Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Lâm Bích Thủy’

Lâm Bích Thủy

.

Cuộc gặp định mệnh giữa ba tôi và Hàn Mặc Tử

Tôi không tin tạo hóa sinh ra trái đất thì đấng thiêng liêng tối cao nào đó định cho chỗ này là địa linh nhân kiệt, chỗ kia là đất dữ. Nhưng tôi lại tin lời người xưa nói “nếu có duyên với nhau thì sẽ tụ lại”. Nói đâu xa; đấy chính Bình Định quê tôi là đất của sự tụ nhân, tụ thủy, là địa linh nhân kiệt với danh xưng là “Đất võ trời văn” thật 100% . Được như vậy người Bình Định luôn mang ơn sự đóng góp nhân tài từ các tỉnh bạn như Nghệ An với họ Hồ đã đưa người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ – Quang Trung; quê Hà Tĩnh với duyên kỳ ngộ cha Đàng Ngoài mẹ ở Đàng Trong đã cho quê tôi nhà thơ tình Xuân Diệu”; và cảm ơn đất Quảng Trị đã đưa đến một Chế Lan Viên với những sáng tạo mới mẻ, hiện đại nhất trong bút pháp”. cảm ơn đất Quảng Bình đã tặng một Hàn Mặc Tử để rồi có cuộc gặp gỡ giữa ba tôi-nhà thơ Yến Lan và Hàn Mặc Tử định mệnh làm nên nhóm thơ “Bàn Thành tứ hữu” đã mang đến những giá trị nhân văn sâu sắc làm rạng danh cho quê hương Bình Định…:

Cuộc gặp mặt này được ba tôi kể lại:

– Một sáng chủ nhật, khoảng giữa năm 1930, tôi đang chép lại bài thơ mới làm hôm qua, thì nghe tiếng gọi ngoài cổng chính.

Tôi nghĩ: chắc là có khách lạ muốn đến thăm đền (vì người quen tất phải biết ngõ phụ luôn mở rộng ở phía Bắc của góc tường thành) Tôi bước ra, nghe tiếng của hai trang nam tử. Biết là người xa đến vãn cảnh, tôi chào, rồi chỉ hướng cho họ vào đền. Khách mặc âu phục sang trọng: Một, hơi lớn tuổi, nói giọng Bắc, rất chỉnh tề trong bộ Tropical, một là thanh niên mặc nguyên bộ tơ De-ligaon, đội mũ Panama. Đang đi, người trẻ tuổi bỗng ngoặc sang phải, lối hàng rào chè, rẽ sang một góc sân. Ở đó có cây lựu lớn đang nở hoa đỏ rực. Anh níu bẻ một nụ rồi tặng cho người bạn đồng hành, miệng đọc câu Kiều:

Ngoài hiên quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập lè đơm bông

Rõ ràng là những vị khách thuộc loại hào hoa, ít gặp ở đây. Vừa lúc ấy cha tôi bước ra, hướng dẫn họ đến bên tấm bia đá và mở cửa mời vào chính điện. Tôi trở lại tràng kỷ, làm tiếp công việc bỏ dở. Được một chốc hai người đi xuống. Cha tôi đưa họ vào nghĩa tự, mời ngồi trên tràng kỷ và đưa mắt bảo tôi xuống nhà lấy bộ bình trà bằng sứ chuyên dùng tiếp khách quí. Có lẽ tờ giấy mà tôi còn bỏ ngỏ trên bàn có những dòng chữ và cách trình bày giống dạng một bài thơ đã làm cho người trẻ tuổi chú ý. Anh hỏi tôi:

– Cậu đang chép thơ à? Tôi bẽn lẽn gật đầu:

– Dạ, vâng.

– Thơ của bác hay thơ của cậu đấy?

– Dạ thơ của tôi. Im lặng một chốc, anh lại hỏi:

– Cậu làm thơ lâu chưa? Đã đăng ở đâu chưa?

– Tôi mới võ vẽ, cũng có bài được đăng báo.

– Cậu lấy bút danh là gì?

– Tôi ký Xuân Khai. Người trẻ tuổi vui hẳn lên, anh cười:- Vậy tôi với cậu là đồng nghiệp với nhau. Xin tự giới thiệu, tôi là Phong Trần, là Hàn Mặc Tử. Anh quay sang người trung niên, vẻ quí trọng:

– Vị này là nhà văn, tác giả “Kép Tư Bền”, tập truyện ngắn vừa mới xuất bản đang được cả nước hoan nghênh. Tôi thốt lên một tiếng “À” vui vẻ:

– Hóa ra ông là nhà văn Nguyễn Công Hoan. Tôi đã đọc và đã biết nhiều về ông, nhất là trong cuộc bút chiến với báo Phong Hóa, Ngày Nay về tập chuyện dài “Lá ngọc cành vàng “của ông

Lúc ấy nhà văn Nguyễn Công Hoan như tự nhiên có thêm những cảm xúc không ngờ. Ông nhìn tôi một cách triều mến.

Hàn Mặc Tử thì gật đầu thích thú, anh tiếp lời:- Nhân đây ông làm một cuộc viễn du từ Bắc vào Nam để tạ lòng ủng hộ của tác giả mà mình hâm mộ. Hôm nay tôi đưa ông lên thăm một vài cảnh đẹp ở đây, rồi sẽ lên Phú Phong, mảnh đất lịch sử của quê ta. Nhân dịp này ta làm quen với nhau vậy. Tôi đang sống với gia đình tại 20 đường Khải Định-Qui Nhơn. Có đi Qui Nhơn mời cậu ghé chơi, chúng ta là đồng nghiệp với nhau mà.

Chúng tôi gắn bó với nhau từ buổi ấy. Tôi kể chuyện này với Chế. Chế cho biết đã quen với Tử rồi và cũng muốn có dịp nào đó sẽ giới thiệu tôi với anh.

Sống giữa lòng Bình Định, những chiều hiu hiu nắng quái, tôi và Chế Lan Viên thường lên lầu cửa Đông mà hai đứa tôi gọi là lầu tư tưởng, phóng tầm mắt nhìn bao quát thị trấn, rồi vọng đến những chân trời xa tắp, lòng ngậm ngùi cho mảnh đất quê hương đã trải qua lắm cuộc đổi thay. Có lúc chúng tôi nghĩ xa hơn đến các triều đại của quá khứ, từng nối tiếp nhau đến sự thăng trầm biến thiên của lịch sử, rồi bàn nhau cùng viết về cảnh điêu tàn, những cuộc đời dâu bể. Hoan đi sâu vào sự đau thương, tàn tạ, thịnh vượng, làm sống lại những lễ hội, sinh ca của các hệ tộc quyền quí, rồi binh biến máu lửa thay cho một thuở thanh bình. Tập thơ của Chế, tên “Điêu tàn”.

Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở

Trong sương mờ huyền ảo lắng tai nghe

Từ một làng xa xôi bao tiếng mõ

Tan dần trong im lặng của đồng quê..

Tập thơ của tôi là “Giếng loạn”. Nghe tôi đôi lần đề cập đến “Giếng loạn” Tử rất muốn xem (lúc này anh đang bệnh). Tôi mang xuống cho anh. Khoảng một tuần sau, Tử đưa trả bản thảo và nói:- Tôi đã xem hết tập thơ rồi. Có một số xúc cảm nên cố làm một bài riêng tặng cậu. Anh lấy ở túi áo ra trao cho tôi và trân trọng nói: – Đây cứ coi như một bài bạt sơ khảo; mà tôi thấy cái nhan đề không ổn. Sao cậu không viết là “Giếng lạng” lại viết là “Giếng loạn”? Tôi đáp: “Có vấn đề về ngôn ngữ tôi muốn thảo luận với anh đấy.”

Rồi tôi và Tử bàn nhau hồi lâu, sau cùng thống nhất là “Giếng loạn”. Loạn ở đây là loạn lạc, đầy đủ ý nghĩa hơn, lạng là bỏ hoang. Bài thơ Tử tặng tôi chính là bài “Trăng tự tử” mang dáng dấp của một bài bạt cho cả tập thơ. Tôi đã có chủ ý sẽ in nó vào tập “Giếng loạn” khi xuất bản. Nhưng bản chép tay ấy với cả tập thơ bị thất lạc, lúc đi sơ tán, ngày Pháp mở chiến dịch Át-lăng đánh vào Qui Nhơn. Bản in trên các sách hiện nay là bản lưu từ trong xấp di cảo do anh Quách Tấn giữ.

Buổi sáng hôm ấy, tôi nhớ dường như sáng 28 Tết âm lịch, năm 1938. Tôi và Chế Lan Viên đến thăm anh. Khi ấy bệnh Tử đã nặng! Mới bước vào cổng nhà, tự dưng tôi có cảm giác căn nhà hiu quạnh quá. Thấy chúng tôi, mẹ Tử bước ra thềm hè, rơm rớm nước mắt:

-Trí đi rồi các anh à! Cò bót không cho nó ở nhà nữa, vì sợ lây bệnh, bắt phải đưa vào Qui Hòa, Tết nhất đến nơi rồi, nếu đưa nó vào trong ấy thì tội lắm. Nhà cập rập quá, nên lén gửi tạm nó vào trong xóm Động. Các anh có đi thăm thì em Hành đưa đi. Nó vừa chạy đâu đó.

Đợi lâu không gặp Hành, hai đứa tôi hỏi thăm vào xóm Động. Đấy là cái xóm nhỏ của những người lao động nghèo, nằm trên một bãi cát rộng mênh mông, khoảng khu VI Qui Nhơn bây giờ. Nhà ở chỉ là những túp lều dựng tạm bợ trên cát, không có nền. Đồ đạc, giường, tủ, bàn, ghế cứ đặt nguyên trên cát. Đường đi vào cũng quanh quất cơ hồ khó tìm ra.

Chúng tôi vào một cái chòi lợp tranh nhỏ hơn một cái chái bếp. Nóc chòi được chống lên bằng hai cây cột tre. Một tấm phên ngắn dọc theo chiều dài của nóc, ngăn chòi làm hai: nửa trước sinh hoạt bình thường, nửa sau hình như có đặt một chiếc chõng tre với lỉnh kỉnh những thúng mủng..

Trước tấm phên là cái bàn ọp ẹp, chỉ còn lại một chân trước nối với một khúc củi đẻo từ chảng ba, hai chân sau cột vào hai cọc tre chống mái nhà, Tử đang ở trong ấy (đây là nhà của một phu kéo xe). Nghe tiếng chúng tôi, Tử chậm rãi bước ra, vẻ mệt nhọc:

– Hai cậu vào tới đây sao…?

Hoan và tôi ngồi trên ngạch cửa làm bằng một khúc tre, xoay lưng ra ngoài, trò chuyện với anh. Tử gầy, trông hốc hác lắm Anh không vui như mọi khi.

Đang nói chuyện thì có bà cụ đem cho anh hai quả keo chín, Tử nhìn hai đứa tôi:- Thứ này mình thích lắm. Mấy năm còn khỏe, mình thường xách ná cao su đi bắn. Có khi đạn rớt vào nhà Tây, mình ba chân bốn cẳng chạy nhanh như sóc. Thế mà bây giờ .!.Anh thở dài.

Chúng tôi nói chuyện cho tới giờ tan tầm, thì có một bé trai xách làn cơm vào (chắc là em Hành) Khi cái xách cơm đặt nghiêng nghiêng trên bàn, em lẫn ra phía sau. Tử vẫn giữ cái vẻ thản nhiên, gợi thêm một vài ý nhỏ về thi ca sách vở. Sợ anh mệt và cũng quá giờ chúng tôi đứng lên tạm biệt. Tử nhìn, đôi mắt anh buồn vời vợi

Sau này, mới biết sau cái Tết ấy, gia đình còn cố giấu anh ở mấy nơi nữa rồi mới vào Qui Hòa.

Khi Tử mất, mỗi lần nhớ tới anh, tôi lại ngậm ngùi đọc “Những giọt lệ” của anh

Trời hởi! Bao giờ tôi chết đi

Bao giờ tôi hết được yêu vì

Bao giờ mặt nhật tan thành máu

Và khối lòng tôi cứng tựa si?

Họ đã xa rồi khôn níu lại

Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa

Người đi, một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ

Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?

Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu

Sao bông phượng nở trong màu huyết

Nhỏ xuông lòng tôi những giọt châu!

Tôi không biết anh viết bài thơ này để nói đến một tình huống nào. Có người bảo là anh viết để than thở về một mối tình trong bao nhiêu mối tình dang dở của mình. Nhưng tôi cứ nghĩ cảm xúc đó bắt nguồn từ buổi sáng hôm ấy, buổi sáng mà tôi và Hoan còn ngồi bên Tử, trong túp lều đơn sơ ở xóm Động…

Quả thật tôi không ngờ, lần chia tay ấy là lần vĩnh biệt.

Read Full Post »

  • Thơ là cái đẹp đi lầm lũi trong im lặng

                          Hay : 100 năm với nhà thơ của Bến My Lăng

Lâm Bích Thủy

yenlan_01

Bài viết dành tặng người cha là thi sĩ

(more…)

Read Full Post »

.

Lâm Bích Thủy

 

             

 hinh ong

      Bài viết dành gởi: :  Ông  Hữu Thỉnh  Chủ tịch Chủ Tịch Hội Nhà Văn Việt Nam và Ông Nguyễn An Pha Chủ tịch Hội Văn Học Nghệ Thuật tỉnh Bình Định          

 Cha tôi ra đi đúng vào Rằm Trung thu (15-8-1998). Hàng năm, cứ gần đến ngày, mẹ tôi lại chộn rộn nhắc các con, dù ở xa cũng về quê để làm giỗ. Nay, mẹ không còn, biết ai thay mẹ nhắc nhỡ! Song có một điều, đối với cha tôi, ông còn là một người thầy nhân từ, trọng tình, trọng nghĩa với đời, với người; cho dù không ai nhắc, chị em tôi ở hai đầu đất nước, cứ đến Rằm là tự khắc rủ nhau về nơi mà cha đã ra đi, thắp cho ông nén tâm hương tường nhớ để cha đỡ cô quạnh ở nơi suối vàng!

Chắc có bạn biết, cha tôi – nhà thơ Yến Lan-một trong bốn nhà thơ của Tứ Hữu Bàn Thành- đó là dải đất mà người đời thường tâm đắt: “Bình định là đất võ nhưng ẩn chứa trong mình những bí ẩn về văn chương”  Ngoài bút danh Yến Lan, người ta còn gọi ông là linh Lân. Tên ấy, do ông Trần Thống, ở Kiên Mỹ (quê vợ nhà thơ Quách Tấn), đại diện người yêu thơ lúc bấy giờ, lấy tên bốn con linh vật để đặt cho: – Hàn Mặc Tử-long, Yến Lan-lân, Quách Tấn-qui, Chế Lan Viên-phụng. Tuy ngẫu hứng gọi cho vui, nhưng nó lại vận đúng vào nhân cách và phong thái thơ từng người một cách kỳ lạ…

Đối với linh lân, nếu bạn nào chưa biết, hãy xem bài viết của nhà văn Lê Hoài Lương:

 

“ Ôi cái sự tình của ông, sao nghĩ tới thấy buồn thương.

Trong nhóm thơ Bình Định, ông là linh Lân. Lân, vận vào ông sao đúng thế. Sách xưa mô tả lân là linh thú, mình giống nai, đuôi giống trâu, móng như ngựa, lưng có lông ngũ sắc, bụng thì vàng, một sừng. Đặc biệt đây là con thú nhân đức, không ăn các sinh vật, đi cỏ không nát! Ông hiền lành đức độ một đời, văn nhân thi hữu nhiều lứa tuổi khác nhau đều chung nhận xét này. Linh lân lành hiền và từng chói sáng trên thi đàn với “Nhóm thơ Bình Định” và “Trường thơ loạn” ít nhất tới giờ mọi người vẫn ngưỡng mộ với Bến My Lăng và Bình Định 1935. Riêng Bến My Lăng cái bến thơ đẹp lộng lẫy và kỳ ảo không thể thiếu trong danh mục những bài thơ hay nhất nước Việt Nam thế kỷ XX .!….

Ông đã về với cái bến trăng huyền ảo của ông cách đây đúng 10 năm (nay là 17 năm NV). Lạ lùng thay lại nhằm đúng vào đêm trăng đẹp nhất trong năm: Trung thu. Ông lặng lẽ về với trăng trong niềm hân hoan lớn của trẻ nhỏ tùng cắc múa lân, ông – con linh – thú – lân lành hiền đi không làm đau cỏ!              (Báo Bình Định 5/10/2010)

 

Trong hơn 60 năm cầm bút, tại vùng đất võ Bình Định, cùng thời với Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên… nếu kể về công và tâm huyết cho quê thì Yến Lan không kém cạnh ai về tài, tri thức, tầm và sự sáng tạo trong nghệ thuật. Nhưng, thật công tâm mà nói thì không ai gắn bó với quê hương xứ sở bằng Yến Lan. Với quê, nơi chôn nhau cắt rốn; ông dành tình cảm của mình vào bốn bài thơ: Bình Định 1935, Bình Định 1945, Bình Định 1947 và Bình Đình 1976. Ông đã làm cho thị xã An Nhơn nói riêng và Bình Định nói chung trở nên bất hủ, để người người yêu thơ tìm đến chiêm ngưỡng, bởi vì có cái “Bến My Lăng” do ông đặt tên. Hơn thế nữa; thơ Ông viết về Bình Định với niềm  tự hào và vui sống bình dị, thanh bình ở miền có nhiều ánh trăng huyền hoặc. Nhưng đằng sau cái vẻ rất đời thường ấy trong Ông ẩn chứa cả một cuộc tự thanh lọc để giữ chất người của chính mình:

 

Sự nghiệp văn chương ông chọn để mưu sinh và tâm huyết cả đời, ông đã nghiệm ra nhiều điều và tự đánh giá mình bằng lời trăng trối với con khi biết qũi thời gian không còn nhiều; ông gọi hai con gái lớn lại và nói:

“Riêng hai con là phận gái ba mới nói điều này; ba nghèo không có gì để lại cho hai con, nhưng bù lại, suốt đời ba đã phấn đấu, đến giờ các con có quyền tự hào-mình là con của một người làm thơ biết tự trọng và khiêm tốn. Điều này còn quí hơn châu báu, tiền bạc, nhà cửa…”  Thực ra, ông không biết rằng, chúng tôi đã rất tự hào về người cha thi sĩ của mình; bởi vì hai đức tính này nghe thì rất bình thường, nhưng đã mấy ai làm được, nhất là vào những thời điểm mà chân giá trị đích thực của con người chưa được đặt đúng vị trí.

 

Tài năng của ông ư? Vì ông là một nhà thơ khiêm nhường nên ít ai quan tâm đến! Nhưng, ít ai biết, ngay những ngày mới đặt chân lên đất Bắc, khi Bác Hồ kêu gọi các văn nghệ sĩ soạn “Cương lĩnh mặt trận Tổ quốc diễn ca” để truyền bá trong nhân dân. Cùng soạn với ông, còn có 16 nhà thơ khác; nhưng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn tác phẩm của Yến Lan.

Nhà thơ Hữu Thỉnh – Phó Tổng thư ký thường trực Hội nhà văn Việt Nam, tại lễ tưởng niệm nhà thơ Yến Lan, tchức ở Hà Nội, ngày 8-10-1998. đã sơ lược quá trình hoạt động nghệ thuật của Yến Lan:

“…Tài năng của Yến Lan sớm nảy nở và sớm được khẳng định. Truyện ngắn đầu tay của Yến Lan bút danh là Xuân Khai được thưởng giải cao của báo Thanh Nghệ Tỉnh khi Yến Lan chưa đầy hai mươi tuổi. Truyện ngắn của Yến Lan liên tục được giới thiệu trên các tờ Tiểu thuyết thứ hai, Tiểu thuyết thứ năm và nhiều tờ báo khác. Yến Lan viết cải lương, viết kịch và thành lập đội kịch mang tên ông. Đoàn kịch Yến Lan với vở “Bóng giai nhân” đã từng lưu diễn ở Huế, Hà Nội. Thanh Hóa…

 

Còn trong Cách mạng  và 9 kháng chiến, đóng góp của Yến Lan cũng được nhà giáo dạy triết học tại Trường Đại học Qui Nhơn, thầy Cao Kế cho rằng:  “Nếu có một tác giả nào sau này viết về lịch sử thơ ca Cách mạng của Việt Nam và tỉnh Bình Định thì phải thấy cho hết con người Yến Lan đã đóng góp như thế nào và đánh giá cho đúng cái tác dụng to lớn những bài thơ Yến Lan đã viết khá hay trong những ngày đầu Cách mạng như: “Bình Định 1947”, một bài thơ mà nội dung phục vụ Cách mạng kịp thời và về phương diện nghệ thuật ai cũng phải công nhận là một bài thơ rất hay.

Chính những bài thơ ông làm lúc này đã có tác động đến đội ngũ trí thức làm cho họ tin vào Cách mạng và theo Cách mạng…”

 

Trước những đóng góp thầm lặng của Yến Lan cho nền Văn học Việt Nam và tỉnh Bình Định, Nhà thơ Trần Ninh Hồ đã chia sẻ nỗi day dứt trong lòng: “Vị trí của Yến Lan lớn, nhỏ đến đâu trong thi đàn nước nhà, điều đó còn chờ sự lắng đọng của nhận thức, phẩm bình và thời gian; nhưng có điều dễ thấy ở Yến Lan: Ông là một thi tài thật sự đặc sắc!”

 

Năm nay, là ngày giỗ thứ Mười Bảy của Yến Lan; tính ra, một khoảng thời gian cũng không phải là ngắn so với đời thi sĩ. Trãi qua khoảng thời gian đó, những oan trái đối với nghệ sĩ trong cái gọi là Nhân văn Giai phẩm, người ta đã sửa sai, người từng bị gán tội oan đã được hoàn lại đúng giá trị, phẩm giá và tài năng, như nhạc sĩ, Văn Cao, nhà thơ Nguyễn Bính, nhà thơ Quang Dũng v.v… đã và đang được Đảng, nhà nước khôi phục quyền lợi mà họ rất xứng đáng được quyền hưởng. Đã có những con đường, trường học mang tên Văn Cao, Quang Dũng, Nguyễn Bính, và cả nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tại nơi các ông sinh ra và tại thành phố lớn. Dẫu với Yến Lan, chỉ có thể có tại Qui Nhơn thôi, thì hầu như ông đang bị dần đi vào sự lãng quên, mặc dù khắp các trang web trên mạn dày đặt những thông tin về nhân cách, tài, đức của ông mà với bạn vong niên, đồng niên không thể phủ nhận được; thế mà Ông không có nỗi một con đường đàng hoàng ở thị xã An Nhơn, hay Thành phố Qui Nhơn mang tên ông, hay một phòng lưu niệm để lưu giữ những kỷ vật có thể là báu vật cho các thế hệ mai sau.

 

“Nhớ đến Yến Lan là người ta nhớ đến một nhà thơ, suốt đời ông sống cho thơ và cho quê, cho đến phút chót… Ông là con người của thơ ca, là những gì mà thơ mang trong mình nó: Thanh sáng, tinh túy và cao thượng. Ông yêu thơ trong thầm lặng như một mối tình dài (…), người làm thơ lớp sau gọi là “bố già” của loại thơ tứ tuyệt, tưởng đã mấy người được như thế” (Ngô Văn Phú).

 

 “Theo cảm nghĩ của tôi, với tài năng và sức lan tỏa của cụ, đáng lẽ cụ phải được quê

hương nhìn nhận ngay từ nhiều năm trước. Nhưng những ngày có hân hạnh hầu chuyện cụ Yến Lan, tôi biết tính cụ, ôn tồn, hòa nhã và hết sức tự trọng. Cho dù sự thiệt thòi luôn luôn xảy ra thuở sinh thời, điều ấy có hề chi với con người đã đi qua bao thăng trầm nhân thế, lặng lẽ trọng nghĩa nhân và ái ngại trước trò chơi phù thế ồn ào.   (Nguyễn Thanh Mừng)

 

Và người đọc cho rằng; Thơ tứ tuyệt tài hoa của thi sĩ Yến Lan, những bài thơ như là sự chắt chiu cả cuộc đời lao động nghệ thuật miệt mài và tâm huyết. Nhưng việc nghiên cứu và xuất bản thơ Yến Lan vẫn còn quá ít ỏi, chưa xứng với những đóng góp của ông cho thi ca dân tộc. Bởi vậy, nghiên cứu thơ ca Yến Lan để góp phần xác định vị trí vốn có và những đóng góp của ông trong nền thi ca nước nhà là việc làm cần thiết”

 

Dẫu rằng thời gian gần đây, một số bài báo trên báo chí cũng như các tạp chí chuyên ngành có quan tâm hơn đến tên tuổi Yến Lan và sự nghiệp văn thơ của ông. Có thể kể ra đây một số cái tên đáng chú ý như: Trần Minh Nguyệt, Xuân Tùng, Trần Ngọc Tuấn, Trần Hoàng Nhân, Mang Viên Long, Duy Phi… nhưng những cây bút trên mới dừng ở kể lại những dòng hồi ức gắn với nhà thơ Yến Lan, những kỉ niệm đẹp về con người chí tình chí nghĩa ấy chứ chưa có một công trình tập hợp đầy đặn nào mang tính nghiên cứu hay hội thảo về thơ Yến Lan như những nhà thơ khác.

Ngưỡng mộ tài, đức Yến Lan. Nhà thơ Trúc Thông, một tác giả cách tân thơ Việt Nam hiện nay, nhận xét về thơ tứ tuyệt của Yến Lan đầy cảm phục: “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già”. Một “bố già” hiền lành. Không cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm…”.

 

Ấy vậy mà những ghi nhận lặng lẽ đó không làm thay đổi được cách nhìn của quê huơng Bình  Định đốì với Yến Lan. Bởi, là con của ông, làm sao tôi có thể trả lời, giải thích những câu hỏi mà chỉ những người có trách nhiệm cao nhất về Văn học Việt Nam hay của tỉnh Bình Định mới trả lời được:

Chị LBT ơi, chị thử “kêu oan ” cùng lãnh đạo tỉnh Bình Định xem sao. Em nghĩ có thể lãnh đạo tỉnh thiếu thông tin chăng ? Hoặc bộ phận tham mưu quá yếu kém  (Khungcuahep:)

 

Có những day dức trong lương tâm người Bình Định:

“Ôi một danh nhân văn hóa Bình Định – Người thổi hồn cho đất và người Bình Định nhưng chưa được Quê hương Ông ghi nhận và tưởng thưởng công lao (Bạn có biết hiện nay, tại Quy Nhơn có rất nhiều tên đường là các nhà văn nổi tiếng Việt Nam nhưng chưa có tên đường Yến Lan và chưa có một nơi để làm Nhà lưu niệm cho đúng nghĩa tại Thị xã An Nhơn). Mong các nhà báo góp tiếng nói để Thi sĩ Yến Lan được an ủi, “ngậm cười” đối với hậu thế và lòng tri ân của quê hương đối với cuộc đời, sự nghiệp đã cống hiến cho quê hương”.

 

Song nặng lòng hơn là sự hoài nghi …

“Tôi thích thơ Yến Lan từ thưở học phổ thông. Ông là một tài năng thơ và một nhân cách mà thời đại ông không đủ bản lãnh và lòng tốt để chấp nhận. Cho nên nếu có bi kịch đến với ông thì hãy biến điều ấy thành thơ.   “Lê Hồng Ân”

Lâm Bích Thủy

(more…)

Read Full Post »

  Lâm Bích Thủy 

 NhathoYenLan

 

Năm 18 tuổi, học xong bậc trung học, ba tôi kiếm sống bằng dạy tư tại chùa Ông. Tối đến, ông làm thơ. Thơ ông đăng trên các báo: Phụ Nữ, Tiểu Thuyết Thứ năm (TTTN). Có lẽ ông sinh ra là để làm thi sĩ. Bởi từ những bài thơ đầu, đăng trên báo, người đọc gọi ông bằng cái danh từ dễ thương- Thi sĩ Xuân Khai. Cái từ thi sĩ” đã gieo vào lòng ông nỗi háo hức tiến sâu vào thế giới của văn chương là vậy! Bởi, nơi này ông có thể giải bày tâm tư, tình cảm và chia sẻ buồn vui  (more…)

Read Full Post »

Lâm Bích Thủy

hinh ong

Vào những năm 1930-45 thế kỷ 20, tại dải đất Bàn Thành, thị trấn An Nhơn thuộc Bình Định có bốn người bạn làm thơ, họp lại thành nhóm “Tứ hữu Bàn Thành”. Nhà nghiên cứu văn học thời bấy giờ tên Trần Kiên Mỹ, quê ở đất võ Tây Sơn, chơi thân với họ, ông yêu mến và nhận thấy thơ của bốn ông bạn tuy ngẫu nhiên nhưng sao tương ứng với các linh vật, thơ Hàn Mặc Tử thì như rồng (Long), thơ Yến lan lành như Lân, Quách Tấn như Qui, còn Chế Lan Viên như Phụng; vì vậy ông lấy tên các linh vật ấy đặt cho từng người và gọi nhóm với tên “Tứ Linh”. Từ đó, cái tên Tứ hữu Bàn Thành hay  Tứ Linh luôn song hành trong văn đàn là vậy đó. (more…)

Read Full Post »

Hồi ký của nhà thơ Yến Lan

tải xuống

 

Dường như tất cả những cuộc gặp gỡ trên thế gian đều do trời sắp đặt?  Có cuộc  gặp lảng mạn, sau đó trở thành một nửa của nhau, và có những cuộc gặp thú vị để rồi thành băng, nhóm v.v….   Xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của nhà thơ Yến Lan về buổi gặp mặt đầu tiên với Hàn Mặc Tử, và những liên quan giữa họ sau này..: (more…)

Read Full Post »

Lâm Bích Thủy

chandungHanMacTu MaiDinh

Trích HK “Về người cha thi sĩ”

Chương: Những người bạn của cha.

 

(more…)

Read Full Post »

Lâm Bích Thủy

hinh ong

Đúng ngày Rằm trung thu năm Quí Tỵ-2013, tròn ¼ thế kỷ; cha tôi – nhà thơ Yến Lan trong cõi vĩnh hằng- mười lăm năm ấy là một quãng thời gian không dài so với hàng ngàn năm lịch sử dâu bể của một dân tộc. Nhưng, với chúng tôi –con cháu Ông thì quá dài, bởi người cha thân yêu của minh vắng bóng! Dẫu cha không còn, chúng tôi; dù xa quê từ nhỏ và cơ hồ như mất gốc, nhưng vẫn luôn nhớ về nơi cha sinh; vì ngoài tình ruột thịt, máu mủ ra, đã hơn 60 năm rồi mà vẻ đẹp lãng mạng kỳ bí của ánh trăng “Rơi vàng trên mặt sách” và tiếng gọi đò của chàng kỵ mã áo xanh “run rẫy cả ngành trăng” trên con sông Côn của quê hương trong đêm khuya thuở nào vẫn văng vẵng bên tai chúng tôi. (more…)

Read Full Post »

Lâm Bích Thủy

YenLan

 

Đối với nghiệp cầm bút của ba tôi, chỉ là vô tình, sao đời thơ ông lại tựa như ý tình trong “Bến My Lăng”. Ông  cặm cụi chèo trên bến sông thơ, thuyền ông đã chở nặng những dòng thơ cuộc đời, nhưng khách thơ tìm đến chỉ ngắm nghía qua loa rồi bỏ đi, bỡi đó chỉ là những bài nghiên cứu nhỏ mang tính chất cảm xúc là chính. (more…)

Read Full Post »

Lâm Bích Thủy

NguyenThanhLong

 

Trước đây, tôi từng nghe một vài nhà báo trẻ nói: “Ba chị là người thật hạnh phúc, vì có chị”. Tôi nghĩ, đó là lời an ủi làm quà. Nào ngờ, mới đây, cô bạn học sinh Miền Nam, từ Hà Nội gọi điện vào, gần cả  tiếng đồng hồ cũng nói về chuyên mục này. Bạn là đọc giả tích cực của báo VNCA, kể lại

Nhân đọc bài viết trên báo VNCA tháng 2 mới biết mẹ cậu mất; tớ xin chia buồn với cậu”. Tuy đã biết chuyện về ba má tôi, nhưng bài báo bạn không nhớ tên tác giả đã khiến bạn càng cảm phục cái nghĩa, cái tình của một người vợ đối với người chồng của mẹ tôi. (more…)

Read Full Post »

Older Posts »