bụng. Chả hoảng, lập kế cho con vợ đánh ghen, đuổi bà già ra khỏi nhà. Về không được, ở lại lấy gì ăn. Sanh tui xong, bả làm gái nuôi tui. Lớn lên tui làm gái nuôi lại bả. Bà già tui nói “Thà của mình đem bán nuôi thân, còn hơn cho không nó, đã nhục còn mang tiếng ngu, tới quê cũng không dám về”. Tui hỏi “Quê đâu? Mắc mớ gì không về”. Bả nói “Mình nhục đủ rồi, làm nhục ông bà mang tội”. Vậy đó, rốt cuộc quê ngoại, quê nội gì cũng không biết, không có. Tui là cái giống gì, cậu Ba?
Ba Đực im lặng, con Lành kể, lão rót rượu uống. Lành ngưng nói, lặng thinh tiếp rượu Ba Đực. Lão uống tới đâu nó theo tới đó. Chai rượu cạn queo. Ba Đực lôi hết tiền bán mai ra đếm, lẳng lặng đặt một nửa dưới lư hương, nói trống không:
– Ăn Tết vui vẻ… Lúc Ba Đực dắt xe ra, trời đã sẩm tối. Chậu mai trước nhà biến mất. Lành gào lên chửi. Có tiếng giang hồ lao xao:
– Đám Út Nhanh chơi rồi, khỏi kiếm! Ba Đực đẩy Lành vô nhà, kêu đóng cửa lại, lão cười rất nhẹ nhàng với đám đông:
– Chậu mai tệ gì cũng bạc triệu, nói nó đừng bán rẻ quá. Uổng!….
Ra khỏi hẻm. Ba Đực còn tần ngần chưa muốn đi. Còn mấy tiếng nữa là Giao thừa, là hết một năm, là già thêm một tuổi. Ba Đực thở dài, nổ máy. Day lại thấy con Lành tất tả chạy ra, nhảy thót lên xe ngồi. Nó kiếm đâu ra bộ bà ba màu mỡ gà, coi hiền khô. Ba Đực giương mắt ngó, Lành cười: –
Của bà già để dành, đặng về quê, mà chưa bận lần nào… – ….
– Tui về với cậu… – ….
– Thì cũng có người phụ cậu mần con gà, bắc nồi cơm cúng, hay uống rượu với cậu. Lẹ đi, trời tối rồi…
Ba Đực ngước nhìn trời. Ừ, tối. Tối như đêm ba mươi là cùng. Rồi ngày mai trời sẽ sáng. Chắc chắn như vậy…
Hồi ức DỌC ĐƯỜNG VĂN NGHỆ ( Phần 60)NGÔ ĐÌNH HẢI,NHÀ VĂN RẤT SÀI GÒN
Ngô Đình Hải tốt nghiệp bằng kỹ sư Nông Nghiệp nhưng quên hỏi kỷ là anh đã thực hiện bao nhiêu công trình trên thực địa.? Mà thôi, là chuyện… nhỏ của những kỹ sư nông nghiệp .Nhưng tôi thấy Hải đã làm “thuỷ lợi” trên cánh đồng văn chương một cách cần mẫn với cả trí tuệ, trái tim… khi viết lên tâm tư mình rất người, rất đời và rất Sài Gòn bằng văn phong “tỉnh rụi” của riêng mình, có sức lôi cuốn người đọc đến lạ lùng.Giọng điệu ấy, buộc người đọc phải đọc đi đọc lại nhiều lần không chỉ truyện ngắn, truyện dài, tản văn mà kể cả thơ nữa.Anh chàng này đã từng đọc,sống và đi nhiều nên lối viết rất hiện thực, hiện sinh song không thiếu chất trữ tình, lãng mạn…của một mẫu người có tính cách như Jean-Pall Sartre, Guillaume Apollinaire và Gabri Garcia Marquez cộng lại.
Được biết trước đây, chàng từng là một thanh niên ham học và cũng “quậy” tới bến lúc biết làm thơ tặng nữ sinh.Đã từng là một Hippy Sài Gòn qua cách ăn mặc theo phong trào của thập niên 60.Có lắm nàng “mê tơi “nhưng chàng cũng có nhiều lúc thất thế trong tình trường để chìm trong men rượu…Năm 1968 Hải và Bùi Chí Vinh thành lập nhóm Hồn Trẻ -nơi quy tụ những cây viết đam mê văn nghệ của SG và lục tỉnh Nam Kỳ.Sau năm 75, chàng kỹ sư nông nghiệp trở thành giám đốc một công ty trách nhiệm hữu hạn về mua bán xe hơi.Hoạt động thường thường nên Hải không phải là tay giàu có gì.Vả lại,trong người chàng luôn có máu của họ Lục( Lục Vân Tiên )” Giữa đường gặp chuyện bất bình chẳng tha” nên chưa sạt nghiệp là may…
Tôi ưa tính bộc trực,thẳng thắn của Hải nên hay ghé 81 hay 64 Trần Quốc Thảo làm vài cốc bia hơi( thập niên 90, thời gian này 81 là nơi tụ hội anh hùng hảo hán văn nghệ thật và cũng đầy văn nghệ dỏm)Ngô Đình Hải thường giao du với các anh em: Vũ Ngọc Giao,Nguyễn Liên Châu,Châu Đăng Khoa,TuấnPolo, Thuỷ , tôi và một số anh chị em khác khi có dịp về SG.Hơn một năm qua không còn dịp gặp Hải và anh em nơi quán cà phê SàiGòn Phố nhưng trong lòng tôi luôn náo nức những buồi sum vầy như thế để ngồi nhắc nhớ ai còn ai mất sau đại dịch quái ác.Tuy vậy, tôi cũng hay liên lạc với Hải qua điện thoại và biết chàng đang viết truyện dài.Mừng thay!Chắc bạn đọc đang chờ đọc tác phẩm của Ngô Đình Hải-người rất Sài-Gòn? Xin giới thiệu truyện ngắn NGỬA dưới đây mà tôi ưa lắm.
NGỬA
Truyện ngắn Ngô Đình Hải
Đoạn đường ban đêm tối và vắng. Tối tới mức gần như đe dọa, bởi những thứ tồi tệ, nghi ngờ, được che đậy bên trong. Bóng tối khoan nhượng và không phân định tốt xấu!
Không ai thấy gì ở bóng tối. Người ta lo lắng, sợ hãi những thứ không thấy đó! Thường là vậy. Nỗi lo sợ với cái thấy được và cái không thấy, hoàn toàn khác nhau. Ở cái không thấy, sự sợ hãi mơ hồ, nhưng lan rộng, bao trùm lên mọi thứ! Nó làm người ta quên, hoặc cố tình quên, là chỉ cần một đốm lửa nhỏ, một chút sáng, soi vào đó, là bóng tối tan biến. Kẻ nhát gan không dám làm. Kẻ gian manh lợi dụng. Bóng tối, tối thêm. Con đường càng lúc càng vắng. Gian trá mãi, lợi dụng cũng cạn kiệt, bóng tối hao mòn. Người ta mới sực nhớ ra, đem trồng một ở đó một cây đèn đường. Có đèn, con đường tự nhiên bớt âm u. Xe cộ bắt đầu qua lại.
Cột đèn non trẻ tự hào vì điều này. Hắn thấy mình như đang thay mặt thượng đế, ban phát ánh sáng cho nhân loại. Như một thứ cứu tinh cho cái sự sống ban đêm của con đường. Ban ngày, khi mặt trời lên, hắn tự cho phép mình nghỉ ngơi, ngủ một giấc dài, mặc kệ thiên hạ. Thế giới của hắn là về đêm. Hắn thích thú, cố đứng thẳng và rọi thật xa. Chỗ nào có sự chiếu cố, ban phát của hắn, chỗ đó mang một hình ảnh khác. Ánh sáng của hắn có sức mạnh của một đạo quân, quét sạch đám âm binh lẩn quẩn. Hắn ngạo nghễ nhìn dòng người, hắn muốn đọc sự biết ơn trên mặt họ. Nhưng ngày qua ngày, điều này không xảy ra. Người ta theo cái vùng sáng của hắn, chui vào và thoát ra thật nhanh. Ai cũng hối hả, không ai để ý, không ai nhớ lại trước đây, khi chưa có hắn. Không ai dừng lại để ngắm, hay hỏi thăm hắn một câu. Có người còn chẳng quan tâm cái ánh sáng từ đâu ra, nói gì tới hắn.
Hắn bắt đầu thấy buồn và cô đơn. Hắn tự nhủ, không cần cái loại qua đường này, chúng thường là những kẻ vong ơn. Hắn dành thời gian để mắt tới những người ở gần hắn nhiều hơn. Những người mà hằng đêm, đi và về, luôn phải nhờ đến sự tận tâm của hắn. Hắn gồng mình chiếu sáng về phía những căn nhà. Như để gửi lời chào, tới những cánh cổng khép mở mỗi ngày và từng con người bên trong đó.
Mãi mê với những thứ này. Cây cột đèn quên mất, cái phía ngay dưới chân mình. Quên rằng hắn có thể thắp sáng cho nhiều thứ trừ… chính hắn. Chỗ chung quanh thân hắn nhập nhoạng. Vẫn còn hiện diện của bóng tối ở đây. Hắn hy vọng họ sẽ nhìn thấy sự hy sinh của hắn, thấy cái thiệt thòi và chịu đựng của hắn. Và khi những thứ hắn tưởng đó, chưa đi tới đâu, thì từ trong cái tối mập mờ chung quanh hắn. Một cặp trai gái còn rất trẻ dừng xe lại. Họ ngồi yên trên đó, thì thầm to nhỏ. Rồi họ hôn nhau, những cái hôn chặt và lâu. Hắn thích thú với vai trò che chắn của mình. Một lát sau, họ rời nhau. Người con gái đi bộ về phía trước. Chắc nhà cô ở gần đâu đây, và cô không muốn người nhà biết chuyện hẹn hò của mình. Chàng trai nhìn theo ngơ ngẩn, đến khi cô đi khuất mới đi. Được vài tối như vậy, rồi thôi. Hắn không gặp lại họ nữa.
Đêm khác, đúng lúc cây cột đèn không ngờ, không chờ đợi. Một gã say lò mò tới, tay vịn vào người hắn, tay kia tuột dây kéo quần, mùi xú uế lẫn mùi rượu bốc lên nồng nặc. Hắn rùng mình, một bên người ướt sũng. Hắn ngạc nhiên, hắn tức tối. Hắn không tin gã say có thể làm điều này với mình. Chưa hết, gã thuận tay ném luôn tờ báo đang cầm, xuống vũng nước vừa xả ra, rồi mới chịu bỏ đi. Thứ nước khai rình ngấm vào trang báo mở sẵn, làm mực nhòe đi và chữ theo đó tan dần…, tan dần. Nhiều người biết gã này. Có người chào gã là nhà thơ. Thì ra vậy. Tối nào gã cũng từ cái quán nhậu bình dân ở đầu đường, về qua đây. Cây cột đèn cũng có cảm tình với cái tướng đi chệnh choạng, bất cần đời của gã. Nhưng làm quen với nhau kiểu này thì tệ quá!
Gã nhà thơ đi khỏi được một lát. Từ bên trong những căn nhà gần đó. Một, rồi hai, ba người đàn bà thò ra, thay phiên nhau. Rất nhẹ nhàng, đặt dưới chân hắn mấy…bịch rác. Một thứ mùi hỗn hợp mau chóng lan ra trong không khí. Người đi đường tránh xa hắn thêm. Vài con chó hoang, ghé qua kiếm miếng ăn, tiện thể cũng xoạc chân, xả thẳng vào hắn không thương tiếc.
Người hắn bong tróc, ngứa ngáy và hôi hám tới mức hắn chỉ dám nhìn ra xa, chứ không dám nhìn lại mình.
Rồi nắng, rồi mưa, rồi năm tháng chất chồng. Cây cột đèn ngày càng tàn tạ. Hắn mơ hồ nhận ra một phần giá trị thực của mình.
Một tối, chàng trai trẻ ghé lại. Một mình. Chàng tần ngần ngó hắn, rồi ngóng về phía con đường lúc trước. Không có cái lưng áo phất phơ. Không còn tiếng bước chân hối hả. Chàng trai nhặt một miếng gạch bể gần đó, rồi bằng tất cả những chất chứa trong lòng, chàng mài lên hắn chữ HẬN. Cơn đau trong người chàng trai trút lên hắn. Cái chữ ám lên thân hắn. Cái chữ đầu tiên hắn mang trong đời. Cái chữ gây ngộ nhận và làm thành một cái tên, lại chẳng mảy may liên can gì đến hắn. Từ đó, người ta nói chuyện về hắn rất thản nhiên: qua khỏi cột đèn HẬN là tới…Kế bên cột đèn HẬN..
.Cái tên vận vào hắn. Giấc mơ về một sự thay đổi lớn dần. Hắn mệt mỏi và chán chường với công việc. Hắn luôn tự hỏi không biết mình còn đứng được bao lâu nữa!
Hắn chỉ còn trông chờ vào một phép lạ. Và rồi cô gái xuất hiện, với cái nhan sắc cũng bầm dập như hắn. Cô như một nhánh cây khô đã lâu không được tưới nước. Cô trôi dạt từ đâu lại không biết. Hắn chỉ nhớ cái buổi chạng vạng sau cơn mưa chiều, những vũng nước còn đọng lại dưới đường. Hắn vừa lên đèn, thì cô đã đứng tựa người vào hắn, lục tìm thỏi son trong chiếc túi nhỏ bên người, bôi lên đôi môi nhợt nhạt. Cô chải lại mái tóc, kéo chiếc áo cho hở thêm bộ ngực nhão nhoét, rồi ngóng ra đường. Cứ chiếc xe nào đi rề rề ngang, cô lại nhoài người ra đón, mời chào như gặp người thân. Không ai dừng hỏi han, cô lại lủi thủi quay vào nép sau lưng hắn. Thì ra cô làm điếm. Hắn đoán già, đoán non, chắc cô làm nghề này cũng khá lâu, trước không biết sao, chứ giờ chắc cùng đường mạt lộ, mới tới kiếm ăn chỗ này…
Vậy mà từ ngày có cô bầu bạn hắn vui. Hắn thấy mình gần với loài người hơn. Hắn chú ý đến sinh hoạt của cô nhiều hơn. Đêm nào cô ra trể, hay bắt được khách, dắt nhau vào cái nhà trọ rẻ tiền nào đó. Hắn bồn chồn, hắn trông ngóng cô trở lại. Hắn thèm được nhìn thấy nụ cười méo xệch và hiếm hoi của cô khi đếm mấy đồng tiền nhàu nát, hay khi cô cúi gằm đầu ăn tô mì gõ, rồi hắt phần nước lèo còn sót vào chân hắn. Từ ngày có cô, những túi rác tự động dời đi nơi khác. Cũng không còn ai ghé xả lên người hắn. Hắn trở lại vững chãi và tự tin hơn. Hắn thầm cảm ơn cô, vì tất cả những thứ cô mang lại, và cầu mong mọi thứ cứ mãi như thế…
Mùa mưa năm đó, có cơn bão lớn vào thành phố, mưa dầm dề từ sáng. Mặt trời lấp ló, mặt trời âm u và mặt trời tắt sớm. Gió ào ào thổi, hàng dây điện chằng chịt trên đầu hắn chao đảo, chạm vào nhau kêu í ới, lửa nhoáng lên từng chập. Hàng dây níu vào hắn, lôi hắn theo. Đất dưới chân hắn rung lên, nứt rạn. Hắn cố hết sức đứng cho khỏi ngã. Nhưng khó quá, lần đầu tiên hắn cảm thấy rõ rệt nhất, sự già nua của mình.
Cơn gió chợt dừng lại, mưa nhẹ hơn rồi dứt. Người hắn nghiêng hẵn về một bên. Chung quanh hắn tối lại, hắn cũng không còn chút ánh sáng nào để phát ra. Hắn như tê liệt. Cứ thế hắn đỗ xuống từ từ. Không biết ngày mai người ta có dựng hắn dậy, hay sẽ mang hắn đi vứt bỏ ở một nơi nào khác. Mặc kệ, đằng nào thì hắn cũng sắp chết. Hắn ngửa mặt lên nhìn bầu trời, mây đen đã tan, mặt trăng sớm còn ở xa, chiếu chút sáng vàng vọt xuống. Hắn thấy trăng đẹp vô cùng. Hắn bắt đầu cầu nguyện. Lòng thành của hắn được chứng. Nàng đang đi về phía hắn. Không ai ra ngoài vào giờ này. Chỉ có cái đói lôi kéo. Nàng nhìn hắn ái ngại, rồi nhìn ra đoạn đường vắng hoe. Hắn nghe tiếng thở dài của nàng. Ông trời chắc cũng nghe. Gã thi sĩ say rượu ngày thường đi ngang là đi một nước. Bữa nay gã chợt dừng lại, ngó nàng đăm đăm. Cô gái lên tiếng trước: “đi không?” Gã gật gật: “…mà bao nhiêu?” “Bao nhiêu cũng được”. Nàng vừa nói vừa kéo gã lại gần. Gã thọc tay vào túi quần, lôi hết mấy đồng tiền trong đó đặt vào tay nàng: “ở đây hả?”. Cả hai sát vào nhau, nhấp nhô. Nàng tựa lưng vào cây cột đèn, nửa đứng nửa ngồi. Gã say trút hết sức lực, hì hục thở. Cây cột đèn trân mình chịu đựng. Mặt trăng trốn mất dạng. Hai cái bóng dính chặt. Rồi cũng xong. Một tay kéo quần, một tay vẫn nắm chặt tiền, nàng nói: “đi…tui mời anh tô mì…” Gã say xua xua tay, rồi gập người ói thốc, ói tháo lên người hắn. Cô gái điếm vỗ vỗ lên cây cột đèn, không biết để cảm ơn hay chào từ biệt, rồi đi thẳng. Gã say ráng đứng dậy, loạng choạng đi theo sau.
Trong đống thức ăn nhầy nhụa gã vừa ói, những thứ thực sự của chính gã vừa trào ra không kiểm soát, cứ nhấp nháy những dòng chữ, thứ chữ không giống chút nào, với cái chữ trên tờ báo, trong vũng nước đái hôm nọ.May mà gã còn ói được..
NĐH
……
Và thơ chàng:THƠ NGÔ ĐÌNH HẢI
,
DỤ DỖ
hay là mình cứ yêu nhau đi em
để có khóc thì khóc chung một lúc
có giông bão còn nắm tay nhau được
chứ cuốn trôi rồi ai nói ai nghe
hay là mình cứ ở chung đi em
cho năm tháng cạn có nơi nương tựa
cho những đoạn đời cháy trong bếp lửa
biết đâu còn hơi ấm một nồi cơm
hay là mình cứ ngủ chung đi em
nhà còn mái che đâu mà e ngại
hong cây lá ướt cho nhau cùng sưởi
mơ thấy bên ngoài bóng một quê hương
hay là mình cứ đi chung thôi em
xa thật khuất chỗ ta đang mắc cạn
về sông cũ làm lục bình trôi dạt
hoa nở tím buồn cũng bớt cô đơn…
NHANG KHÓI
cuối năm nhớ quá , lên chùa cũ
tìm bóng em ngồi tụng Pháp Hoa
sư hỏi : ” sao không vào mà lễ ?
“thưa : ” thiếu tiếng ai kia niệm Di Đà ! “
chỗ ấy còn thơm hương Bồ Tát
mà , giang hồ bụi cứ theo chân
sợ vô tình chạm tan đi mất
lỡ một hồi kinh với mõ chuông
nam mô , tình dẫu coi như nghiệp
cũng có cho mình được chút duyên
xin gửi khói nhang trong chánh điện
người ở bên ngoài đỡ nhớ thêm .
.BỮA NHẬU GÓP
Đám bạn cũ gặp nhau rủ nhậu
Đứa nào có gì góp nấy
Một tên chìa ra chai rượu gạo
– Tao góp “nước mắt quê hương” cho nó mau say
Cho quên đi cái trống rỗng của tháng ngày
Ly rượu nhỏ lọt thỏm trong lòng bàn tay
– Tao góp mấy tiếng cười
Cho những giấc mơ thấy đường về trong đêm tối
Tên khác dốc cạn ly không nói
Lặng thinh đếm coi còn thiếu mấy chỗ ngồi
– Tao góp thời tuổi trẻ xa xô
iChiến tranh đã qua lâu mà mất mát còn hoài
– Tao góp bằng Tú Tài đôi
Công ăn học đem ra đứng chợ trời
– Tao góp những cuộc tình ngây dại
Yêu mà sợ chiếc khăn sô trên đầu người con gái
Tên khác cúi mặt không nhìn ai
Lẩm bẩm góp câu
– Lũ chúng mình sinh nhầm thời!
Tên nữa móc túi đặt lên bàn mấy tờ tiền giấy
– Tụi mày đừng ngại, trong đó toàn nước mắt và mồ hôi
Tên còn lại cho tao góp với
Cái thứ thèm uống cho trôi
Thứ không thuộc về mình lâu rồi
Thứ người ta định nghĩa là…Cuộc đời!
Có mỗi chai rượu mà chừng đó mồi Phải say thôi!..
.*TIỂU SỬ NGÔ ĐÌNH HẢIKỹ sư Canh Nông, Bắc di cư, sinh Hải Phòng, sống và lớn lên ở Sài Gòn. Nhóm thơ Hồn Trẻ với BCVinh (1968). Viết tự do. Đã xuất bản: Nhỏ ơi(thơ), Đời ơi (thơ), Ngửa (tập truyện ngắn), Còn&Mất (truyện dài).Đang in: Tôi ơi (thơ), Nghiệt (tập truyện), Phù Hư (tập truyện), Giang hồ khô nước mắt (tiểu thuyết).Tôi nghĩ và hy vọng Ngô Đình Hải còn mãi tư duy để đi,sống và viết như câu nói nổi tiếng của nhà hiền triết Descartes: Tôi tư duy nên tôi tồn tại( I think,therefore I am).Trần Dzạ Lữ( Xuyên Mộc 16.10.2021)Hình : Nhà văn NĐH
Một lối viết dung dị, cách kể chuyện gần gũi. Những đối thoại, chân dung ta gặp đâu đó mỗi ngày.
Bùi Việt Quý
Những góc khuất số phận lóe lên phút chốc rồi lại chìm vào bóng tối. “Ngửa”, tập truyện ngắn của Ngô Đình Hải – NXB Hội Nhà văn, 2017 – sau 4 tập thơ đã xuất bản, cho thấy một giọng điệu riêng, hài hước mà thâm thúy, gai góc mà nặng tình.
Tác giả cất lên tiếng nói lạ mà quen, có khi như nhát dao cắt ngọt, có khi như hồi chuông dịu lòng, có khi như sấm chớp, cảnh báo tai ương. Sự trải đời, chiêm nghiệm, những ẩn dụ và hình ảnh biểu trưng dễ ở lại với độc giả. Nếu như “Bụi đường” bất ngờ với cơn nôn ói của anh tài xế tuổi 30 sau khi “gần” chị chủ ở căn phòng khách sạn vùng biên thì “Cái giếng nước” là câu chuyện về nỗi cô đơn, về tình yêu từ thuở hoa niên đến lúc lìa đời và cái giếng là chứng nhân, là cứu vớt cho những bi kịch của người trong cuộc và cả cái hồ đồ, nghi ngại, đa đoan của người đời. Truyện “Chó” không chỉ là câu chuyện về người và vật nuôi mà còn là thông điệp về số phận, nỗi ám ảnh của nhân sinh; còn “Vũ khúc đen” bày ra tấn tuồng mỗi người sắm vai, bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích chiếm đoạt, đôi chỗ đọc gai người… Với “Tuồng”, “Lâm toilet”, “Hoàn thi sĩ”, “Danh họa”, Ngô Đình Hải cười vào thói đời một cách sâu cay nhưng ý nhị tình người.
Mảng truyện viết về thân phận con người cùng những đẩy đưa của số phận và những bi kịch được tác giả khắc họa thành công. “Ngửa” cũng là hiện thân của sự cô đơn, bất hạnh qua chiếc cột đèn, chứng nhân đời sống thị dân. “Về nhà” là lát cắt hiện thực, ông giáo già từ giã cõi đời quá nhiều kẻ gian lọc lừa người ngay. “Cơm đường, cháo chợ, vợ người ta” thấm đẫm tình người. “Thôi, bỏ đi” có đủ hỷ nộ ái ố, cái đau tột cùng, cay đắng tột cùng đều được giải thoát trong cái kết để trút bỏ oán hờn, dằn vặt…
Tình yêu trong tập truyện này đẹp và buồn, cứ nhói đau và chực rơi nước mắt với “Khuôn mặt” và “Con đường có bao nhiêu lối rẽ”. Chỉ là một lần gặp trên đường, suốt mấy chục năm Dũng mang theo và anh thương quý Chi bởi cô cùng tên và có khuôn mặt giống người con gái ấy. Một chuyện tình học trò đẹp như thơ đến cuối đời vẫn cứ đẹp như người con gái, người đàn bà ấy, dù qua bao nhánh rẽ đau buồn vì đó là tình yêu đích thực: “Rốt cuộc chỉ có ông là không bỏ tôi”…
Nhận xét về tập truyện, nhà văn Nguyễn Trí cho rằng: “Văn chương trong “Ngửa” như một dòng suối ào ạt qua bình nguyên vào mùa lũ, băng băng trôi vào hồn người thưởng ngoạn. Những con chữ được chắt chiu, lạ và độc đáo”. Chừng đó là quá đủ với một đời văn.
Nguyễn Hữu Khánh là một cây bút văn xuôi quen thuộc của trang xunauvn.org. Mấy tháng nay không thấy anh gửi bài về, cứ tưởng anh bận bịu với công việc, nào dè vài ngày trước đây mới tình cờ biết tin anh đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Vậy là lời hứa của anh sẽ trở về Việt Nam giữa năm 2017 này đã bay biến vào hư không. Chỉ biết cầu mong anh sớm siêu thoát ở cõi xa xăm kia…..Xin vĩnh biệt anh.
.
BBT xunauvn.org
Phượng vỹ lưng tròng
.
Ngô Đình Hải
Bạn tôi, Nguyễn hữu Khánh, tác giả của 2 tập truyện: Phượng vỹ lưng tròng (2006) và Màu của dòng sông (2012). Đoạt giải thưởng báo Tin Sớm (1972) với truyện ngắn Không Chờ. Khánh viết chậm mà chắc. Nó có hẹn với tôi, tháng 7 này sẽ mang bản thảo tập truyện thứ 3 về in. Tôi cũng chưa đọc được nó viết gì, thì nó đã mang theo về với đất, mấy hôm trước. Vợ Khánh gọi điện về báo tin trong nước mắt. Nó mới qua được đất Mỹ 5,7 năm sau này. Tưởng đời đã bớt khổ, đâu ngờ…(more…)