Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Hiếu Tân’

Đứa con của Desiree

Kate Chopin

Hiếu Tân dịch

*

Nói đến Mỹ, người ta nghĩ ngay đến một giống người luôn khát khao tự do và công lý, và sớm hơn ai hết, họ đã từng hiện thực hóa nó dưới ánh mặt trời này. Nhưng đó chỉ là mặt sáng, mặt dương, mà nhiều người đã biết. Còn một mặt khác, mặt tối, mặt âm mà không phải ai cũng biết. Nó đây.

Truyện viết năm 1892 nhưng ngán thay, ở thời điểm này nó vẫn không hề là chuyện cũ.

HT

*

1.

Một ngày đẹp trời, Madame Valmonde tới L’Abri thăm Desiree và đứa con mới sinh của cô. Cứ nghĩ đến Desiree với đứa bé mới sinh là bà lại buồn cười. Như chỉ mới hôm qua, cái ngày ông nhà chạy xe qua cổng nhà Valmonde nhìn thấy nó đang nằm ngủ dưới bóng cây cột đá to, nó còn nhỏ hơn một bé sơ sinh. Con bé thức dậy trong tay ông và kêu “dada”. Đấy là tất cả những gì nó có thể làm, hoặc nói. Có người nghĩ con bé có lẽ đi lạc ở đó, vì nó mới ở tuổi chập chững biết đi. Phần đông tin rằng nó bị một đám người Texas cố ý bỏ rơi, chiếc xe mui bạt của họ lúc cuối ngày còn qua phà Coton Mais, bên dưới đồn điền. Madame Valmonde bỏ qua mọi suy đoán, chỉ nghĩ rằng Chúa lòng lành đã gửi Desiree đến làm đứa con yêu thương của bà vì biết bà không có con đẻ. Con bé lớn lên xinh đẹp và hiền dịu, trìu mến chân thành, được Valmonde hết mực thương yêu. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi cậu Armand nhà Aubigny chạy xe qua thấy cô nàng đứng đó, tựa lưng vào cây cột mà cách đây 18 năm cô đã nằm ngủ dưới chân, đã đem lòng yêu ngay. Đó là cách yêu của đám đàn ông con trai nhà Aubigny – như thể bị đốn ngã bởi một phát súng lục. Điều đáng ngạc nhiên là trước đó cậu chưa hề yêu cô, dù cậu đã biết cô từ năm lên 8 khi cha cậu đem cậu từ Paris về, sau cái chết của mẹ cậu. Tình yêu cuồng nhiệt bừng dậy trong cậu hôm đó, hôm cậu thấy cô đứng ở cổng, cuốn đi như một trận tuyết lở, hay như một đám cháy trên cánh đồng, hay như bất cứ thứ gì chúi đầu lao đi băng qua mọi trở ngại. Ông Valmonde trở nên thực tế và muốn mọi sự phải được xem xét kỹ: đó là, nguồn gốc mờ tối của cô gái. Armand nhìn sâu vào mắt nàng và khôg quan tâm. Cậu được nhắc rằng cô áy không có một cái tên. Một cái tên thì hệ trọng gì khi cậu có thể cho cô một cái họ lâu đời nhất và danh giá nhất ở Louisiana. Cậu đặt mua một giỏ đồ sinh lễ từ Paris, và cố nén cơn nóng lòng chờ nó đến; rồi hôn lễ được cử hành.

2.

Đã bốn tuần rồi Madame Valmonde chưa thăm lại Desiree và đứa bé. Lúc đến gần Abri, lần nào cũng thế bà rùng mình khi thoạt nhìn thấy nó. Nhìn nơi này người ta thấy buồn thảm, vì nhiều năm rồi không có bóng dáng dịu dàng của một bà chủ. Ông già Aubigny đã cưới và chôn bà vợ của mình ở Pháp, và bà ấy yêu mảnh đất của bà đến nỗi không nỡ rời bỏ nó. Mái nhà dốc xuôi xuống và đen như một chiếc khăn thầy tu, trùm ra ngoài những hành lang rộng bao quanh ngôi nhà trát vữa stucco vàng. Những cây sồi lớn, thâm nghiêm mọc gần nhà, và những cành dầy lá, vươn xa của chúng che bóng như một tấm vải phủ quan tài. Cậu Aubigny cũng có quy tắc của cậu, dưới quy tắc ấy những người da đen của cậu đã quên thế nào là vui vẻ, như thời ông chủ cũ dễ tính và thoải mái còn sống. Người mẹ trẻ phục hồi chậm chạp, nằm duỗi dài trên chiếc đivăng, trong bộ đồ mutxơlin trắng và những đăng ten. Đứa bé nằm cạnh nàng, gối lên cánh tay nàng và áp vào ngực nàng ngủ. Bà vú người da vàng ngồi cạnh cửa sổ tự quạt cho mình. Madame Valmonde nghiêng thân hình đẫy đà của bà trên nàng và hôn nàng, trong giây lát âu yếm bà ôm nàng trong tay. Rồi bà quay sang đứa bé. “Thằng bé này mà là mới đẻ đây à!” bà kêu lên bằng một giọng làm giật mình. Tiếng Pháp là thứ tiếng được nói ở Valmonde ngày ấy. “Con biết là nhất định má phải ngạc nhiên”, Desiree cười, “thấy nó lớn nhanh thế. Đúng là con lợn sữa. Má nhìn chân nó này, tay nó, và cả những móng tay nữa – những móng tay thật sự. Zandrine vừa mới phải cắt cho nó sáng nay. Không đúng à, Zandrine?” Người đàn bà cúi mái đầu quấn khăn một cách kính cẩn. “Dạ đúng, thưa bà”. “Và cái cách nó gào” Desiree tiếp tục “Thật điếc tai. Hôm kia Armand từ mãi nhà La Blanche cũng nghe thấy nó.” Madame Valmonde không lúc nào rời mắt khỏi thằng bé. Bà bế nó lên và đi ra gần cửa sổ, chỗ sáng nhất. Bà xem xét kỹ thằng bé, rồi nhìn Zandrine vẻ dò hỏi, bà này đang quay mặt đi, mắt nhìn chăm chăm phía cánh đồng. “Phải, thằng bé đã lớn lên, đã thay đổi”. Madame Valmonde nói chậm rãi khi bà đưa trả thằng bé về chỗ cũ. “Armand nói gì?” Mặt nàng đỏ ửng, nóng bừng vì hạnh phúc.

3

“Ôi, con nghĩ Armand phải là ông bố hãnh diện nhất giáo khu, chủ yếu vì nó là con trai để mang họ anh ấy, dù anh ấy không nói – anh bảo rằng con gái anh ấy cũng yêu. Nhưng con biết là không đúng. Con biết anh ấy nói thế chỉ để con vui. Và, má ơi” nàng kéo đầu Madame Valmonde lại gần mình, thầm thì nói thêm, “anh ấy không trừng phạt người nào trong bọn họ – không một ai – từ ngày sinh thằng bé. Ngay cả Negrillon, nó giả vờ bị bỏng ở chân để trốn việc – anh ấy chỉ cười và bảo Negrillon là thằng đểu. Ôi má ơi, con hạnh phúc quá, đến nỗi phát sợ.” Những điều Desiree nói đều đúng. Việc lấy vợ và sau đó có con đã làm cho bản tính hống hách, độc đoán và quá quắt của Armand Aubigny dịu đi rất nhiều. Đấy là điều khiến Desiree hiền dịu hết sức vui mừng, vì nàng yêu gã vô cùng. Khi gã cau mày là nàng run lên, nhưng vẫn yêu. Khi gã mỉm cười, nàng cảm thấy không cần cầu xin Chúa ân sủng gì hơn nữa. Nhưng từ ngày yêu nàng, khuôn mặt âm u, điển trai của Armand không thường xuyên cau có nữa, Lúc thằng bé được khoảng ba tháng tuổi, một đêm Desiree thức dậy và tin chắc rằng có cái gì đó trong không trung đe dọa sự yên bình của nàng. Lúc đầu nó quá mơ hồ không nắm bắt được. Chỉ là một chút lo âu; một vẻ gì bí mật trong số những người da đen, những cuộc viếng thăm không chờ đợi từ những người láng giềng xa không nói được lí do thăm viếng. Rồi một sự thay đổi lạ lùng, đáng sợ trong tính khí của chồng nàng, mà nàng không dám đòi gã giải thích. Khi nói với nàng, đôi mắt gã lảng tránh, trong đó ánh sáng yêu thương ngày trước dường như đã tắt ngấm. Hắn luôn vắng nhà, và khi về, tránh sự có mặt của nàng và đứa con, mà không hề giải thích. Và dường như chính linh hồn quỷ Satan đã nhập vào cách hắn đối xử với những người nô lệ. Desiree đau khổ tưởng chết. Một buổi chiều nóng nực, nàng ngồi trong phòng, trong chiếc áo choàng tắm, thẫn thờ luồn ngón tay qua những lọn tóc nâu dài óng mượt. Thằng bé mình trần nằm ngủ trên chiếc phản gỗ của nàng như trên ngai vàng lộng lẫy với tấm màn bằng xa tanh nhăn nheo của nó. Một trong những thằng bé lai một phần tư đen của nhà La Blanche – cũng ở trần – đứng quạt chầm chậm cho thằng bé bằng một chiếc quạt lông công. Đôi mắt Desiree trống rỗng và buồn bã dán chặt vào đứa con, trong khi nàng cố sức xuyên qua màn sương dày đặc mà nàng cảm thấy đang bọc kín nàng. Nàng nhìn hết từ đứa con đến thằng bé đứng bên, nhìn đi nhìn lại. “Á” một tiếng kêu nàng không thể kìm khỏi phát ra một cách vô thức. Máu như đông lại trong huyết quản nàng, một chất sền sệt lạnh ẩm tràn trên mặt nàng.

4.

Nàng cố nói với thằng bé lai, nhưng lúc đầu không thốt nên lời. Khi nghe gọi đến tên mình, nó ngẩng nhìn lên và thấy bà chủ chỉ tay ra cửa. Nó bỏ chiếc quạt to mềm xuống, vâng lời lẻn đi, nhón chân trên sàn nhà bóng loáng. Nàng vẫn ngồi bất động, mắt dán chặt vào đứa con, sắc mặt lộ rõ vẻ sợ hãi. Ngay lúc đó chồng nàng bước vào phòng, không nhìn đến nàng, đi thẳng đến chiếc bàn và bắt đầu lục lọi giấy tờ. “Armand” nàng gọi gã bằng một giọng lẽ ra phải khiến gã đau nhói, nếu gã là một con người. Nhưng gã không để ý. “Armand” nàng lại gọi. Rồi nàng đứng lên và lảo đảo bước về phía gã. Nàng nắm chặt cánh ta gã, hổn hển lần nữa, “Armand, anh nhìn con của chúng ta đi. Điều này có nghĩa gì? Nói cho em đi” Gã lạnh lùng nhưng nhẹ nhàng gỡ những ngón tay nàng khỏi cánh tay gã, hất bàn tay nàng ra. “Nói cho em biết điều ấy có nghĩa là gì,” nàng gào lên tuyệt vọng. “Nó có nghĩa là,” gã trả lời nhẹ nhàng, “đứa bé không phải là da trắng, nó có nghĩa là cô không phải da trắng”. Nhận thức chớp nhoáng về lời kết tội này có ý nghĩa gì đối với nàng đã cho nàng một can đảm phi thường để chối bỏ nó. “Đó là nói dối, không phải sự thật. Em là da trắng, Hãy nhìn tóc em, nó màu nâu, và mắt em màu xám. Armand, anh biết nó màu xám. Và da em trắng,” nàng nắm lấy cổ tay gã, “Hãy nhìn tay em, nó trắng hơn tay anh, Armand,” nàng cười điên dại. “Trắng như bọn La Blanche,” gã trở lại dữ dằn, và bỏ đi để mặc nàng một mình với dứa con của hai người. Khi đã có thể cầm được một cây bút trong tay, nàng gửi một bức thư tuyệt vọng cho Madame Valmonde. “Má ơi, họ bảo rằng con không phải là da trắng. Armand đã nói với con rằng con không phải da trắng. Vì Chúa má hãy nói với họ rằng điều đó không đúng đi. Chắc chắn má phải biết rằng điều đó không đúng. Con sẽ chết. Con phải chết. Con không thể đau đớn đến thế, mà vẫn sống.” Thư trả lời đến, ngắn gọn “Desiree con yêu của má: Về nhà đi, về với Valmonde; về với má của con luôn yêu con. Đưa con của con về.” Khi lá thư đến tay Desiree nàng cầm nó sang phòng làm việc của chồng, đặt nó mở trên bàn làm việc nơi gã vẫn ngồi. Nàng trông giống như một tượng đá: im lặng, trắng toát, bất động sau khi nàng dặt nó ở đấy.

5.

Gã im lặng lướt mắt qua những dòng chữ viết. Gã không nói gì. “Em phải đi à, anh Armand?” nàng hỏi với giọng sắc nhọn trong chờ đợi đau đớn. “Phải. Đi.” “Anh muốn em đi à?” “Phải. Tôi muốn cô đi.” Gã nghĩ Đức Chúa Toàn năng đã xử độc ác và bất công với gã, và dù sao gã cũng đáp trả ngài đúng như thế khi gã đâm một nhát vào linh hồn vợ gã. Hơn nữa gã không còn yêu vợ nữa vì vết thương vô thức nàng đã gây ra cho nhà gã và tên tuổi gã. Nàng quay đi như bị giáng một đòn choáng váng, bước chậm chạp về phía của, hi vọng gã có thể gọi nàng quay lại. “Tạm biệt, Armand,” nàng nức nở. Gã không tra lời. Đó là đòn cuối cùng của gã giáng vào số phận nàng. Desiree đi tìm con nàng. Zandrine đang bế nó đi dọc hành lang mờ tối. Nàng đỡ lấy đứa con từ tay nguòi vú mà không lời giải thích, rồi bước xuống các bậc tam cấp, bước đi dưới những cành cây sồi sống. Đó là một buổi chiều tháng Mười, mặt trời vừa lặn. Trên những cánh đồng lặng lẽ những người da đen đang hái bông. Desiree chưa thay bộ quần áo trắng mỏng và đôi dep nàng đang đi. Nàng để đầu trần và những tia mặt trời rọi một ánh vàng lên mái tóc màu nâu của nàng. Nàng không đi theo con đường lớn bằng đất nện dẫn đến đồn điền ở xa của Valmonde. Nàng bước qua cánh đồng hoang nơi những gốc rạ sắc cứa bàn chân thanh mảnh của nàng, và xé toạc váy nàng. Nàng mất hút trong đám sậy và liễu mọc dày dọc hai bên bờ nhánh sông sâu lờ đờ chảy, và nàng không xuất hiện trở lại.

Vài tuần sau, một cảnh tượng quái đản diễn ra ở L’Abri. Ở giữa một sân sau được quét dọn sạch sẽ có một đống lửa lớn. Armand Aubigny ngồi trong một hành lang rộng nhìn bao quát toàn bộ quang cảnh; chính gã phân phát cho một đám nửa tá da đen những vật liệu giữ cho ngọn lửa cháy sáng. Một chiếc nôi xinh xắn đan bằng cành liễu được trang trí thanh nhã đặt trên giàn thiêu ấy, bên trong chất đầy những tã lót đắt tiền. Rồi có những áo dài lụa, nhung và xa tanh, người ta bỏ thêm vào đó cả đăng ten, đồ thêu; những mũ và găng tay phụ nữ, vì giỏ đồ sinh lễ ấy thuộc loại thượng hảo hạng.

6.

Món đồ cuối cùng phải thiêu là bó nhỏ những lá thư, những nét chữ ngây thơ vô tội mà Desiree gửi cho gã trong những ngày vợ chồng nồng ấm. Dưới đáy cái ngăn kéo mà gã lấy bó thư này ra, có một tàn tích nữa. Nhưng đó không phải của Desiree, nó là một phần thư từ mà mẹ gã gửi cho cha gã. Gã đọc. Bà cảm ơn Chúa vì tình yêu của người chồng là phúc lành mà Chúa ban cho bà – “Nhưng trên hết mọi điều,” bà viết, “ngày và đêm em cảm ơn Chúa đã sắp xếp cuộc sống của chúng ta để Armand thân yêu sẽ không bao giờ biết rằng mẹ nó, người hết lòng thương yêu nó, thuộc về một chủng tộc chịu số phận khốn khổ phải mang cái nhãn nô lệ.”

10.11.2025

Read Full Post »

.Hiếu Tân

John Ottrando, người lính cứu hỏa New York, chẳng mất mấy thời gian để lao đến tòa tháp phía bắc trong cái buổi sáng ngày 11 tháng Chín năm 2001 ấy. Bây giờ, sau gần 10 năm, những hình ảnh từ ngày ấy vẫn bám riết chưa lúc nào rời ông. Nhưng ông có những cảm xúc xáo trộn về cái chết của Osama bin Laden.

Vào sáng 11 tháng 9, 2001, John Ottrando là một trong những lính cứu hỏa đầu tiên xông vào tòa tháp phía bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới đang ngập trong bể khói. Ông đến với Engine 24. Chỉ trong một ngày duy nhất đó, ông đã mất 13 đồng nghiệp và bạn từ trạm cứu hỏa của ông ở Greenwich Village. Chín năm và 232 ngày sau đó, khi ông nghe tin Osama bin Laden chết, ông không biết nghĩ gì. Thay vì suy nghĩ, ông bắt đầu nói oang oang như một đứa trẻ.

Ottrando năm nay 54 tuổi, là một người đàn ông to khỏe, rắn chắc nở nang, là cháu của những người nhập cư Italia, là người ủng hộ Obama và một người New York tự hào. Cách đây không lâu ông nghỉ hưu từ Cục Cứu hỏa Thành phố New York sau 24 năm phục vụ. Ông nói ông đã có đủ, và ông đủ can đảm để thú nhận rằng ông chưa bao giờ có khả năng đẩy những hình ảnh, âm thanh, mùi và những cảm giác của ngày 11/9 ra khỏi đầu mình.

Thật ra, chúng đã thành một phần cố định của cuộc đời ông. Có những hình ảnh về những xác người cháy đen trong hành lang, chết khi lửa tuôn ra từ thang máy. Có cảnh những người rơi thẳng xuống đất bên trái và bên phải ông và nỗi sợ bị những loạt thân người rơi như mưa đá ấy đụng phải. Có những tình cảm mơ hồ như có tội vì đã sống sót. Và, cuối cùng, có tiếng động không thể nào quên của các tòa tháp đang sụp xuống.

Ottrando không thể nào nói chính xác tại sao ông lại khóc khi Tổng thống Barack Obama loan báo cái chết của bin Laden. Ông nghiền ngẫm thật lâu khi ngồi trong phòng điện thoại bọc da ở Lower East Side’s Trattoria Il Bagatto ngốn ngấu một đĩa gnocchi[1]. “Tôi thấy nhẹ nhõm,” ông nói, “nhẹ nhõm, nhưng, vâng, cũng có phần trả thù.”

Một hình ảnh truyền thông gây phản cảm

Dù sao, ông nói thêm, cái chết của bin Laden không làm cho ai đã chết sống lại được. Hơn nữa, ông nói rằng, từ 11/9, ông đã tự hỏi mình ít nhất mỗi ngày một lần tại sao người ta phải tiếp tục giết chóc lẫn nhau.

Những tình cảm của John Ottrando rất hợp với tình cảm của hầu hết những người dân New York những ngày này. Ông thấy những hình ảnh trên ti vi về đồ đạc của những người say bia rơi vãi trên quảng trường Thời Đại, của những người hô to “U-S-A” và những đám đông vui mừng xung quanh Ground Zero[2] là những hình ảnh của truyền thông gây phản cảm, loại hình ảnh méo mó mà các kênh TV làm ra trong những ngày này khi họ khua chiêng gõ trống để nâng cho đủ tầm quan trọng.

Thật ra, trong đêm Chủ nhật, khi Obama có được tin vui để có thể loan báo về cái chết của kẻ thù chung số một của người Mỹ, thì ở NewYork chưa có đám đông nào ra đường và tụ tập – kể cả gần Ground Zero lẫn quảng trường Thời đại. Kể cũng có vài trăm người ra các đường phố, nhưng như thế không có gì là nhiều trong một thành phố đô hội như New York. Đa số họ là những người quá trẻ đến mức khi Trung tâm Thương mại Thế giới sụp đổ thì chắc họ vẫn còn là trẻ con.

Ottrando nói rằng “việc vẫy những lá cờ Mỹ nhỏ” thậm chí chưa bao giờ thoáng qua trí óc ông vào đêm chủ nhật. “Có một số trẻ em, có lẽ từ Ohio hay nơi nào khác đến,” ông nói, “chúng chẳng biết mô tê gì về điều đang xảy ra ở đây.”

Vì cuộc tập kích đánh bin Laden đã đẩy nhanh lên phía trước kỷ niệm 10 năm ngày 11/9 trong trí óc nhân dân, khó mà xác định chính xác nó là như thế nào. Tâm trạng ở New York những ngày này là thờ ơ, không chắc chắn, thậm chí khó hiểu. Nó hơi giống gương mặt xanh xao của Ottrando, rất khó đọc ra. Khó mà nói được cái ngày chấn thương ấy vẫn còn ám ảnh ông biết bao nhiêu hay mọi sự việc đã qua đối với ông như thế nào trong thập kỷ vừa rồi.

Một người New York tự hào

Ottrando nói ở đây nhận ra rằng việc hành hình bin Laden sẽ không giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Mọi người cũng biết rằng không có lý do gì để ăn mừng khi một người nào đó bị giết bằng những phát súng bắn vào đầu và ngực.  Ông thú nhận rằng có những cảm giác thỏa mãn, một cảm giác rằng bin Laden đã lãnh cái mà ông ta đáng phải chịu. Các tờ báo của thành phố đã mô tả lặp đi lặp lại cái khoảnh khắc “vui buồn lẫn lộn” và Ottrando thấy nó là một mô tả thích hợp.

Tuy nhiên, dù cho người New York nghĩ gì, kẻ thù lớn nhất của thành phố này đã bị loại trừ. Bin Laden là người đã kích động những kẻ ủng hộ ông ta mưu đồ đánh bom quảng trường Thời đại và là người đã muốn thấy cầu Brooklyn sập. Ông ta ghét mọi thứ của thành phố này, cái sinh khí của nó, cái tự do của nó, sự thiếu những cấm đoán hạn chế của nó và cái sáng chói rực rỡ của nó.

Và thậm chí dù không biết John Ottrando, Osama bin Laden cũng cứ ghét ông. Dõng dạc như một người New York tự hào bước ra từ trong phim, Ottrendo nói: “Thành phố này bao dung tất cả những gì trái với ý muốn của con người ở đây. Và điều đó bao gồm cả những tín đồ Cơ đốc, những tín đồ Hồi giáo, những người theo Phật giáo và những gì đã khiến anh sống tốt ở đây hay ít nhất để cho người khác yên ổn. Họ sẽ không bao giờ hiểu được điều đó, và chúng tôi sẽ không bao giờ làm theo cách khác.”

Thị trưởng New York Michael Bloomberg cũng không phát biểu hay hơn thế khi ông diễu hành đến Ground Zero với một đoàn tùy tùng đông đảo vào chiều hôm thứ Hai. Những người viết diễn văn cho ông đã soạn một bài diễn văn hùng hồn và thích hợp mà sếp của họ đọc một cách trịnh trọng với một công trường xây dựng lớn làm phông nền sau lưng.

Tinh thần chưa bao giờ mạnh hơn bây giờ

“Osama bin Laden đã chết,” Bloomberg đọc vào đám 23 camera truyền hình và nhiều nhiếp ảnh gia khác, “và công trường Trung tâm Thương mại Thế giới” đang náo nhiệt với cuộc sống mới. Osama bin Laden đã chết, và vùng Hạ Manhattan đang sôi động với hoạt động mới. Osama bin Laden đã chết, và tinh thần của thành phố New York chưa bao giờ mạnh hơn.”

Sau đó, trong khi đi một vòng quanh hố xây dựng của Trung tâm Thương mại Thế giới mới, Bloomberg được hỏi ông nghĩ gì khi cái tin Bin Laden chết đến với ông. Giống như John Ottrando, ông nói những ý nghĩ đầu tiên của ông là về các nạn nhân. Ông nói ông tự hỏi mình về cống hiến mà 3.000 con người có thế đã làm cho cuộc sống của thành phố này. Ông nói, đó là điều mà ông tự hỏi ông hầu như hằng ngày.

Tiếp sau diễn văn của Bloomberg là những phát biểu của các chỉ huy cảnh sát và cứu hỏa, những người này khuyên các công dân thành phố hãy cảnh giác trước nguy cơ đang lên cao của những cuộc tấn công trả thù. Mặc dù ông thường thích bỏ qua mọi lời cảnh báo, ngay cả Ottrando lúc này cũng tính đến điều xấu nhất. Ông thích bài diễn văn của Bloomberg, đặc biệt những đoạn nói về sức mạnh của New York và tinh thần vô song.

Ngày 11 tháng 9 đã ghi dấu ấn của nó vào các đường phố và các tòa nhà chọc trời như một quá khứ nặng nề không thể xóa mờ, nó sống mãi với những ký ức của nhiều người, trong những hình ảnh, những câu chuyện, những dịp kỷ niệm và thậm chí trong cả những cuộc cãi vã bất tận.

Quả thật cũng phải mất một thời gian trước khi đi đến quyết định cuối cùng rằng có nên xây dựng lại Ground Zero hay không. Đã có một sự chậm trễ kéo dài trước khi tìm được những nhà thầu tin vào dự án này. Và vấn đề liệu có nên cho phép một trung tâm văn hóa Hồi giáo và một thánh đường Hồi giáo chuyển đến gần Trung tâm Thương mại Thế giới không đã gây ra sự chia rẽ chính trong lòng nước Mỹ, đến nỗi phải đưa ra trước Quốc hội và Nhà Trắng.

Can đảm nói thẳng lòng mình

Trong nhiều năm, những nạn nhân của cuộc tấn công khủng bố và thân nhân của những người bị giết đã phàn nàn về tình trạng thiếu đoàn kết. Ottrando nói rằng nhiều hứa hẹn không được thỏa mãn, như lời hứa trang bị cho cảnh sát và lính cứu hỏa những thiết bị tối tân nhất. Đài tưởng niệm tại quang cảnh nơi xảy ra thảm họa, ban đầu là quan tâm hàng đầu của mọi bước phát triển mới, đã mất đi phần lớn sự tập trung chú ý khi các kế hoạch đưa ra.

Thật ra, thành phố này đang trong thời kỳ khó khăn hơn trong việc đối phó với những gì ngày 11/9 để lại. Người dân có xu hướng ít hăng hái hơn Ottrando, là người mạnh dạn công khai nói ra những tình cảm trái ngược của mình. “Đôi khi tôi bị nỗi sợ dày vò, như vừa rồi,” ông nói. “Nhưng nó luôn luôn biến đi. Nếu tôi nghe tiếng ồn lớn, thì tôi cảnh giác. Đại loại như thế.”

Loại sự việc như thế đã thành một phần của cuộc sống của New York trong gần mười năm, vì cuộc tấn công ấy như từ trên trời rơi xuống. Mặc dù cái nghị lực không ngơi nghỉ và hoạt động suốt ngày đêm, người ta vẫn nói về một thành phố bị thương. Giống như nhiều thành phố châu Âu, nó đã trở thành nơi chứa đầy những nỗi ám ảnh đau đớn âm thầm.

Bất cứ lúc nào có thể là Ottrando tránh xa những đám đông và luồng xe cộ tấp nập hình thành xung quanh công trường xây dựng lớn trước đây từng là Ground Zero và sẽ mãi mãi còn để lại một bãi tha ma.

Một người lính cứu hỏa ở New York

Ông đặc biệt tránh nó những ngày này. Từ khi có tin về cái chết của Bin Laden, hàng chục đoàn quay phim đã chen kín các đường phố xung quanh Ground Zero để quay phim các sự kiện sẽ được cả thế giới theo dõi, như bài diễn văn của Obama. Ottrando chậm rãi thở ra qua làn môi bĩu. Đối với ông tất cả những cái ấy giống như một trò xiếc.

Ottrando nói bây giờ cuộc sống của ông tập trung vào hai cậu con trai, năm nay 16 và 19 tuổi, khi 11/9 xảy ra chỉ mới 6 và 9 tuổi. Khi những tin tức về cái chết của Obama đến, cậu trai lớn gọi điện về nhà hỏi bố đang làm gì đó. Ottrando trả lời rằng ông vẫn ổn bằng giọng ngắc ngứ trong khi ông cố giấu rằng ông đang khóc.

Năm phút sau, cậu trai gọi lại và hỏi mọi việc có thật sự ổn không đấy. “Nó lo lắng,” Ottrando nói. Ông nói thêm rằng ông tự hào về hai con trai của mình, giải thích thằng nhỏ ở trường học giỏi như thế nào và có thể vào đại học. Thằng lớn gần đây tuyên bố rằng nó muốn trở thành một người lính cứu hỏa – nhưng chỉ ở thành phố New York này thôi./.

Josh Ward dịch từ tiếng Đức

Read Full Post »

(Bài diễn từ có tên Ánh sáng và sợi chỉ [Light and Thread] của Han Kang phát biểu bằng tiếng Hàntại Viện Hàn lâm Thụy Điển ở thành phố Stockholm hôm 7/12).

Đỗ Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Anh trên trang web của giải Nobel.

Hiếu Tân hiệu đính.

Tháng 1 năm ngoái, khi dọn kho để chuyển nhà, tôi tìm thấy một hộp giày cũ. Tôi mở hộp, tìm thấy vài cuốn nhật ký thời thơ ấu. Trong đống nhật ký, có một xấp giấy mỏng, trên ghi bằng bút chì Một tập thơ. Cuốn sách mỏng này gồm năm tờ giấy A5 gấp đôi và đóng bằng kim bấm. Tôi đã thêm hai đường ngoằn ngoèo dưới tiêu đề, một đường đi lên sáu bậc về bên trái, đường kia đi xuống bảy bậc hướng sang phải. Đó có phải là một kiểu minh họa bìa? Hay chỉ đơn giản là một hình vẽ nguệch ngoạc? Mặt sau xấp giấy ghi năm 1979 và tên tôi. Bên trong có tổng cộng tám bài thơ viết bằng nét bút chì gọn gàng giống như ở bìa trước và sau. Cuối mỗi bài thơ ghi một ngày khác nhau, theo thứ tự thời gian. Những dòng chữ của tôi khi lên tám rất ngây thơ và thiếu trau chuốt, nhưng một bài thơ viết vào tháng 4 đã thu hút sự chú ý của tôi. Nó mở đầu với những câu sau:

Tình yêu ở đâu?
Nó nằm trong lồng ngực đập thình thịch của tôi.
Tình yêu là gì?
Nó là sợi chỉ vàng kết nối trái tim của chúng ta

Trong chớp mắt, tôi quay ngược về bốn mươi năm trước, nhờ kỷ niệm về buổi chiều tôi loay hoay đóng cuốn sổ thơ. Cây bút chì ngắn của tôi đậy bằng nắp bút bi, bụi từ cục gôm, chiếc kẹp giấy lớn tôi lén lấy từ phòng của cha. Tôi nhớ là sau khi biết gia đình mình sắp chuyển đến Seoul, tôi có động lực thu thập những bài thơ viết rải rác trên những mẩu giấy nhỏ, hoặc bên lề sổ tay, vở bài tập và hoặc giữa các đoạn nhật ký, gom chúng lại thành một quyển duy nhất. Tôi cũng hồi tưởng lại cảm giác không muốn cho ai xem “tập thơ” của mình khi nó hoàn thành.

Trước khi đặt xấp nhật ký và tập thơ nhỏ trở về chỗ cũ và đóng nắp hộp lại, tôi đã chụp ảnh bài thơ đó bằng điện thoại. Bởi vì tôi cảm nhận được tính liên tục giữa những từ mà tôi đã viết vào thời thơ ấu với con người tôi hiện tại. Trong lồng ngực tôi, trong trái tim đập thình thịch của tôi. Giữa trái tim của chúng ta. Sợi chỉ vàng nối kết – một sợi chỉ phát sáng.

Han Kang ở buổi phát biểu nhận Nobel Văn học 2024. Ảnh: Anna Svanberg

***

14 năm sau, với việc xuất bản bài thơ và truyện ngắn đầu tiên, tôi trở thành nhà văn. Sau năm năm nữa, cuốn tiểu thuyết dài đầu tiên mà tôi viết trong ba năm được phát hành. Từ đó đến nay, quá trình làm thơ, viết truyện ngắn luôn cuốn hút tôi, nhưng viết tiểu thuyết luôn có hấp lực đặc biệt. Mỗi cuốn tiểu thuyết dài tiêu tốn của tôi từ một đến bảy năm để hoàn thành, chúng khiến tôi đánh đổi đáng kể cuộc sống cá nhân của mình. Đây cũng chính là điều thu hút tôi vào công việc này. Suy ngẫm về những câu hỏi mình cho là cần thiết và cấp bách, tôi đắm chìm sâu sắc đến nỗi chấp nhận sự đánh đổi.

Mỗi khi sáng tác tiểu thuyết, tôi chịu đựng những câu hỏi, tôi sống trong chúng. Lúc đi đến cùng những câu hỏi này không đồng nghĩa với đã tìm ra câu trả lời, mà là lúc tôi chạm đến điểm cuối của quá trình viết. Lúc ấy, tôi không còn là tôi khi bắt đầu, và từ trạng thái đã thay đổi đó, tôi tái khởi đầu. Những câu hỏi tiếp theo xuất hiện, như trong một chuỗi mắt xích, hoặc như những quân cờ domino, chồng chéo và nối tiếp nhau, thúc đẩy tôi tiếp tục viết điều gì mới.

Khi viết cuốn tiểu thuyết thứ ba Người ăn chay, từ năm 2003 đến 2005, tôi đã đối mặt với những câu hỏi đau đớn: Một người có thể hoàn toàn ngây thơ không? Chúng ta có thể từ chối bạo lực đến mức nào? Điều gì sẽ xảy ra với cá nhân từ chối thuộc về giống loài gọi là con người?

Cuốn Người ăn chay bản tiếng Việt, xuất bản năm 2011. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ

Lựa chọn không ăn thịt để từ chối bạo lực, và cuối cùng từ chối mọi đồ ăn, thức uống, ngoại trừ nước, với niềm tin rằng mình đã biến thành cây, Yeong-hye, nhân vật chính trong Người ăn chay, thấy mình ở trong tình huống mỉa mai: Càng muốn tự cứu mình thì càng nhanh chóng hướng đến cái chết. Yeong-hye và chị gái In-hye của cô, thực tế cả hai đều là nhân vật chính, gào thét vô thanh trong những cơn ác mộng và sự đổ vỡ, nhưng cuối cùng họ vẫn bên nhau. Tôi để cảnh cuối cùng diễn ra trong chiếc xe cứu thương, với hy vọng Yeong-hye vẫn còn sống trong thế giới của câu chuyện. Chiếc xe lao nhanh xuống con đường núi dưới những tán lá xanh rực rỡ, trong khi người chị đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Có lẽ cô đang chờ đợi một phản ứng, hoặc cô đang phản kháng. Toàn bộ tiểu thuyết nằm trong trạng thái nghi vấn. Nhìn chằm chằm và thách thức. Chờ đợi một câu trả lời.

Mực và Máu (Ink and Blood), cuốn tiểu thuyết sau Người ăn chay, tiếp tục những câu hỏi này. Từ chối cuộc sống và thế giới này để từ chối bạo lực là sự bất khả thi. Rốt cuộc, chúng ta không thể biến thành những cái cây. Vậy chúng ta tiếp tục bằng cách nào? Trong cuốn tiểu thuyết thể loại kỳ bí này, những câu văn in thường và in nghiêng xô đẩy, xung đột nhau, khi nhân vật chính – người lâu nay vật lộn với bóng đen Thần Chết – mạo hiểm mạng sống của mình để chứng minh rằng cái chết đột ngột của bạn cô không thể là tự tử. Khi tôi viết cảnh kết thúc, mô tả cô ấy lê lết trên sàn để bò ra khỏi cái chết và sự hủy diệt, tôi đã tự hỏi những câu này: Lẽ nào chúng ta không được sống sót đến cùng sao? Lẽ nào đời ta không là minh chứng cho chân lý hay sao?

Với cuốn tiểu thuyết thứ năm, Những bài học Hy Lạp (Greek Lessons), tôi thậm chí còn đẩy xa hơn nữa. Nếu chúng ta phải sống trong thế giới này, những khoảnh khắc nào làm cho điều đó khả thi? Một phụ nữ mất tiếng nói và một người đàn ông mất dần thị giác đang đi trong lặng lẽ và bóng tối khi những ngả đường đơn độc của họ giao nhau. Tôi tập trung miêu tả những khoảnh khắc xúc giác trong câu chuyện này. Cuốn tiểu thuyết diễn tiến với tốc độ chậm của riêng nó, xuyên qua tĩnh lặng và bóng tối, cho đến khi bàn tay của người phụ nữ với tới và viết vài từ trên lòng bàn tay của người đàn ông. Trong giây phút rực sáng thành vĩnh hằng, hai nhân vật bộc lộ những khía cạnh ôn hòa của chính họ. Câu hỏi tôi muốn đặt ra ở đây là: Phải chăng bằng cách quan tâm đến những khía cạnh dịu dàng nhất của nhân loại, bằng cách vuốt ve sự ấm áp không thể chối cãi tồn tại ở đó, rốt cuộc chúng ta có thể tiếp tục sống trong thế giới hữu hạn và đầy bạo lực này?

Khi chạm đến tận cùng câu hỏi này, tôi bắt đầu nghĩ về cuốn sách tiếp theo. Đó là vào mùa xuân năm 2012, không lâu sau khi Những bài học Hy Lạp xuất bản. Tôi tự nhủ sẽ viết một cuốn tiểu thuyết tiến thêm một bước nữa về phía ánh sáng và sự ấm áp. Ngập tràn tác phẩm này là cảm giác sáng choang, trong suốt. Tôi nhanh chóng tìm ra tên sách và viết được hai mươi trang bản thảo đầu tiên, rồi buộc phải dừng lại. Tôi nhận ra rằng có điều gì đó bên trong ngăn cản tôi viết cuốn tiểu thuyết này.

Cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc viết về Gwangju.

Tôi mới chín tuổi khi gia đình rời Gwangju vào tháng 1/1980, khoảng bốn tháng trước khi các cuộc thảm sát bắt đầu. Khi tôi tình cờ nhìn thấy gáy sách lộn ngược của Sách ảnh Gwangju trên kệ vài năm sau, và xem qua lúc không có người lớn nào xung quanh, tôi đã mười hai tuổi. Cuốn sách chứa những bức ảnh của thường dân, sinh viên Gwangju bị giết bằng gậy, lưỡi lê và súng khi chống lại lực lượng quân sự vừa thực hiện đảo chính. Được những người sống sót và gia đình người chết xuất bản, phân phối bí mật, cuốn sách làm chứng cho sự thật vào thời điểm mà sự thật còn bị bóp méo, xuyên tạc do truyền thông bị đàn áp khốc liệt. Là một đứa trẻ, tôi chưa hiểu hết ý nghĩa chính trị của những hình ảnh đó, nhưng những khuôn mặt dập nát trong sách đã in hằn trong tâm trí tôi câu hỏi cơ bản về con người: Đây có phải là hành động của một con người đối với con người hay không? Và sau đó, nhìn thấy một bức ảnh chụp hàng người vô tận chờ hiến máu bên ngoài bệnh viện đại học, tôi lại tự hỏi: Đây có phải là hành động của một con người đối với con người hay không? Hai câu hỏi này trông thì giống nhau, nhưng chúng xung khắc và dường như không thể hòa giải. Sự thiếu tương thích của chúng là một nút thắt mà tôi không thể tháo gỡ.

Vì vậy, vào một ngày xuân năm 2012, khi thử viết một cuốn tiểu thuyết tươi sáng, ngợi ca cuộc sống, tôi một lần nữa phải đối mặt với vấn đề chưa được giải quyết này. Tôi đã mất cảm giác tin tưởng sâu sắc vào con người từ lâu. Vậy làm sao tôi có thể vỗ về thế giới? Tôi nhận ra rằng mình phải đối mặt với câu đố không lời đáp này nếu muốn tiến về phía trước. Tôi hiểu rằng viết là cách duy nhất để vượt qua nó.

Tôi dùng phần lớn thời gian của năm đó để phác thảo tiểu thuyết, hình dung sự kiện tháng 5/1980 ở Gwangju sẽ tạo thành một lớp nghĩa trong cuốn sách. Vào tháng 12, tôi đến thăm nghĩa trang ở Mangwol-dong. Lúc đó đã quá trưa, một ngày sau trận tuyết lớn. Sau đó, khi ánh sáng mờ dần, tôi bước ra khỏi nghĩa trang băng giá với bàn tay đặt lên ngực, cạnh trái tim. Tôi tự nhủ rằng cuốn tiểu thuyết tiếp theo này sẽ nhìn trực diện vào Gwangju, thay vì dành cho nó một lớp nghĩa duy nhất. Tìm được một cuốn sách thu thập hơn 900 lời chứng, tôi dành chín giờ mỗi ngày trong suốt một tháng để đọc từng câu chuyện trong đó. Rồi tôi đọc ngấu nghiến không chỉ về Gwangju mà còn về các trường hợp bạo lực nhà nước khác. Nhìn xa hơn và quay ngược về quá khứ, tôi đọc về những cuộc thảm sát mà con người liên tục gây ra khắp thế giới trong suốt chiều dài lịch sử.

Trong quá trình nghiên cứu chuẩn bị cho cuốn tiểu thuyết, có hai câu hỏi thường xuyên hiện lên trong tâm trí tôi. Ở độ tuổi 20, tôi đã viết những dòng này lên trang đầu tiên của mỗi cuốn nhật ký mới:

Hiện tại có thể giúp quá khứ không?

Người sống có thể cứu người chết không?

Càng đọc, tôi càng nhận ra rằng đây là những câu hỏi không thể trả lời. Thông qua sự chạm trán dai dẳng với những khía cạnh đen tối nhất của nhân loại, tôi cảm thấy những tàn dư của niềm tin vào con người – vốn đã gãy đổ từ lâu trong tôi – nay vỡ vụn hoàn toàn. Tôi gần như từ bỏ cuốn tiểu thuyết. Rồi tôi đọc được những trang nhật ký của một giáo viên trẻ dạy trường buổi tối. Park Yong-jun, một thanh niên nhút nhát, trầm tính, đã tham gia vào “cộng đồng tuyệt đối” của những công dân tự trị hình thành ở Gwangju trong 10 ngày nổi dậy vào tháng 5/1980. Anh ấy bị bắn chết tại tòa nhà Hiệp hội Nữ Thanh niên Cơ đốc (Young Women’s Christian Association) gần trụ sở hành chính tỉnh. Anh đã chọn ở lại, dù biết rằng binh lính sẽ tấn công lần nữa vào sáng sớm. Trong đêm cuối cùng đó, anh viết vào nhật ký: “Chúa ơi, tại sao lương tâm con lại đau khổ và cắn rứt như vậy? Con muốn được sống”.

Khi đọc những câu này, tôi thấy ngay đường đi của cuốn tiểu thuyết, sáng rõ như ban ngày. Và hai câu hỏi của tôi phải đảo ngược.

Quá khứ có thể giúp hiện tại không?

Người chết có thể cứu người sống không?

Về sau, khi đang viết Bản chất của người (Human Acts), vào những khoảnh khắc nhất định, tôi nhận thấy rằng quá khứ thực sự đang giúp hiện tại, và người chết đang cứu người sống. Thỉnh thoảng tôi lại ghé thăm nghĩa trang ấy, chẳng hiểu sao lúc nào trời cũng trong xanh chứ không còn lạnh giá. Tôi sẽ nhắm mắt lại, để những tia nắng màu cam tràn vào mí mắt tôi. Tôi cảm thấy đó là ánh sáng của sự sống. Tôi cảm thấy ánh sáng và không khí bao bọc tôi trong ấm áp khôn tả.

Những câu hỏi còn đọng lại lâu trong tôi sau khi tôi nhìn thấy cuốn sách ảnh đó là: Con người sao lại bạo lực đến vậy? Và tại sao đồng thời, con người có thể chống lại bạo lực có sức mạnh áp đảo đến vậy? Thuộc về giống loài có tên là loài người có nghĩa là gì? Để băng qua “con đường không-thể-qua” nối khoảng không giữa hai vách đứng của nỗi sợ của con người và phẩm giá con người, tôi cần sự trợ giúp của người chết. Cũng như trong cuốn tiểu thuyết này, Bản chất của người, cậu bé Dong-ho kéo tay mẹ để thúc giục bà đi về hướng mặt trời.

Tất nhiên, tôi không thể đảo ngược những gì đã xảy ra với người chết, thân nhân họ hay người sống sót. Những gì tôi có thể làm là truyền cho họ cảm giác, cảm xúc, và sự sống đang đập trong cơ thể tôi. Mong muốn thắp nến ở đoạn đầu và cuối cuốn tiểu thuyết, tôi đã đặt cảnh thứ nhất trong nhà thi đấu địa phương, là nơi quàn những thi thể của người chết và nơi tiến hành tang lễ. Ở đó, chúng ta chứng kiến cậu bé mười lăm tuổi Dong-ho phủ những tấm vải trắng lên các thi thể và thắp nến. Cậu nhìn đăm đăm vào cái lõi xanh nhạt của từng ngọn lửa.

Tên tiếng Hàn của tiếu thuyết này là Sonyeon-i onda. Từ cuối cùng “onda” là thì hiện tại của động từ “oda”, có nghĩa là “đến”. Ngay khoảnh khắc thiếu niên sonyeon được gọi bằng ngôi thứ hai là “em”, dù thân mật hay không, cậu ấy lập tức tỉnh dậy trong ánh sáng mờ ảo và bước về phía hiện tại. Những bước chân của cậu ấy là của một linh hồn. Cậu ấy càng lúc càng đến gần và biến thành cái bây giờ. Khi thời gian và không gian trong đó cái ác của con người và phẩm giá con người tồn tại song song trong đối cực được gọi là Gwangju, thì cái tên đó không còn là danh từ riêng chỉ một thành phố duy nhất, mà trở thành một danh từ chung. Đó là điều tôi học được khi viết cuốn sách này. Nó xảy đến với chúng ta – hết lần này đến lần khác, xuyên qua thời gian, không gian – và luôn ở thì hiện tại. Thậm chí là bây giờ.

***

Khi cuốn sách hoàn thành và xuất bản vào mùa xuân năm 2014, nỗi đau mà nó gây ra nơi độc giả khiến tôi ngạc nhiên. Tôi phải dành thời gian suy nghĩ xem nỗi đau tôi cảm thấy trong quá trình sáng tác và những khổ sầu độc giả bày tỏ với tôi có liên quan với nhau thế nào. Có gì đằng sau nỗi thống khổ ấy? Phải chăng do chúng ta muốn đặt niềm tin vào nhân loại, và khi niềm tin ấy bị lung lay, ta cảm thấy như chính bản thân đang bị phá hủy? Phải chăng chúng ta muốn yêu nhân loại, và đây là nỗi đau mà chúng ta cảm thấy khi tình yêu ấy bị đập tan tành? Phải chăng Tình yêu sinh ra nỗi đau, và nỗi đau là bằng chứng của tình yêu?

Tháng 6 cùng năm, tôi mơ thấy mình đang đi qua một cánh đồng bao la trong tuyết rơi lác đác. Hàng nghìn hàng vạn gốc cây đen rải rác khắp cánh đồng, sau mỗi gốc cây là một gò mả. Có chỗ tôi bước xuống nước, và khi nhìn lại tôi thấy biển đang tràn vào từ rìa cánh đồng, mà trước đó tôi nhầm là đường chân trời. Tại sao lại có mộ ở một nơi như thế này? Tôi tự hỏi. Chẳng phải tất cả xương cốt trong những gò mả thấp gần biển đã bị cuốn trôi rồi sao? Ít nhất, tôi có nên di dời xương cốt lên các gò cao hơn, ngay bây giờ, trước khi quá muộn? Nhưng làm cách nào? Tôi thậm chí không có cái xẻng nào. Nước đã lên đến mắt cá chân tôi. Tôi tỉnh dậy, nhìn ra cửa sổ thấy vẫn còn tối, trực giác cho tôi biết rằng giấc mơ này đang nói với tôi điều gì đó quan trọng. Sau khi ghi lại giấc mơ, tôi nghĩ rằng đây có thể là khởi đầu cho cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình.

Tuy nhiên, tôi chưa có ý tưởng rõ ràng về hướng đi. Tôi bắt tay vào cuốn sách mới, loại bỏ dần những cách mở đầu của một số câu chuyện tiềm năng mà tôi tưởng tượng sau giấc mơ. Cuối cùng, vào tháng 12/2017, tôi thuê phòng trên đảo Jeju và dành khoảng hai năm tiếp theo đi về giữa Jeju và Seoul. Dạo bước trong rừng, dọc theo biển, trên con đường làng, cảm nhận thời tiết cực đoan của Jeju vào mỗi khoảnh khắc – gió, ánh sáng, tuyết và mưa – tôi dần hình dung rõ nét phác thảo của cuốn tiểu thuyết. Tương tự khi viết Bản chất của người, lần này tôi cũng đọc lời chứng của người sống sót sau những cuộc thảm sát, nghiền ngẫm tài liệu, rồi sau đó, với cách tiếp cận kiềm chế nhất có thể mà không quay lưng lại với những chi tiết tàn nhẫn gần như không thể diễn tả bằng lời, tôi đã viết nên Không lời từ biệt (We Do Not Part). Cuốn sách được xuất bản gần bảy năm sau giấc mơ về những gốc cây đen và nước biển tràn bờ.

Bìa Bản chất của người bản tiếng Việt, sách 350 trang. Ảnh: Nhã Nam

Trong cuốn sổ tay tôi dùng trong quá trình sáng tác ấy, tôi đã ghi chú thế này:

Cuộc sống tìm cách sống. Cuộc sống ấm áp.

Chết là trở nên lạnh lẽo. Có tuyết phủ lên mặt thay vì tan chảy.

Giết là làm lạnh.

Con người trong lịch sử và con người trong vũ trụ.

Gió và các dòng hải lưu. Dòng tuần hoàn của nước và không khí kết nối toàn thế giới. Chúng ta được kết nối. Tôi cầu nguyện cho chúng ta được kết nối.

Tiểu thuyết này chia thành ba phần. Nếu phần đầu là hành trình theo chiều ngang, theo chân người kể chuyện Kyungha từ Seoul đến nhà của người bạn Inseon ở vùng cao nguyên Jeju, xuyên qua tuyết rơi dày đặc để tìm đến chỗ chú chim nhỏ mà cô được giao nhiệm vụ cứu sống, thì phần thứ hai theo con đường thẳng đứng dẫn Kyungha và Inseon đến một trong những đêm đen tối nhất của nhân loại – vào mùa đông năm 1948, khi thường dân trên đảo Jeju bị thảm sát – và lặn sâu xuống đáy đại dương. Trong phần thứ ba, cũng là phần cuối, hai người cùng thắp lên ngọn nến dưới đáy biển.

Mặc dù diễn tiến tiểu thuyết xoay quanh hai người bạn, tương tự cách họ thay phiên nhau giữ ngọn nến, nhân vật chính thực sự, đồng thời là người liên hệ với cả Kyungha và Inseon, là Jeongsim – mẹ của Inseon. Bà sống sót sau chuỗi thảm sát trên đảo Jeju, đã chiến đấu để giành lại dù chỉ một mảnh xương của người thân yêu, để bà có thể làm một đám tang tử tế. Bà, người không chịu ngừng than khóc. Bà chịu đựng nỗi đau và đứng lên chống lại sự lãng quên. Bà, người không nói lời từ biệt. Khi viết về cuộc đời bà, người bao năm tháng luôn sục sôi, đẫm đầy cùng một nỗi đau và tình yêu, tôi nghĩ mình đặt ra những câu hỏi sau: Chúng ta có thể yêu đến mức nào? Đâu là giới hạn của chúng ta? Chúng ta phải yêu đến mức nào để duy trì được nhân tính đến tận cùng?

Nhà văn Han Kang trong buổi họp báo của Viện Hàn lâm Thụy Điển hôm 6/12. Ảnh: Reuters

***

Ba năm sau khi phát hành ấn bản tiếng Hàn của Không lời từ biệt, tôi vẫn chưa hoàn thành cuốn tiểu thuyết tiếp theo của mình. Còn cuốn sách tôi hình dung sẽ theo sau nó thì chờ đợi tôi mòn mỏi từ lâu. Đó là cuốn tiểu thuyết liên kết với Sách Trắng (The White Book), tác phẩm tôi viết ra từ mong muốn cho người chị ruột – đã qua đời hai giờ sau khi chào đời – mượn tạm cuộc sống của mình trong giây lát, và cũng để săm soi vào những thành tố làm nên chúng ta mà không gì phá hủy nổi, dù trời long đất lở. Như mọi khi, thật khó dự đoán khi nào sẽ hoàn thành tác phẩm, nhưng tôi vẫn miệt mài viết, dù chậm. Tôi sẽ vượt qua những cuốn sách đã viết để đi tiếp. Cho đến khi tôi ngoái lại nhìn và thấy chúng không còn trong tầm mắt mình nữa. Xa nhất có thể mà đời tôi cho phép.

Khi rời xa tôi, các tác phẩm tiếp tục đời sống độc lập và đi theo số phận riêng của chúng. Cũng như hai chị em ở cạnh nhau mãi mãi trong chiếc xe cứu thương, khi ngọn lửa xanh rực cháy bên ngoài cửa kính. Cũng như người phụ nữ sắp lấy lại giọng nói, dùng ngón tay mình viết vào lòng bàn tay của người đàn ông – trong tĩnh lặng, trong bóng tối. Cũng như chị ruột tôi, đã qua đời chỉ sau hai giờ đến với thế giới này, và người mẹ trẻ măng của tôi ôm con van cầu: “Đừng chết, xin đừng chết” cho đến phút cuối cùng. Những linh hồn đó sẽ đi xa đến đâu – những linh hồn tụ lại thành vầng sáng màu cam rực rỡ sau mí mắt nhắm của tôi, bao bọc tôi trong ánh sáng ấm áp khôn tả? Những ngọn nến sẽ rọi xa đến đâu – những ngọn nến được thắp lên tại hiện trường mỗi vụ giết chóc, trong thời gian và không gian bị tàn phá bởi bạo lực không thể tưởng tượng được, ngọn nến trên tay những con người thề không bao giờ nói lời từ biệt? Phải chăng chúng sẽ lướt đi từ sợi bấc này sang sợi bấc khác, từ trái tim này sang trái tim kia, trên một sợi chỉ vàng?

Trong cuốn sổ nhỏ tôi tìm thấy ở hộp giày cũ vào tháng 1 năm ngoái, tôi của quá khứ, viết vào tháng 4/1979, đã tự hỏi mình:

Tình yêu ở đâu?

Tình yêu là gì?

Còn đến mùa thu năm 2021, khi Không lời từ biệt xuất bản, tôi xem hai vấn đề sau đây là cốt lõi:

Tại sao thế giới đầy bạo lực và đớn đau?

Mà vẫn có thể đẹp tươi đến vậy?

Suốt thời gian dài, tôi tin rằng cuộc đấu tranh bên trong căng thẳng giữa những câu này là lực đẩy đằng sau sự nghiệp viết lách của mình. Từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên đến cuốn mới nhất, những câu hỏi neo giữ trong tâm trí tiếp tục thay đổi và phát triển, nhưng chỉ có hai câu này là bất biến. Nhưng hai, ba năm trước, tôi bắt đầu nghi ngờ. Có thật sự là tôi chỉ bắt đầu tự hỏi mình về tình yêu – về nỗi đau kết nối chúng ta – sau khi Bản chất của người ra mắt bản tiếng Hàn vào mùa xuân năm 2014 không? Từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên đến cuốn mới nhất, chẳng phải lớp sâu nhất của các truy vấn của tôi đều luôn hướng về tình yêu hay sao? Phải chăng tình yêu thực sự là âm điệu cổ xưa và căn bản nhất trong cuộc đời tôi?

Tình yêu nằm ở một nơi riêng tư được gọi là “trái tim của tôi”, đứa trẻ đã viết vào tháng 4/1979. (Nó nằm trong lồng ngực đập thình thịch của tôi). Và về tình yêu làgì, đây là câutrả lời của cô bé. (Nó là sợi chỉ vàng kết nối trái tim của chúng ta).

Tôi huy động toàn bộ cơ thể mình khi viết. Tôi sử dụng tất cả giác quan để nhìn, nghe, ngửi, nếm, trải nghiệm sự dịu dàng, ấm áp, lạnh lẽo, đớn đau; để nhận thấy tim mình đập nhanh và cơ thể cần thức ăn nước uống; để đi và chạy; để cảm nhận gió, mưa, tuyết trên da; để nắm giữ những bàn tay. Tôi cố gắng truyền những cảm giác sống động mà tôi – một sinh vật phàm trần với dòng máu nóng chảy trong cơ thể – cảm nhận được, vào câu chữ của mình. Như thể truyền đi một luồng điện. Và khi biết luồng điện này đã được truyền đến độc giả, tôi kinh ngạc và xúc động. Trong những khoảnh khắc này, tôi lần nữa trải nghiệm sợi chỉ ngôn ngữ kết nối chúng ta, mối liên quan giữa những câu hỏi của tôi với của độc giả, thông qua luồng điện sống động ấy. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến những ai đã kết nối với tôi qua sợi chỉ đó, cũng như những ai sẽ đến tham gia kết nối trong tương lai.

Nguồn Vanviet

Read Full Post »

Một truyện ngắn UKRAINE

VOLODYMYR VYNNYCHENKO

(Ukraine)

Truyện ngắn

Một tình tiết lạ

HIẾU TÂN dịch

Tại sao tim tôi thắt lại khi nó nhìn thấy cái đẹp? Tại sao tôi muốn ôm đầu bằng hai bàn tay và khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng? Tại sao? Và tại sao trong những giọt nước mắt ấy có cả dịu êm, vui sướng, buồn đau và vô vọng?

Nhưng tôi biết. Bây giờ chắc chắn tôi biết, nhưng cho đến cái đêm hôm ấy, ngay cả chính cái đêm ấy, khi cái tình tiết chưa ai từng biết, vô nghĩa ấy xảy ra cho tôi – tôi vẫn chưa biết. Tôi nghĩ rằng Natalie vẫn chưa biết. Mà nàng cũng không cần biết.

Nỗi buồn dẫn tôi đến với Natalie. Tôi thấy nàng lần đầu trên tàu điện. Tôi đang đọc báo thì nàng bước vào toa. Báo viết đủ thứ nhưng không có gì dính với hạnh phúc – người ta giết người khác như thế nào, người ta tự giết mình như thế nào, người ta trộm cắp, giết nhau, gào khóc, lừa bịp như thế nào, tóm lại, mọi thứ không có gì dính dáng đến hạnh phúc và tiếng cười (bạn có nhận thấy báo chí không bao giờ viết về chúng hay không?) Tôi đọc tất cả những cái ấy và trở nên vô cảm. Nhưng khi nàng bước vào, khi mắt nàng chạm mắt tôi trong thoáng chốc, tim tôi bỗng lịm đi. Tôi thấy buồn vô hạn. Tự nhiên tôi muốn ôm người ngồi cạnh, béo phị vì ham ăn, và hôn vào cái cổ ba ngấn của anh ta. Tôi muốn hai tay che mặt, ngồi thụt xuống, lắng nghe tiếng chuông khao khát, nỗi khao khát chưa từng biết, ngọt ngào trong tim tôi.

Và sau đó tất cả những cái ấy luôn sống lại trong tôi khi tôi đắm đuối nhìn Natalie. Thậm chí ngay cả khi tôi ôm nàng lần đầu tiên, khi thân thể nàng run rẩy trong tay tôi, ngay cả khi ấy nữa, nỗi buồn cũng không rời khỏi tim tôi. Nó không rời đi, nó chỉ trốn khỏi ngọn lửa khao khát.

Và Natalie, ngay cả bây giờ, nàng vẫn không biết tại sao khi nhìn cái đẹp tim ta lại buồn đến vậy, lại đầy khao khát, lại thích thú một cách đau đớn đến vậy. Nàng biết nàng có một sắc đẹp tuyệt với, ờ, điều ấy thì nàng biết chắc.

Chính đêm ấy, nàng bảo tôi: “Anh nghĩ em không biết giá trị của em à? Nếu em muốn, ngay ngày mai em có thể có một chiếc ôtô.” (Nàng thích ôtô lắm lắm.) “Anh không tin em à? Sao anh lại cười? Tôi tin nàng. Tôi cười vì một lý do hoàn toàn khác. “Và em sẽ có! Em chán ngấy phải ăn khoai tây và khoác chỉ một chiếc áo khoác rồi.” (Chúng tôi đang ở trong tình trạng như thế: ăn khoai tây và chỉ có một chiếc áo khoác.) “Những ước mơ ngu ngốc của anh làm em bực mình. Vâng, em bực mình. Em nói thẳng với anh như thế đấy. Em không phải một bà thánh….Lạy Chúa. Hãy cho em tiền và không phải những bài hát. Tiền! Anh có hiểu không?” Nàng chưa bao giờ thật sự nói thẳng ra như vậy. Tôi đang ngồi cúi gục đầu, đến lúc đó tôi ngẩng lên và nhìn Natalie. Ôi, nàng đẹp biết bao! Lạy Chúa nàng đẹp đến mức tôi muốn đập đầu tôi vào mép bàn cho nó vỡ toác ra, như chiếc bình hoa vô dụng kia. “Thế nào, sao anh cứ nhìn trừng trừng thế. Anh sắp giảng đạo về chù nghĩa khuyển nho chăng? Cứ giảng đi! Em không thánh thiện. Em phát cáu khi phải tỏ ra thánh thiện. Em không làm được. Em cần tiền, thế thôi. Những lý tưởng, những khao khát tìm tòi, những tinh thần và những hành động cao cả xin anh cứ giữ cho riêng anh. Những cái ấy không hợp với em. Thế đấy. Cái gì? Anh chưa từng mong cái đó à?” Tất nhiên tôi chưa từng mong cái đó. Có lẽ…có lẽ tôi có mong, bởi vì tại sao nó buồn thế, tại sao trái tim tôi thắt lại nghẹn ngào khi nhìn vẻ đẹp của thân thể nàng. Tôi không nói thêm gì nữa với nàng. Thậm chí tôi lặng lẽ ra khỏi nhà mà không mang theo áo khoác.

Trời đã về khuya. Trên đường phố có sương mù. Nó bao bọc những bóng đèn như những chiếc khăn quàng của phụ nữ. Khách đi đường bước hối hả, cổ áo dựng lên và hai tay đút túi. Họ biết rõ họ đi đâu. Nhưng tôi không biết, nên tôi không vội. Tôi thậm chí không đút tay vào túi và kéo cổ áo lên. Tôi chỉ mỉm cười. Nhưng nếu có ai đó lấy nụ cười ra khỏi môi tôi và nấu chảy nó trong một thứ gì đó mà họ có thể nấu chảy cả tiếng cười lẫn tiếng khóc, thì nụ cười của tôi có lẽ không có vẻ là một cái cười. Tôi dừng lại trên một góc phố. Tôi thường đợi Natalie ở đấy. Chúng tôi cùng bước đi, ôm chặt nhau. Cũng ở đây thường xuất hiện một bóng người mà vừa trông thấy, trái tim tôi thắt lại vì thương xót và một nỗi sợ khinh khi.

Phải, chúng tôi thường qua đây. Chúng tôi hối hả về nhà. Một đĩa khoai tây nguội và một chiếc áo khoác đang đợi chúng tôi ở nhà.

Còn bây giờ, tôi đi đâu bây giờ? Dù sao, chắc chắn là không phải đi kiếm tiến. Đương nhiên là thế. Nhưng, dù sao, đi đâu? Sương mù làm đường phố ẩm ướt, nhớp nháp, lạnh lẽo nhưng dẫu sao vẫn ấm hơn tảng băng đang đè trĩu trong ngực tôi. Và tôi lại đi dọc đường phố, trong sương mù.

Bỗng nhiên có bóng người áp sát tôi. Tôi nhìn quanh. Vẫn là cái sinh linh mà chúng tôi thường gặp trên những phố này. Vẫn là cái sinh linh xấu xí, tội nghiệp đã gợi lên trong chúng tôi nỗi sợ hãi bí mật và khi ấy chỉ muốn níu chặt nhau hơn.

Ả luôn luôn xuất hiện bất ngờ thế nào đó ở cùng một nơi hoang vắng. Chúng tôi không nghĩ ả là gái điếm, mặc dù chúng tôi thường thấy ả vỗ nhẹ vào khách đi đường như ra hiệu. Nhưng khách qua đường sau khi liếc nhìn lập tưc quay người bước đi. Chúng tôi thường nói chuyện về ả, và Natalie luôn hỏi liệu có người đàn ông nào đi với một sinh linh ghê rợn như ả không, một bóng ma.

Quả thật, ả giống như một bóng ma, như sự hiện hình của một gái điếm, như cái biểu tượng ghê sợ của cái nghề đáng nguyền rủa ấy. Ả luôn luôn mặc một thứ không thay đổi, như thể ả đã bước đi ở đây hằng đêm trong nhiều năm. Và quả vậy, một con ma cần gì thay quần áo? Luôn luôn vẫn là chiếc áo choàng dài mầu xám ấy, các nếp gấp của nó không lay chuyển khi ả bước đi dưới những bức tường, dọc theo những cánh cửa câm lặng khóa kín, và những tủ kính của các cửa hàng. Luôn luôn trong chiếc mũ cổ lỗ xẫm màu, từ đó buông xuống tấm mạng che mặt dày màu xám, và luôn luôn có một chiếc dù trong tay ả.

Một hôm chúng tôi gặp ả dưới một cây đèn đường. Một khuôn mặt xấu xí liếc nhìn chúng tôi qua tấm mạng che mặt, xấu đến mức tôi thấy chân mình bủn rủn. Nó tái nhợt, với cặp mắt mệt mỏi, trang điểm như mọi cô gái điếm, với cặp môi đỏ chót giống như của một xác chết.

Tại sao ả đi dưới những bức tường, trong bóng tối? Có thể có người đàn ông nào đi với ả chăng? Natalie ngờ điều ấy. Tôi nhìn quanh một lần nữa và nhìn thẳng vào mặt ả. Khuôn mặt hoàn toàn phù hợp với những gì trong tim tôi.

Nhưng lúc này tất cả những gì mà tôi cần là hôn lên khuôn mặt ấy và khám phá ra rằng sinh linh này có thể làm cho tôi vui.

“Chào ông,” cô ta nói giọng thì thào hết sức véo von.

“Chào cô,” tôi to giọng trả lời, miệng luôn mỉm cười.

Cô ta chăm chú nhìn nụ cười của tôi, lướt nhìn khắp mặt tôi, ngực tôi bằng đôi mắt mở to trân trân và hỏi bằng giọng đều đều êm dịu:

“Ông ra đây đi dạo phải không ạ?”

Tôi phá lên cười.

“Tất nhiên tôi đi dạo. Tôi thích ra đây khi đẹp trời.”

Một lần nữa cô ta dán cặp mắt cá chết lên người tôi. Trên khuôn mặt cô ta, cứng đơ như chết, không một chi tiết nào cử động, như thể cô ta đã quen với kiểu cười đó, quen với những quý ông từ thiện “ra phố khi trời đẹp” như thế này.

“Đi với em chứ?” Cô ta hếch mặt lên.

“Đi đâu?”

“Sao lại đi đâu. Về nhà em.”

Cô ta nhìn tôi “Anh không biết thật à?”

Tôi cũng nhìn cô ta. Một người qua đường cầm ô đi qua liếc nhìn lại chúng tôi. Hắn nhìn cô ta, nhìn nhanh sang tôi và tôi đọc được trên mặt hắn vẻ ngạc nhiên, khinh bỉ và thương hại đối với tôi.

Và Natalie sẽ nói sao đây?

“Có đi không?” cô ta hỏi lại, đầu cúi xuống.

Bỗng nhiên tôi thấy ớn lạnh như thể sương mù tràn vào óc tôi, không phải vì tôi chỉ mặc một chiếc áo khoác duy nhất, mà còn vì điều gì khác, cái điều có thể khiến người ở xích đạo ớn lạnh.

“Tôi không có tiền.” Tôi nói giọng buồn và lạnh lùng.

“Anh có thể trả tôi lúc khác cũng được.”

Hừ. Con ma này quyết chiếm chỗ của Natalie đây. Tuyệt. “Nào, đi” tôi nói.

Cô ta xoay người và bước đi hầu như không một tiếng động, dẫm lên những vũng nước trên vỉa hè. Chiếc áo choàng màu xám, giống như một tấm vải phủ quan tài, thẳng đuột không hề lắc lư, quệt xuống đất.

Tôi mỉm cười và quả quyết đi theo cô ta. Chúng tôi không phải đi lâu.

Cô ta sống trên tầng 6, trong một căn áp mái, trong một phòng nhỏ có bức tường cắt một nửa và trên nó căng một tấm vải che. Một góc phòng bị bưng kín bằng một tấm khăn trải giường mầu xám, góc khác kê một chiếc giường, rộng và êm. Nhiều tranh khắc treo trên tường.

Chúng chủ yếu là những bức ảnh chụp các họa phẩm cổ điển. Nhiều bức của Rodin. Tôi nhận ra ngay. Cô ấy lấy chúng ở đâu, cô ma này, và không biết chúng có ích gì cho cô?

“Cô có nhiều tranh khắc thế?” Tôi nói.

Cô nhìn tôi hơi sợ hãi, như thể tôi muốn lấy đi những bức tranh này của cô.

“Cô thích chúng hay đây là quà tặng?”

“Em thích chúng.” Cô ta nói dịu dàng và bắt đầu vội vã cởi váy áo.

Tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu cạnh bàn và tựa đầu lên cánh tay. Tôi không muốn cười nữa. Tôi muốn… Không! kết thúc đi!

“Anh buồn à?” tôi nghe bên cạnh tôi tiếng thì thào êm dịu.

Tôi ngẩng đầu lên và cười vào mặt cô.

“Tại sao tôi phải buồn? Vì tôi đã lên đến tầng 6? Đấy vẫn chưa phải là vấn đề lớn. Còn có những cái tồi tệ hơn. Được. Chúng ta sẽ đi ngủ chứ? Tuyệt…ở đây yên lặng lắm. Nhưng cái gì ở trong góc kia? Một chiếc giường thứ hai chăng? Chắc cho những vị khách đặc biệt?”

“Không. Quần áo em treo ở đấy.”

“Quần áo à? Cũng thế cả thôi. Thậm chí một trái tim treo ở đó tôi cũng cóc quan tâm. Nhổ lên tất cả mọi thứ, và thế đấy. Được không?”

“Được,” cô ta đáp và nhìn tôi rất chăm chú. Chúa ơi, cô ta có đôi mắt đẹp quá… Không, không phải đôi mắt, cái biểu cảm. Mắt cô xấu, như mắt cá, không gì sửa chữa được điều ấy. Nhưng cái biểu cảm của chúng thì đẹp. Ôi, nếu mắt Natalie cũng có biểu cảm như thế. Nhưng – để làm gì!

“À, thế nghĩa là tôi phải cởi quần áo. Tuyệt. Cô có nhiều khách không ?”

“Không, không nhiều lắm…”

“Không nhiều lắm? Thì cũng thế cả thôi” Nhưng, có lẽ tôi nên cầm lấy mũ và bỏ đi?

“Em xấu lắm nên ít người đến với em..”

“Thật ư?” Nhưng Natalie đẹp đến nỗi…

Trái tim tôi đầy đau đớn đến nỗi tôi tưởng rơi xuống tận đáy và tôi muốn quào sàn nhà bằng những ngón tay co quắp.

Tôi nhăn nhở cười với cô. Tôi không nghĩ cô có thể đọc ra niềm vui mừng trong cái cười ấy.

Cẩn trọng, nhu mì, cô chạm vào cánh tay tôi và dịu dàng vuốt ve nó.

Và thật lạ lùng, tôi thấy ấm bên trong và cảm thấy tiếc cho tôi.

“Với ai cô cũng mơn trớn thế này à?”

“Những người đang buồn.”

Không, nhất định có cái gì đó tuyệt vời trong giọng nói của cô, một cái gì nhu mì, nhưng là cái đến từ một sự thấu hiểu sâu sắc.

“Tại sao cô nghĩ là tôi đang buồn?”

Cô mỉm cười và không nói một lời cô bước ra xa, đến cạnh bàn và nghĩ ngợi. Ánh sáng từ ngọn đèn lọc qua chiếc chao đèn mầu lục tỏa xuống khuôn mặt xấu xí của cô một màu lục ngả xám. Trông cô giống như một xác chết đăm chiêu suy nghĩ về cuộc sống đã qua của nó qua làn sương mờ im lặng của quan tài mà trông thấy mọi thứ, hiểu và buồn một nỗi buồn hiền lành nhỏ nhoi tội nghiệp.

“Những người đang buồn có thể hiểu nhau”. Và khi nói thế, cô nhìn tôi vẻ tội lỗi và sợ hãi, sợ bởi vì cô dám so sánh tôi với cô.

Tôi đứng bật dậy và bước quanh phòng. Sao tôi muốn đến thế lấy hai tay đè mạnh lên ngực để ép bật ra cái khỏi đó cái cục gì nó đang chẹn ngạt tôi, như cho xì hơi ra khỏi một quả bóng. Trời ơi, sao ngạt thế.

“Nghe này! Cô có chút rượu nào không?”

“Không , em không có rượu”

“Nhưng vậy thì…” Có lẽ cô ấy có sợi dây thừng. Nhưng thôi, chết tiệt..

“Được. Sao cô không cởi ra? Cởi ra”

“Em còn phải tắt đèn.” Cô ta nói dịu dàng. Tôi nhìn cô. Đúng thật, cô ta không thể cởi quần áo dưới ánh sáng. Nhưng đó lại là điều tôi tuyệt đối cần.

“Sao lại tắt đèn? Không cần thiết. Tôi không thích tối. Tôi thích ánh sáng, tiếng cười, hạnh phúc.” Và tôi thậm chí bật cười.

“Sao cô nhìn tôi như thế? Cô không tin tôi à? Tôi nói có gì lạ đâu? Mọi người đều thích ánh sáng và hạnh phúc. Chắc cô có nến. Mang lại đây. Chúng ta sẽ thắp nến ở mọi góc. Sao cho ánh sáng xuyên vào mắt. Sao cho mọi vật đều được nhìn thấy. Trong mọi góc, hai, ba ngọn nến. Trút bỏ quần áo ra. .. từ góc ấy. Ánh sáng trong mọi xó xỉnh.”

Và tôi nắm mép tấm khăn trải giường mầu xám, kéo tuột nó ra. Đúng lúc ấy, có một tiếng thét vút lên sau lưng tôi, và tôi đứng chết lặng với góc khăn trải giường trong tay! Trong góc, trên hai chiếc rương nhỏ, đứng một pho tượng làm dở dang. Đó là tượng một người đàn bà xấu xí, xấu đến mức tôi không thể nào rời mắt khỏi nó. Đó là một cái gì nhức nhối, một cái gì bất ngờ, quyến rũ một cách kỳ lạ, đáng sợ nhưng đồng thời tràn đầy một nỗi đau thầm lặng, ngọt ngào khát khao bí ẩn. Tôi nhìm quanh tìm chủ nhân, cô ta đang đứng sau lưng tôi, mỉm một nụ cười âu sầu như có lỗi.

Cô rất giống người dàn bà đó.

“Có ai đã tạc nó ở đây?”

Không trả lời, cô cố lấy lại tấm khăn trải giường từ tay tôi và che lên tác phẩm ấy.

“Khoan đã.” Tôi nóng nảy gạt cô ra. “Nói cho tôi biết ai đã làm cái này?”

Cô ta trở nên tức giận. Mặt cô có nét biểu cảm đúng như nét mặt người phụ nữ kia, thậm chí những đôi môi mím lại một cách đau đớn và quyến rũ giống nhau. Một kiểu đẹp ngự trên những đường nét nhăn nheo, xấu xí ấy. Đúng, đúng, nó đẹp thật. Nó là cái gì khó tin, phi lý, nhưng đây là cái đẹp thật sự.

“Tôi đang tạc nó…” cô ta nói, mắt nhìn vào khuôn mặt người phụ nữ. Người phụ nữ nhìn cô, dường như họ hiểu nhau.

“Cô?… Chính cô?”

Con ma mỉm cười. Có cái gì đó đã xảy ra với cô, một loại biến đổi. Tội lỗi và sợ hãi biến đi đâu mất. Cô cúi đầu, nói chậm rãi.

“Có thể nó là chính tôi. Có thể nó là cái gì đó có trong mọi người. Không phải thế sao?”

Và ngửng phắt đầu lên, cô ấy nhìn tôi. Tôi chuyển mắt nhìn sang pho tượng. Thật sự có một cái gì thân quen trong đó, một cái gì gần gũi. Thật sự…

“Đây là một tác phẩm đẹp” tôi lầm bầm.

Tôi muốn nói một điều gì khác nũa, nhưng không biết nói gì

“Anh nghĩ thế à?”

“Vâng, tôi nghĩ thế.”

Ôi cái gì thân quen đến thế trong khuôn mặt này? Đôi mắt? Đôi vú chảy xệ khô héo vì sự chất phác và những rối loạn của trái tim, quai hàm trẹo đi vì bản năng thú vật? Cái miệng hé lộ nỗi đau bị tổn thương? Hay là sự khao khát kia, nỗi khao khát hiền lành, tối tăm, bí ẩn ấy – tìm một chỗ nơi nào đó giữa những vành môi, nơi nào đó dưới vầng trán thấp giữa đôi mắt sụp xuống kia?

Tôi lấy chiếc ghế đẩu, ngồi xuống và bắt đầu ngắm cái hình dáng tuyệt mỹ. Cái nhìn chăm chăm của nó qua vai tôi, găm vào một nơi nào đó, tới bóng ma kia, như thể cô ta bất cẩn và nghiêm túc để cho mình bị quan sát kỹ, đúng như tôi mong muốn.

Cả ba chúng tôi cùng im lặng. Một miếng đất sét đắp pho tượng rơi từ đầu gối nó xuống sàn. Đôi chân trông là lạ và khó tin, nhưng chắc chắn chúng là những đường nét đang tồn tại. Một dáng hình như thế này không thể thấy được, thế nhưng chúng đã được thấy. Nó có trong mỗi chúng ta. Thậm chí…

Bỗng nhiên ý ấy đập vào tôi. Nó giống Natalie.

Hết sức rối loạn, tôi nhảy bật lên khỏi ghế và bắt đầu nhìn tác phẩm ngu ngốc này! Thật ngu xuẩn! Thế nào? Ở đâu? Thật vớ vẩn! Con ma nhanh nhẹn chạm vào cánh tay tôi. Tôi nhìn quanh.

“Nó làm anh chán ngấy phải không?”

Tôi lại ngồi xuống. Thật vớ vẩn. Tôi nghĩ quá nhiều đến Natalie và nàng hiện ra trong một hình dáng ghê sợ như thế này. Tôi mỉm cười.

“Bức tượng của em đã làm anh chán ngấy.”

“Nó thật sự tuyệt diệu. Có một cái gì đó trong nó… Cô làm nó có lâu không ?”

“Sáu tháng”

Thật sự cái vật ghê gớm này hút người ta đến nó. Nó kéo mắt anh, nó kéo tim anh và hơi thở của anh đến với nó băng vẻ đẹp mê hồn và nỗi khát khao của nó; sự xấu xí và thảm hại của nó.

“Tôi muốn tạo hình một con người.”

“Một con người?”

Tôi quay đầu nhìn lại “bóng ma” từ đầu đến chân. Bây giờ cái miệng cô ta có một nét biểu cảm có trên người phụ nữ kia. Cô ấy đã nhìn vào gương khi nặn đôi môi này. Và cô ta cho bức tượng hình ảnh đôi mắt của chính cô. Và cái mũi tẹt kia giống như một quả mận bị ép.

“Cái đẹp này và cái xấu này có trong tất cả mọi người… trong mọi hình thức… Nhưng nó nhất định phải có. Chẳng phải sao?”

Tôi không nói.

“Nhất định phải có…Cả cái đẹp lẫn cái xấu… chỉ đôi khi cái đẹp bị giấu kín đến nỗi không thể thấy nó. Hoặc cái xấu ẩn dưới cái đẹp. Tôi muốn cho chúng bộc lộ cùng nhau… hay là tôi không nên?”

Cô ta hay nói “tôi có nên không?” Dù thế nào tôi vẫn im lặng và nhìn tác phẩm của cô. Nhìn càng lâu, tôi càng thấy trong lòng ấm áp và thoải mái. Như có một cái gì bóp nghẹt tôi, thổi phồng tôi, không cho tôi thở dễ dàng, đang từ từ thoát khỏi tôi qua một cái lỗ nhỏ.

Cảm giác thật diệu kỳ, và tôi không muốn cưỡng lại nó. Ôi, không! Tôi muôn nghe điệu nhạc ấy, cái giọng hơi vỡ ra dường như được bọc bằng một lớp men bạc, giọng của một người đàn bà đẹp. Tôi không muốn cử động để khỏi làm vỡ mất cái bình lặng của đêm, trong đó dường như chỉ có ba chúng tôi tồn tại cùng với cái ánh sáng dìu dịu của ngọn đèn trên bàn. Các góc của căn phòng này được bọc bằng sự hài hòa buồn bã của cái đẹp và cái xấu, ở trung tâm của cái thành phố khổng lồ tối đen đang ngủ say này.

Những đường nét của pho tượng kỳ lạ này toát ra một nỗi khao khát trò chơi hão huyền của cuộc sống. Cô gái đứng bên tôi, giọng của cô là giọng của pho tượng ấy. Trong tim tôi nỗi buồn thức dậy.

“Anh là nghệ sĩ phải không ?”

“Phải, tôi là một nghệ sĩ.”

“Em nhìn biết ngay. Em rất vui mừng. Em đã muốn trưng bày nó từ lâu. Nhưng em không thể… bây giờ em mới thấy những gì em làm là đúng. Em hạnh phúc.”

Cô xúc động. Cô ước vài bước về một bên, quay lại, xoa xoa hai tay. Rồi cô dịu dàng chạm vai tôi.

“Anh buồn à?”

Tôi gật đầu, mặc dù tôi không còn buồn nữa.

“Có phải điều gì đó làm anh chán. Tha lỗi cho em, vì em đã yêu cầu anh chuyện đó… Em thích anh.”

Tôi thích nghe nói thế dù tôi không rung động.

Cô im lặng.

“Anh có bao giờ cảm thấy tất cả mọi khốn khổ là một hình thức của cái xấu không ?…”

Tôi không động đậy. Tôi không muốn để cô nói, để cái giọng vỡ, khao khát ấy tiếp tục sau lưng tôi.

“Em luôn cảm thấy rằng… đó là lý do tại sao những người xấu xí lại thường bất hạnh đến thế… Xấu xí không phải chỉ trên mặt… Tất cả đều xấu.. Em không đúng à?”

Tôi thở dài sâu. Người đàn bà này biết nỗi buồn. Cô ta biết cái ý nghĩ về nó. Có lẽ cô ta thường xuyên nhìn nó kỹ quá như nhìn vào một vết thương.

“Sao anh không nói?”

Bỗng nhiên tất cả chuyện này trở nên tuyệt diệu. Bóng ma này, căn phòng được trang hoàng thanh nhã với thị hiếu nghệ sĩ này, những bức tranh, và bức tượng bị che khuất sau tấm khăn trải giường. Tôi đứng lên và lướt nhìn cô chủ nhà của tôi từ chân đến đầu. Cô đứng, hai cánh tay buông thõng bên mình, chăm chăm nhìn tác phẩm của cô. Đôi mắt cô mang cùng nỗi đau buồn như bức tượng của cô. Bản thân cô là một tác phẩm.

“Cô làm có lâu không ?”

Cô thở dài và quay mặt về phía tôi.

“Anh nói gì? Em xin lỗi, em không …”

“Tôi nói – Cô làm việc này có lâu không?”

“Việc gì?”

“Việc đắp tượng, tất nhiên.”

“Không, không lâu, chưa đến một năm”

“Và… làm gái?”

Cô ta cúi đầu xuống.

“Em không tìm được việc nào mà em có thể đi làm vào ban đêm”

“Không tôi không hỏi chuyện đó. Tôi hỏi cô vào nghề ấy đã lâu chưa?”

Tôi nói với cô như một quan tòa. Và cô ấy cảm thấy tôi có quyền nói với cô như vậy. Nhưng tại sao?

“Em đã làm nghề ấy ngay từ khi em bắt đầu làm bức tượng này.”

“Và cô làm tượng vào ban ngày.”

“Vâng.”

Tại sao tôi hỏi cô tất cả những chuyện ấy? Có trời biết. Tôi lại ngồi xuống ghế, tựa đầu lên lưng ghế, và không cử động. Ở nơi nào đó trong xưởng vẽ không người, Natalie đang ngủ. Cứ để cho nàng ngủ. Ngày mai nàng sẽ thấy sự đánh giá sắc đẹp của nàng. Cứ để cho nàng thấy.

“Nghe này” Tôi bỗng nhiên ngẩng đầu lên, “Có phải cô cố cho tôi thấy sự thống nhất của cái đẹp và cái xấu để thấy trong cái hình thức đẹp bề ngoài cái xấu bên trong bộc lộ ra, phải không ?”

“Không em không muốn cố theo cách ấy. Khó hơn nhiều.”

“Khó hơn? Hừ! Ừ khó hơn, đúng. .. nhưng nó có nhiều tác động hơn”

“Oh…nhiều hơn…”

“Nó phải gợi lên một nỗi buồn cùng cực. Nó phải gây ra rối loạn đau đớn ở tâm một sự kết hợp như thế, đúng không? để cho một vẻ đẹp như thế, một sự kết hợp như thế, sao cho người ta có thế thấy… Không! tôi nói không đúng… tôi không thể nghĩ… nhưng bây giờ tôi hiểu. Bây giờ tôi đã hiểu.”

Và tôi lại ngả đầu tựa lên vai ghế. Bây giờ tôi đã thật sự hiểu, rằng ngay cả trong những khoảnh khắc hạnh phúc thuần khiết nhất với sắc đẹp của Natalie, trái tim tôi bị bóp nghẹt bởi một nỗi buồn, nỗi khát khao chưa từng biết khiến tôi muốn khóc lên bằng những giọt nước mắt nóng hổi cho ai đó hay cái gì đó, và tại sao trong những giọt nước mắt đó có cả cái dịu dàng và hạnh phúc và nỗi đau và vô vọng.

Hiếu Tân dịch theo bản tiếng Anh (dịch từ tiếng Ukraine) của L. Hirna và D. Struk

Read Full Post »

Phá

Truyện ngắn của JOSEPH CONRAD

Hiếu Tân dịch

.

Joseph Conrad (Józef Teodor Konrad Korzeniowski) nhà văn Anh gốc Ba lan (1857- 1924). Tác phẩm chính: Chiến thắng (Victory, 1915) Lord Jim, 1900, Tên mật vụ (The Secret Agent, 1907) Một kẻ bị ruồng bỏ (An Outcast of the Islands, 1896), Cuộc đọ kiếm (The Duel), Heart of Darkness, 1899, (Nostromo,1904)

Conrad được coi là một trong những nhà văn viết tiếng Anh hay nhất, là người có phong cách văn xuôi bậc thầy đã đưa những xúc cảm bi kịch của những xứ sở ngoài Anh vào văn chương Anh.

ND

***

Người đàn ông da trắng tì cả hai khuỷu tay lên mui ở khoang đuôi thuyền, nói với ông lái:

“Chúng ta sẽ nghỉ qua đêm ở ngôi nhà của Arsat trong khoảng rừng trống. Bây giờ muộn mất rồi”

Người Mã lai chỉ lầm bầm điều gì không rõ và tiếp tục nhìn cắm xuống dòng sông. Người da trắng tỳ cằm lên hai cánh tay khoanh đặt trên mui thuyền và đăm đăm nhìn luồng nước rẽ trôi phía sau thuyền. Ở cuối con đường thẳng trong rừng bị cắt ngang bởi ánh lấp lánh gay gắt của sông, mặt trời hiện ra chói lòa giữa bầu trời quang đãng, lơ lửng trên dòng nước phẳng lừ sáng loáng như một giải kim loại. Những cánh rừng âm u xám xịt đứng im lặng bất động hai bên dòng nước rộng. Dưới gốc những cây to cao chót vót, những cây cọ nipa không thân mọc lên từ bùn bên bờ thành những cụm lá to rộng rậm rạp, che trên những xoáy nước màu nâu cuồn cuộn. Trong không khí im lìm từng thân cây từng chiếc lá, từng cành, từng tua của những cây leo, từng cánh của những bụi hoa nhỏ xíu.. dường như đang mê đi trong một cảnh bất động hoàn toàn và cuối cùng. Không vật gì động đậy trên mặt sông ngoài tám mái chèo nhịp nhàng khỏa lên xuống làm nước bắn tóe; trong khi ông lái mạnh mẽ và đột ngột vung tay chèo đều đặn sang phải sang trái vạch thành những đường bán nguyệt lóe sáng trên đầu ông. Nước bị khuấy tung bọt trắng trong tiếng kêu róc rách. Và chiếc thuyền chở người đàn ông da trắng, bơi ngược dòng sông trong sự náo động ngắn ngủi do nó tạo ra, dường như đang tiến vào một xứ sở mà ngay cả ký ức về chuyển động cũng đã bị phai mờ vĩnh viễn.

Người đàn ông da trắng, lưng quay về phía mặt trời đang lặn, ngắm nhìn khoảng trống trải mênh mông phía cửa biển. Trong ba dặm cuối cùng của nó, con sông đang ngập ngừng và lờ lững bỗng như không cưỡng nổi sự dụ dỗ từ vẻ phóng khoáng của một chân trời rộng mở, lao thẳng ra biển, lao thẳng hướng đông – cái phương đông neo đậu cả ánh sáng và bóng tối. Đằng sau thuyền, một nghịch âm mơ hồ không rõ rệt, như tiếng kêu liên hồi của loài chim, nhảy cóc trên mặt nước êm và mất hút trong cái im lìm như nín thở của cảnh vật, trước khi vào được đến bờ.

Ông lái dấn mái chèo xuống dòng nước, và giữ nó bằng cánh tay cường tráng, thân người ông nhao về phía trước. Tiếng nước réo ùng ục, và khúc sông đang thẳng bỗng nhiên như xoay đi quanh tâm của nó, những cánh rừng đu đưa nửa vòng và ánh tà dương chiếu chếch mạn thuyền bừng lên rực rỡ, in những bóng người mỏng manh và vặn vẹo trên thuyền thành những vệt dài lên mặt nước sông lấp loáng. Người da trắng quay lại nhìn lên phía trước. Hướng thuyền đã đổi thành vuông góc với dòng sông, và cái mũi thuyền chạm đầu rồng bây giờ nhằm thẳng vào một khe hẹp trong những bụi cây chằng chịt bên bờ sông. Nó lướt qua, chải qua những cành cây con buông rủ từ trên xuống, và biến mất khỏi dòng sông giống như một loài lưỡng cư mảnh mai dời khỏi mặt nước bò lên hang ổ của chúng ở trong rừng.

– 2 –

Con rạch nhỏ giống như một đường hào: ngoằn ngoèo và sâu một cách khó tin, đầy bóng tối ảm đạm dưới một dải hẹp màu xanh dương trong sáng của bầu trời. Mênh mông cây rừng vươn lên cao ẩn mình sau những diềm hoa của những bụi dây leo. Đó đây, bên bóng đen lấp loáng của mặt nước, những bộ rễ xoắn xuýt của những cây cao hiện ra giữa những mảng dương xỉ, đen và tăm tối, oằn oài và bất động, giống như những con rắn bị tóm giữ. Những lời lẽ cộc lốc của mấy người chèo thuyền bị dội lại vang lên giữa những bức tường thực vật dày đặc và tối xẫm. Bóng tối rỉ ra từ giữa những bóng cây, qua mê lộ rối rắm của những kênh rạch, đằng sau những tán lá lặng tờ hình thù kỳ quái; bóng tối bí mật và không gì thắng nổi, cái bóng tối tỏa hương thơm và độc địa của những cánh rừng dày kín mít.

Những người chèo thuyền dùng sào chống ở đoạn nước nông. Con rạch mở ra thành một giải rộng, một cái phá trì trệ lờ đờ. Những cánh rừng lùi xa khỏi bờ đầm lầy để lại một giải cỏ lau bằng phẳng màu xanh nhạt, đóng khung lấy màu xanh dương được phản chiếu của bầu trời. Một tảng mây xốp màu hồng bồng bềnh trên cao, để hình ảnh với sắc màu thanh nhã của nó trôi dưới những chiếc lá nổi trên mặt nước và những bông hoa sen ánh bạc. Một ngôi nhà nhỏ ngất ngưởng trên những chiếc cột cao hiện ra đen ngòm phía xa. Cạnh nó, hai cây cọ nibong cao vút trông như tách ra khỏi cảnh rừng làm nền phía sau, hơi nghiêng trên mái nhà bờm xờm, những tán lá dày của chúng ngả xuống như che chở, gợi một nét dịu dàng buồn bã.

Ông lái giơ mài chèo lên chỉ: “Arsat có nhà. Tôi trông thấy chiếc thuyền của anh ấy buộc giữa các hàng cột”

Những người chân sào chạy dọc mạn ngảnh nhìn qua vai cái mục tiêu của một ngày hành trình. Nếu có thể được, chắc họ đã muốn nghỉ đêm ở một nơi nào khác chứ không phải trong cái phá nổi tiếng về những chuyện ma quái và huyền hoặc này. Hơn nữa, họ không thích Arsat, trước hết vì anh ta là người lạ, và cũng vì anh ta sửa chữa cái nhà sập sệ này và trú ngụ trong đó, tuyên bố rằng anh ta không sợ sống giữa những hồn ma thường ám những nơi hoang vắng. Một người như thế rất có thể làm chệch đường đi của thần số mệnh bằng những lời lẽ báng bổ hay bất cẩn, trong khi những con ma quen thuộc của hắn không dễ bỏ qua những người khách trọ qua đường này, mà chúng đã nóng lòng chờ đợi từ lâu để trút lên họ những cơn giận hiểm ác đối với người chủ của chúng. Người da trắng không lo sợ những chuyện loại đó, họ là những người không có tín ngưỡng và họ liên kết với Chúa Quỷ, người dẫn họ qua những hiểm nguy vô hình của thế giới mà không bị hại. Trước những lời cảnh báo hợp lý, họ có thái độ tự đắc hoài nghi rất khó chịu. Vậy còn biết làm thế nào với họ?

– 3 –

Họ nghĩ vậy, và đè cả sức nặng thân người lên đầu những con sào. Chiếc thuyền lớn lập tức trườn đi êm ru không một tiếng động, về phía giải đất trống của Arsat, cho đến khi nghe những tiếng lộp cộp của những con sào ném xuống, và những tiếng rì rầm cất lên “Lạy đức Ala!” đó là lúc nó đụng nhẹ vào những cọc gỗ cong queo dưới chân ngôi nhà.

Những người chèo thuyền nghếch mặt lên kêu chói tai: “Arsat! Ơ Arsat!” Không có ai ra. Người da trắng bắt đầu trèo lên chiếc thang thô dẫn lên sàn nứa trước cửa nhà. Người lái thuyền nói giọng bực bội: “Chúng ta sẽ nấu ăn trên thuyền và ngủ trên nước”

“Đưa cái chăn và cái giỏ của tôi đây” Người da trắng nói giọng khô khan. Anh ta quỳ trên sàn để nhận cái bọc. Chiếc thuyền bị đẩy ra, và người da trắng đứng dậy, đối diện với Arsat vừa mới từ chiếc cửa thấp của ngôi nhà chui ra. Đó là một chàng trai trẻ khỏe, với bộ ngực nở và đôi cánh tay cuồn cuộn bắp thịt. Anh không mặc gì ngoài một chiếc xarong, để đầu trần. Đôi mắt to, ôn hòa của anh nhìn người da trắng chằm chằm, hăm hở, nhưng giọng của anh điềm tĩnh khi anh hỏi, mà không cần chào.

“Anh có thuốc không, Tuân[1]?”

“Không” Người da trắng giật mình nói “Không. Nhưng sao, ở đây có người bệnh à?”

“Vào mà xem” Arsat trả lời, vẫn với giọng bình thản và hơi quay người, lại chui qua chiếc cửa nhỏ. Người da trắng bỏ rơi cái bọc của mình, đi theo. Trong bóng tối mờ mờ của chỗ ở, trên một chiếc ghế dài bằng tre, một người phụ nữ nằm ngửa duỗi dài dưới một tấm chăn rộng bằng vải bông đỏ. Cô ta nằm ngay đơ như chết, nhưng đôi mắt to mở rộng lóe lên trong bóng tối, trừng trừng nhìn lên những rui mè gày guộc trên mái nhà, bất động và không thấy gì. Cô ta đang sốt cao và rõ ràng là bất tỉnh. Đôi má hơi trũng xuống, đôi môi hé mở, và trên gương mặt còn trẻ có điềm xấu, cái vẻ cứng đờ, cái vẻ chìm sâu trong vô thức của một người sắp chết. Hai người đàn ông đứng nhìn xuống cô trong im lặng.

“Cô ấy ốm đã lâu chưa?” Người du khách nói.

“Đã năm ngày đêm tôi không ngủ” Người Mã lai nói chậm rãi. “Đầu tiên cô ấy nghe có những tiếng gọi cô ấy từ dưới nước và vùng ra khỏi tôi lúc ấy đang giữ chặt cô ấy. Nhưng hôm nay từ lúc mặt trời lên cô ấy không nghe thấy gì nữa. Không nghe thấy cả tiếng tôi. Cô ấy không nhìn thấy gì nữa. Không nhìn thấy cả tôi”

– 4 –

Anh ta im lặng một lúc, rồi khẽ hỏi:

“Anh Tuân, liệu cô ấy có chết không?”

“Tôi sợ thế” Người da trắng nói buồn rầu. Anh biết Arsat đã nhiều năm nay, ở một nơi xa xôi từ những thời gian rắc rối và nguy hiểm, khi đó người ta không coi nhẹ tình bạn. Và từ khi người bạn Mã lai này của anh bỗng dưng đến ngụ trong túp nhà trên cái phá này với một người đàn bà xa lạ, đã nhiều lần anh ngủ lại ở đây, trong những chuyến đi xuôi ngược trên sông. Anh thích người bạn này, anh ta biết cách giữ trung thành trong hội đồng và biết cách sát cánh bên người bạn da trắng chiến đấu không hề sợ hãi. Anh thích anh ta, có lẽ không nhiều như người ta thích một con chó cưng, nhưng dù sao anh vẫn thích anh ta đủ để giúp đỡ mà không vặn hỏi, để đôi khi giữa những cuộc theo đuổi mục đích của mình, có một thoáng nghĩ về người đàn ông cô độc và người đàn bà tóc dài với bộ mặt gan góc và đôi mắt đắc thắng, họ sống ẩn náu với nhau trong rừng, đơn độc và sợ hãi.

Người da trắng ra khỏi lều đúng lúc để nhìn thấy cảnh mặt trời lặn như một đám cháy lớn bị dập tắt dần bởi những bóng tối mau lẹ và lén lút nổi lên như những đám hơi nước đen mờ phía trên những ngọn cây, trải ra trên bầu trời, phủ mờ ánh đỏ ối của những đám mây trôi và ánh chói lọi của ngày đang dần tắt. Phút chốc tất cả các vì sao hiện ra cao tít phía trên cái nền đen xẫm của đất, và cái phá mênh mông này bỗng nhiên lấp lóa những ánh sáng phản chiếu giống như một mảnh vá hình ôvan của trời đêm ném xuống màn đêm của một vùng hoang vu thăm thẳm và vô vọng. Người da trắng lấy ra từ chiếc giỏ bữa ăn tối, và vơ lấy mấy que củi rải rác trên sàn, nhóm lên một ngọn lửa nhỏ không phải để sưởi mà để có chút khói để xua muỗi. Anh quấn chăn và ngồi tựa lưng vào vách sậy của túp lều, đăm chiêu rít thuốc.

Arsat chui qua cửa bằng những bước chân không gây tiếng động đến ngồi xổm bên đống lửa. Người da trắng hơi động đậy đôi chân duỗi dài.

“Cô ấy thở” Arsat nói bằng giọng trầm, chờ đợi câu hỏi. “Cô ấy thở và người nóng rực như lửa. Cô ấy không nói, không nghe, và nóng rực.”

Anh im lặng một hồi, rồi hỏi bằng giọng khe khẽ và đều đều.

– 5 –

“Tuân… liệu cô ấy có chết không?”

Người da trắng nhún vai khó nhọc và lầm bầm ngập ngừng:

“Nếu đó là số phận của cô ấy”

“Không, Tuân, nếu đó là số phận của tôi” Arsat bình tĩnh nói. “Tôi nhìn, tôi nghe, tôi đợi. Tôi nhớ…Tuân, anh còn nhớ những ngày ấy không? Anh còn nhớ anh tôi không?”

“Có” Người da trắng nói. Người Mã lai bỗng đứng dậy và đi vào. Người còn lại ngồi im bên ngoài, nghe thấy giọng nói bên trong lều. Arsat nói. “Em nghe anh. Nói đi em” Tiếp sau giọng anh là im lặng hoàn toàn. “Ôi, Diamelen!” Anh bỗng kêu lên. Sau tiếng kêu ấy là tiếng thở dài sâu. Arsat lại bước ra và sụm xuống chỗ ngồi ban nãy.

Họ ngồi im trước ngọn lửa. Không có tiếng động bên trong lều, không có tiếng động nào gần nó, nhưng xa xa trên phá họ nghe thấy tiếng những người chèo thuyền từng đợt vang vang rõ ràng trên mặt nước êm. Ngọn lửa trên mũi thuyền chập chờn ở khoảng xa. Rồi tắt hẳn. Những tiếng nói ngừng. Đất và nước im lìm trong giấc ngủ vô hình, tưởng như trên thế giới này không còn lại gì ngoài những vì sao lấp lánh chảy bất tận và vô ích qua tịch mịch của đêm đen.

Người da trắng ngó thẳng trước mặt vào đêm tối bằng đôi mắt mở to. Nỗi sợ, sự thôi miên, kích thích và kinh hoàng của cái chết – của cái chết gần kề, không tránh khỏi và không nhìn thấy, làm lắng lại những bồn chồn bất yên của đời anh và khuấy lên những suy tư mơ hồ, sâu kín nhất. Nỗi hoài nghi thường trực về cái ác, nỗi ngờ vực dày vò luôn ẩn núp trong trái tim chúng ta, chảy tan ra thành cái tịch mịch bao quanh anh lúc này – cái tịch mịch thăm thẳm và lì lợm, nó hiện ra ô nhục đáng hổ thẹn, giống như cái mặt nạ lạnh tanh và khôn dò của một thứ bạo lực phi lý. Trong sự xáo trộn mãnh liệt và phù du của cuộc sinh tồn của anh, trái đất được ôm bọc trong cái thanh bình của ánh sao biến thành xứ sở tối tăm của cuộc xung đột dã man phi nhân tính, một mặt trận của những bóng ma khủng khiếp và quyến rũ, oai nghiêm hay đê tiện, vật lộn mãnh liệt để giành giật những trái tim không được bảo vệ của chúng ta – một xứ sở không yên bình và bí hiểm, của những nỗi sợ hãi và những khát vọng không thể dập tắt.

Một tiếng rì rầm ai oán nổi lên trong đêm, một tiếng rì rầm làm ta buồn bã và sửng sốt, như thể những nỗi cô đơn vô tận của những cánh rừng bao quanh đây đang cố thì thầm vào tai anh cái khôn ngoan của sự lãnh đạm dửng dưng kiêu kỳ và mênh mông của nó. Ngập ngừng vang lên và mơ hồ trôi đi trong bầu không khí vây quanh anh, chầm chậm hình thành lời, và cuối cùng êm đềm trôi đi trong dòng chảy rì rầm của những câu nhẹ nhàng và đơn điệu. Anh cựa quậy như người vừa tỉnh ngủ, và hơi thay đổi thế ngồi. Arsat bất động và như một cái bóng, ngồi cúi gục đầu dưới trời sao, đang nói bằng một giọng trầm và mê sảng

– 6 –

‘.. vì chúng ta còn có thể đặt cái nặng nề nhất trong những phiền muộn của chúng ta ở đâu ngoài những trái tim bè bạn? Một người đàn ông thì phải nói về chiến tranh và về tình yêu. Anh, chính anh ấy, Tuân ạ, anh biết chiến tranh là như thế nào, và anh đã thấy trong thời kỳ nguy khốn tôi đã đi tìm cái chết như người ta đi tìm sự sống. Một bài viết có thể bị mất, một lời nói dối có thể được viết ra, nhưng những gì ta đã nhìn tận mắt là sự thật và sẽ còn mãi trong trí óc.’

‘Tôi nhớ’ Người da trắng lặng lẽ nói. Arsat tiếp tục bằng giọng điềm tĩnh ảm đạm.

‘Do đó tôi sẽ nói với anh về tình yêu. Nói trong đêm nay. Nói trước khi cả tình yêu lẫn bóng đêm đều tan biến, và con mắt của ban ngày sẽ nhìn vào nỗi đau của tôi và nỗi xấu hổ của tôi, nhìn vào bộ mặt đen tối của tôi, vào trái tim tan vỡ của tôi.’

Một tiếng thở dài ngắn và yếu ớt, đánh dấu một quãng ngưng hầu như không thể nhận ra, rồi sau đó những lời của anh tiếp tục chảy, không một nhúc nhích, không một cử động.

‘Sau cái thời gian mọi rắc rối và chiến tranh đều đã qua đi, và anh rời khỏi đất nước chúng tôi để tiếp tục theo đuổi các khát vọng của anh, mà chúng tôi, những người dân đảo này không thể hiểu nổi; tôi và anh tôi trở lại làm những thị vệ, những người mang kiếm đi hầu đức vua như trước. Anh biết chúng tôi đều là những người đàn ông chủ gia đình, trong một dòng tộc cai trị và hơn ai hết thích hợp để mang cái biểu trưng của quyền lực trên vai phải của mình. Và trong thời kỳ thịnh vượng Si Dendring đã ban cho chúng tôi nhiều ân sủng, vì chúng tôi trong thời kỳ đau buồn đã tỏ cho ngài thấy xác thực lòng can đảm của chúng tôi. Đó là một thời kỳ thanh bình, một thời của những cuộc săn hươu và những cuộc chọi gà, của những cuộc chuyện trò vô bổ và những cuộc cãi vã ngớ ngẩn, giữa những người đàn ông bụng căng đầy và vũ khí để han rỉ. Nhưng người gieo hạt ngắm nhìn những người trai trẻ non tơ lớn lên không sợ hãi, và những người lái buôn đến rồi đi, ra đi gày guộc trở về béo tốt đi vào dòng sông thanh bình này. Họ cũng mang đến cả những tin tức nữa. Những điều dối trá trộn lẫn với sự thật, do đó không ai biết được khi nào nên vui khi nào nên buồn. Chúng tôi nghe được tin anh cũng từ bọn họ. Họ đã thấy anh ở chỗ này chỗ kia. Và tôi đã vui mừng nghe, vì tôi nhớ những thời gian sôi nổi, tôi luôn luôn nhớ anh, Tuân ạ, cho đến khi mắt tôi không còn nhìn thấy gì trong quá khứ nữa, vì nó đã nhìn thấy con người đang chết ở đây – trong ngôi nhà này.’

– 7 –

Anh dừng lại để kêu lên bằng giọng thầm – thì mãnh liệt “Ôi, Mara bahia! Ôi tai họa!” rồi tiếp tục nói lớn hơn một chút.

“Không có kẻ thù nào tồi tệ hơn và người bạn nào tốt hơn một người anh, Tuân ạ, vì người anh thì hiểu người em, và trong sự hiểu biết thấu đáo có sức mạnh của cái thiện và cái ác. Tôi yêu anh tôi. Tôi đến nói với anh rằng tôi không thể nhìn cái gì khác ngoài một khuôn mặt, tôi không thể nghe cái gì khác ngoài một giọng nói. Anh ấy bảo tôi “ Hãy mở trái tim của em ra để cho cô ấy thấy trong đó có gì, và đợi. Kiên nhẫn là khôn ngoan. Inchi Midah có thể chết hay nhà vua có thể vứt bỏ nỗi sợ một người đàn bà của ngài…Tôi đã đợi! ..Tuân ơi, anh còn nhớ người phụ nữ che mạng và nỗi sợ của đấng quân vương của chúng tôi đối với sự khôn ngoan và tâm tính của nàng. Và nếu nàng muốn người đày tớ của nàng, thì tôi biết làm sao được? Nhưng tôi nuôi dưỡng trái tim đói khát của tôi bằng những cái liếc nhìn chớp nhoáng và những lời lẽ vụng trộm. Ban ngày tôi lảng vảng trên những con đường dẫn đến những nhà tắm, và sau khi mặt trời lặn xuống sau rừng tôi trườn qua những hàng dậu hoa nhài ở sân trong ngôi nhà của những người phụ nữ. Không nhìn thấy nhau, chúng tôi nói với nhau qua mùi hương của những bông hoa, qua màn che của những khóm lá, qua những lá cỏ dài đứng lặng trước môi chúng tôi, sự thận trọng của chúng tôi mới kỹ lưỡng làm sao, tiếng thầm thì của nỗi khao khát của chúng tôi mới e ấp làm sao. Thời gian trôi nhanh và giữa những người phụ nữ có tiếng xì xào – và kẻ thù của chúng tôi trông thấy, anh tôi mặt mày ủ rũ, và tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện giết, và đến một cái chết dữ dội. Chúng tôi thuộc loại người đã muốn là làm – giống như người da trắng các anh. Có những lúc người đàn ông phải quên đi sự trung thành và tôn kính. Sức mạnh và quyền hành được trao cho những người cai trị, nhưng tất cả mọi người đàn ông được phú cho tình yêu và sức lực và lòng can đảm. Anh tôi bảo “Em phải cướp nàng đi từ giữa bọn họ. Chúng ta hai người như một.” Tôi trả lời “Làm sớm đi anh ạ, vì ánh nắng nào không chiếu trên người nàng thì em không thấy ấm áp” Thời cơ của chúng tôi đến khi nhà vua cùng đoàn tùy tùng của ngài ra cửa sông để câu cá bằng đuốc. Có hàng trăm chiếc thuyền, và trên bãi cát trắng giữa sông và rừng, những căn chòi bằng lá được dựng lên cho những người của hoàng gia. Khói bếp trông như một làn sương lam buổi tối, nhiều giọng nói vui vẻ vang lên. Trong khi họ đang chuẩn bị thuyền để đi đánh cá, anh tôi đến nói với tôi “Đêm nay.” Tôi chuẩn bị vũ khí và khi đến giờ thuyền chúng tôi trà trộn vào đám thuyền mang đuốc. Những ánh lửa chiếu sáng rực mặt nước, nhưng đằng sau các thuyền bóng tối vẫn dày đặc. Khi tiếng reo hò nổi lên và sự kích động khiến họ như phát cuồng, thuyền chúng tôi rút ra. Chúng tôi nhúng tắt lửa và bơi thuyền vào bờ, trên bờ lúc này tối đen chỉ còn rải rác đây đó những đốm lửa than lập lòe. Chúng tôi nghe thấy tiếng những nô tỳ trò chuyện trong chòi. Rồi chúng tôi tìm ra một chỗ vắng vẻ và tĩnh lặng. Chúng tôi đợi ở đó. Nàng đến. Nàng đã chạy hối hả dọc mép sông không để lại dấu vết gì, giống như một chiếc lá được ngọn gió đưa ra biển. Anh tôi nói giọng âm u “Ra đón nàng, đưa nàng xuống thuyền.” Tôi bế xốc nàng lên. Nàng hổn hển. Tim nàng đập thình thịch bên ngực tôi. Tôi nói “Tôi giành được nàng từ trong đám người kia. Nàng đến đây theo tiếng gọi của lòng tôi, nhưng đôi tay tôi đưa nàng xuống thuyền cưỡng lại cả ý trời.” Anh tôi nói “Đúng đấy. Chúng tôi là những người đã muốn gì là làm bằng được, và có thể cự lại nhiều người để chống giữ. Lẽ ra chúng tôi nên cướp nàng giữa ban ngày.” Tôi nói “Chúng ta đi thôi.” Khi nàng đã ngồi trong thuyền của chúng tôi, tôi bắt đầu nghĩ đến những người của nhà vua. “Phải đấy, chúng ta đi thôi.”Anh tôi nói “Chúng ta bị truy đuổi, con thuyền này bây giờ là nơi trú ngụ của chúng ta, biển cả là nơi lánh nạn của chúng ta.” Anh ấy vẫn nấn ná trên bờ, và tôi van anh hãy nhanh lên, vì tôi nhớ đến tiếng tim đập của nàng bên ngực tôi, và tôi nghĩ hai người không thể cự lại cả trăm người. Chúng tôi xuất phát, bơi thuyền gần bờ xuôi dòng, và khi chúng tôi qua nhánh sông nơi họ đang đánh cá, tiếng reo hò vang dậy đã ngừng, nhưng tiếng rì rầm của những giọng người nghe như tiếng vù vù của loài côn trùng bay lúc giữa trưa. Những chiếc thuyền thả nổi, cụm vào với nhau, trong ánh đuốc đỏ rực, dưới một màn khói đen. Những con người đang nói về trò vui của mình, những con người khoác lác, tán tụng, châm chọc – những con người ban sáng còn là bạn của chúng tôi nhưng đêm đó đã là kẻ thù. Chúng tôi mau lẹ bơi thuyền qua. Từ nay trên mảnh đất đã sinh ra chúng tôi, chúng tôi không còn người bạn nào nữa. Nàng ngôi giữa thuyền, mạng che mặt, im lặng như bây giờ, không nhìn – như bây giờ – và tôi không hề hối tiếc về những gì tôi đã bỏ lại, vì tôi nghe nàng thở gần bên tôi – như bây giờ tôi đang nghe.’

– 8 –

Anh ngừng lại, nghiêng tai về phía cửa, rồi lắc đầu và tiếp tục.

‘Anh tôi muốn hét lên một tiếng để thách thức, một tiếng thôi, để cho những người kia biết rằng chúng tôi là những kẻ cướp tự do bẩm sinh tin vào cánh tay của mình và tin vào biển cả. Và một lần nữa tôi lại van xin anh vì tình yêu của chúng tôi mà hãy giữ im lặng. Có thể nào tôi không nghe hơi thở của nàng gần gũi bên tôi? Tôi biết cuộc truy đuổi sẽ đến rất nhanh. Anh tôi yêu tôi. Anh ấy nhấn mái chèo xuống nước thật êm nhẹ. Anh ấy chỉ nói “Bây giờ trong người em chỉ còn một nửa người đàn ông, nửa còn lại ở trong người đàn bà kia. Anh sẽ đợi. Khi nào em trở lại là một người đàn ông trọn vẹn, hãy quay về đây với anh, để thét lên lời thách thức. Chúng ta là con cùng một mẹ.” Tôi không trả lời. Tất cả sức lực của tôi và tất cả hồn tôi dồn lên đôi tay đang nắm mái chèo, vì tôi cháy bỏng khao khát được sống với nàng ở nơi an toàn ngoài tầm với của cơn giận dữ của những người đàn ông và mối thù hận của những người đàn bà. Tình yêu của tôi lớn quá, đến mức tôi nghĩ nó có thể dẫn tôi đến một xứ sở nơi không biết đến cái chết, miễn là tôi thoát được hận thù của Inchi Midah và lưỡi gươm của đức vua của chúng tôi. Chúng tôi chèo như điên, thở qua kẻ răng. Những mái chèo ngập sâu dưới làn nước êm. Chúng tôi ra khỏi dòng sông, chúng tôi lướt bay qua những luồng nước thông giữa những chỗ cạn. Chúng tôi đi vòng qua những bờ đá đen, vòng qua những bãi cát nơi biển thầm thì trò chuyện với đất; và ánh lập lòe của cát trắng băng qua mặt nước chớp lóe qua thuyền chúng tôi. Chúng tôi im lặng. Chỉ có một lần tôi nói: “Ngủ đi Diamelean, rồi sắp tới sẽ cần đến toàn bộ sức lực của em đấy.” Tôi nghe giọng nàng ngọt ngào, nhưng tôi không quay đầu lại. Mặt trời lên và đứng yên. Nước rơi rào rào xuống mặt tôi như mưa. Chúng tôi lướt đi trong ánh sáng và hơi ấm. Tôi không ngó nhìn lại, nhưng tôi biết đôi mắt anh tôi, ở phía sau, đang trừng trừng nhìn thẳng phía trước, để con thuyền phóng thẳng như một mũi tên của thổ dân. Không có người chèo thuyền nào, người cầm lái nào giỏi như anh tôi. Nhiều lần chúng tôi đã cùng nhau đoạt giải những cuộc đua trên chính con thuyền này. Nhưng chưa bao giờ chúng tôi dồn hết sức lực như lúc này, khi chúng tôi cùng chèo với nhau lần cuối cùng. Trên đất nước tôi không có người đàn ông nào mạnh hơn và can đảm hơn anh tôi. Tôi không đủ sức quay đầu lại nhìn anh, nhưng tôi luôn nghe tiếng rít từ hơi thở của anh vang lên càng lúc càng mạnh đằng sau tôi. Anh vẫn không nói. Mặt trời đã lên cao. Ánh nắng đốt lưng tôi như ngọn lửa. Những giẻ sương sườn của tôi muốn nổ tung, nhưng tôi không còn sức hít đủ hơi vào lồng ngực nữa. Lúc đó tôi cảm thấy tôi phải dùng chút hơi cuối cùng để hét lên “Nghỉ anh ơi!” “Tốt!”Anh trả lời, giọng anh cứng cỏi. Anh ấy khỏe. Anh ấy can đảm. Anh ấy không sợ cũng không mệt. Anh tôi…”

– 9 –

Một cơn gió mạnh mà êm, một cơn gió hào sảng và từ tốn, một cơn gió làm những chiếc lá run rẩy, làm những cành cây đu đưa, xuyên qua rừng sâu rối rắm, chạy qua phá phẳng mượt nhấp nhánh ánh sao, và nước giữa những cây cột trơn nhớt mỗi lần đập vào cột lại bắn lên tung tóe. Một luồng hơi ấm mơn trớn khuôn mặt hai người đàn ông và lướt qua thành một âm thanh não nùng – một hơi thở vang và gấp như tiếng thở dài nặng nhọc của mặt đất mê mị.

Arsat tiếp tục bằng một giọng đều đều trầm trầm.

Chúng tôi kéo thuyền lên bãi cát trắng trong một vịnh nhỏ gần một lưỡi đất dài, dường như chắn ngang con đường của chúng tôi, một mũi đất dài mọc đầy cây nhô ra biển. Anh tôi biết chỗ này. Phía bên kia mũi đất có cửa vào một dòng sông. Xuyên qua rừng rậm trên mũi đất sẽ gặp một con đường hẹp. Chúng tôi nhóm lửa nấu cơm. Rồi chúng tôi nằm ngủ trên cát mịn, dưới bóng chiếc thuyền, còn nàng thì ngồi canh gác. Tôi vừa nhắm mắt thì nghe tiếng kêu báo động của nàng. Chúng tôi bật dậy. Mặt trời đã xế, và trong tầm mắt chúng tôi thấy một chiếc thuyền chiến lớn nhiều tay chèo xuất hiện ở cửa vịnh. Chúng tôi nhận ra nó ngay. Đó là chiếc thuyền chiến lớn của nhà vua. Họ đang nhìn lên bờ, và trông thấy chúng tôi. Họ đánh cồng và quay đầu thuyền chiến vào vịnh. Tôi thấy tim mình lịm đi trong lồng ngực. Diamelen ngồi trên cát và che mặt. Không có đường thoát ra biển. Anh tôi cười. Anh ấy có khẩu súng mà anh cho anh ấy trước khi anh ra đi, nhưng chỉ có một nhúm thuốc súng. Anh ấy nói rất nhanh với tôi “Đưa cô ấy chạy theo đường mòn. Anh sẽ chặn chúng lại, vì chúng không có súng tay, và đổ bộ lên đất liền ngay trước mặt một người có súng là có đứa chết chắc. Đưa cô ấy chạy đi. Ở mép rừng bên kia có một ngôi nhà của người đánh cá, và một chiếc xuồng. Anh bắn hết số đạn anh sẽ chạy theo. Anh là người chạy giỏi và chúng ta sẽ chạy thoát trước khi chúng đến. Anh sẽ cầm chân bọn chúng chừng nào còn có thể, vì dù sao cô ấy cũng là phụ nữ, không chạy được cũng không chiến đấu được, nhưng đôi bàn tay yếu ớt của cô ấy đang nắm trái tim em.” Anh ấy nấp sau thuyền. Chiếc thuyền chiến đến gần. Nàng cùng tôi chạy, và khi chạy theo đường mòn tôi nghe tiếng súng nổ. Anh tôi bắn, một..hai..và tiếng cồng im bặt. Sau lưng chúng tôi là im lặng. Giải đất ấy hẹp lắm. Trước khi nghe thấy phát súng thứ ba của anh tôi, tôi trông thấy một bờ cát thoai thoải, và tôi lại trông thấy nước: cửa một con sông lớn. Chúng tôi băng qua trảng cỏ. Chúng tôi chạy xuống mép nước. Tôi thấy một chiếc lều thấp trên bùn đen, và một chiếc xuồng con. Tôi nghe thêm một tiếng súng phía sau lưng. Tôi nghĩ “Đó là phát đạn cuối cùng của anh ấy.” Chúng tôi lao xuống chiếc xuồng, một người đàn ông từ trong lều chạy ra, tôi lao vào anh ta, và chúng tôi ôm nhau lăn trong bùn. Rồi tôi đứng dậy và hắn nằm bất động dưới chân tôi. Tôi không biết có phải tôi đã giết anh ta không. Tôi và Deamelen đẩy chiếc xuồng xuống nước. Tôi nghe tiếng thét phía sau và quay lại thấy anh tôi đang chạy qua trảng cỏ. Nhiều người đuổi bám sát sau anh. Tôi bế bổng nàng lên ném xuống xuồng rồi nhảy lao theo. Quay lại tôi thấy anh tôi đã ngã. Anh ngã rồi lại đứng dậy nhưng bọn người kia đã vây kín quanh anh. Anh ấy gào lên “Anh đến đây”, nhưng bọn kia đã đến gần anh. Tôi nhìn. Quá đông. Rồi tôi nhìn nàng. Tuân ơi, tôi đã đẩy xuồng! Tôi đẩy nó ra chỗ nước sâu. Nàng quỳ lên nhìn tôi. Tôi nói “Cầm lấy mái chèo” trong khi tôi quạt mạnh mái chèo của mình. Tuân ơi, tôi nghe anh ấy kêu! Tôi nghe anh ấy gọi tên tôi hai lần, và tôi nghe những giọng người quát lên “Giết! Đánh” Tôi không quay trở lại. Tôi lại nghe tiếng anh gọi tên tôi vô cùng thống thiết, như thể cả sự sống cùng trút ra với tiếng kêu. Tôi không hề quay đầu lại! Tên tôi.. Anh tôi! Đã ba lần anh gọi tên tôi. Tôi không sợ cho mạng sống của mình. Phải chi nàng không có trên cái xuồng đó! Và phải chăng tôi không thể cùng nàng tìm đến một xứ sở nơi không biết đến cái chết?

– 10 –

Người da trắng ngồi dậy. Arsat đứng lên: một dáng người mờ mờ và câm lặng trên đống than hồng sắp tàn. Trên phá, một màn sương mù là là trôi, chầm chậm xóa đi hình ảnh những ngôi sao nhấp nhánh. Và bây giờ một làn hơi nước trắng đang tỏa rộng che phủ cả mặt đất, trôi lạnh và xám trong bóng tối, những cơn gió xoáy tít cuốn quanh những thân cây tròn và quanh ngôi nhà này, ngôi nhà dường như đang bồng bềnh trên biển ảo mơ hồ và không ngơi nghỉ, dường như nó là vật duy nhất còn sót lại qua cuộc tàn phá của một cơn hồng thủy ma quái ngập dềnh sóng và vô thanh. Xa xa, những ngọn cây nổi bật trên nền trời sáng long lanh trông giống như một giải bờ biển tối tăm ảm đạm và gớm guốc – một giải bờ lừa gạt, nhẫn tâm và kinh tởm.

Giọng nói của Arsat rung mạnh trong bầu không khí thanh bình sâu thẳm:

‘Tôi đã có nàng. Tôi đã giành được nàng. Để giành được nàng tôi dường như đã phải đối đầu với cả loài người. Những tôi đã có nàng, và…’

Những lời nói của anh vang xa vào khoảng không hun hút. Anh ngừng lại và như để lắng nghe những tiếng nói ấy tắt dần ở khoảng cách xa xăm – xa đến vô vọng. Rồi anh nói, giọng âm thầm:

‘Tuân, tôi yêu anh tôi’

Một cơn gió làm anh rùng mình. Cao cao, trên đầu anh, và trên biển sương mù tĩnh lặng, những tàu lá cọ ủ rũ xạc xào một âm thanh tang tóc. Người da trắng duỗi chân. Cằm anh tì xuống ngực. Và anh lầm rầm buồn bã mà không ngửng đầu lên:

“Tất cả chúng ta đều yêu anh ấy”

Arsat bật ra thành tiếng thì thầm mãnh liệt:

“Tôi đã lo ai chết? Tôi muốn bình yên trong riêng trái tim tôi”

Hình như anh nghe thấy có tiếng động trong nhà, anh lắng tai, rồi lặng lẽ bước vào. Người da trắng đứng dậy. Một cơn gió thổi vào buốt lạnh. Những vì sao nhấp nháy mờ nhạt hơn như thể chúng đang rút lui vào chiều sâu thẳm giá băng của không gian vô tận. Sau một cơn gió lạnh là mấy giây im lặng hòan toàn và êm đềm tuyệt đối. Rồi từ sau cánh rừng đen âm u và dập dềnh như sóng hiện ra một cột ánh sáng vàng chói vọt thẳng lên trời và trải rộng ra thành hình dẻ quạt ở chân trời phía đông. Mặt trời đã mọc. Lớp sương mù dềnh lên, tan tác thành nhiều mảnh trôi lềnh bềnh và biến thành những vòng hoa tang mỏng manh bay bay, và cái phá không còn mạng che mặt, nằm, láng bóng và đen nhánh trong những mảng tối dày đặc dưới chân bức tường bằng cây rừng. Một con đại bàng trắng vụt bay lên bằng một đường bay nghiêng chậm chạp gặp ánh mặt trời chói chang nó sáng lóa lên trong khoảnh khắc, rồi bay lên cao nữa, thành một vệt tối và bất động, trước khi mất hút vào bầu trời xanh như thể vĩnh viễn dời xa mặt đất. Người đàn ông da trắng đứng trước cửa ngước mắt nhìn trời, nghe thấy từ trong nhà vọng ra tiếng lầm rầm bối rối và đứt quãng của những lời quẫn trí, kết thúc bằng một tiếng rên lớn. Bỗng nhiên Arsat nháo nhào chạy ra, hai cánh tay giang rộng, rùng mình và đứng lặng hồi lâu với đôi mắt vô hồn. Rồi anh nói:

– 11 –

“Nàng không còn sốt nữa!”

Trước mặt anh mặt trời tròn vành vạnh trên những ngọn cây, chậm rãi lên. Gió nhẹ thổi, một vẻ rực rỡ bừng lên trên phá, lấp lánh trên mặt nước gợn sóng. Rừng ra khỏi những bóng mây buổi sáng, trở nên rõ ràng khác biệt, như thể chúng đang đua nhau chạy đến gần, đột ngột dừng lại trong cái xôn xao của lá, cái đung đưa của cành. Dưới ánh mặt trời tàn nhẫn tiếng thầm thì của cõi sống vô thức như lớn hơn, nói bằng một giọng không ai hiểu nổi, quanh bóng tối lặng câm của nỗi buồn đau kiếp người. Đôi mắt của Arsat nhìn vẩn vơ rồi dán chặt vào mặt trời đang lên.

“Tôi chẳng thấy gì cả”

Anh nói giọng hơi lớn với chính mình.

“Có gì đâu mà thấy”

Người da trắng nói và bước ra đến mép sàn giơ tay vẫy chiếc thuyền của mình. Một tiếng kêu yếu đi qua phá và chiếc thuyền bắt đầu lặng lẽ trườn đi hướng về nơi trú ngụ của người bạn của những hồn ma.

“Nếu anh muốn đi với tôi, tôi sẽ đợi hết buổi sáng” Người da trắng nói, nhìn xa xa trên mặt nước.

“Không, Tuân ạ. Tôi sẽ không ăn hay ngủ trong nhà này, nhưng trước hết tôi phải nhìn thấy con đường của tôi. Bây giờ tôi không nhìn thấy gì cả, không thấy gì cả! Không có ánh sáng, không có hòa bình trên thế giới, nhưng có cái chết, cái chết cho nhiều người. Chúng tôi là con cùng một mẹ, và tôi đã để anh tôi lại giữa những kẻ thù; nhưng bây giờ tôi đang trở lại.”

Anh hít vào một hơi sâu và tiếp tục nói bằng giọng mơ mộng

“Chỉ một chút nữa thôi là tôi sẽ thấy đủ rõ để nghĩ ra – để nghĩ ra. Nhưng nàng đã chết… và , bây giờ tất cả lại tối đen”

Anh vung rộng hai tay để nó rơi xuống bên mình, rồi đứng yên với bộ mặt im lìm bất động và đôi mắt hóa đá, chăm chăm nhìn mặt trời. Người da trắng xuống thuyền. Những chân sào chạy thoăn thoắt dọc mạn, nhìn qua vai vào nơi xuất phát của một hành trình mệt nhọc. Ngồi cao trên đuôi thuyền, đầu quấn khăn trắng, người lái thuyền buồn bã thả cho mái chèo kéo lê dưới nước. Người da trắng tì cả hai cánh tay lên mái cỏ của khoang đuôi, nhìn những ngọn sóng lăn tăn lấp loáng phía sau thuyền. Trước khi con thuyền ra khỏi phá để đi vào con rạch, anh ngước mắt nhìn lên. Arsat vẫn đứng yên không động đậy. Trong ánh nắng tinh khôi sáng tỏ và xuyên thấu, anh vẫn đứng bất động trước nhà và vẫn nhìn qua ánh sáng rực rỡ của một ngày không mây vào bóng tối vô vọng của thế giới.

Bản Tiếng Việt ©: 2009 Hiếu Tân

[1] ‘Tuan’ trong nguyên bản

Read Full Post »

 

 

HIẾU TÂN

Lữ Kiều
phác họa Đỗ Hồng Ngọc

Nghĩ về Viết

 

Viết để làm gỉ? Để thành nhà văn? Nhà văn nổi tiếng? Có nhiều sách in, nuôi thân, nuôi vợ con, mua nhà mua xe bằng tiền bán sách? Đó chẳng là mơ ước của nhiều nhà văn sao? Và nhiều nhà văn xuất hiện, và nhiều cuốn sách ra đời. Dày đặc chữ và chữ. Kể lể và kể lể…Nước ta đã có cả một nền văn học kể lể.

 

Viết, dĩ nhiên phải thành chữ. Nhưng chữ không chỉ để kể lể. Chữ, bản thân nó, và tương quan  tương tác với nhau theo cách nào đó, tạo thành ý nghĩa sâu xa hay nông cạn, đó là văn. Văn, Chữ, cũng lắm khi trực chỉ nhân tâm.

Với tôi, cái gì từ trái tim rung lên, trí óc lóe sáng buộc con người với tay cầm lấy cây bút, cái ấy là văn. (more…)

Read Full Post »

 

CHẾ DIỄM TRÂM

04004825_1

(Đọc Từ Hải và Ẩn sĩ – Hiếu Tân)

Nhà văn Hiếu Tân vốn là Kỹ sư cơ khí động lực nhưng lại khá xông xáo trên trường văn trận bút: sách dịch ra mắt đều đều [mà toàn sách “khó tiêu”]; chuyên mục Nhìn ra thế giới trên trang mạng Vanchuongviet.org, mà có lẽ, ngoài ông, chắc cũng không mấy ai hăng hái đảm đương, bởi tính chất phải “kịp thời” và phải “nóng bỏng” của nó. Và, ông còn viết truyện ngắn và tản văn. Tập Từ Hải và Ẩn sĩ của ông là tập truyện ngắn và tản văn – Nxb Văn học, 2011. Tôi đã đọc đi đọc lại với mong muốn phản đối và “bắt bẻ” được tác giả. Song, càng đọc, càng thấy cuốn hút vào cuốn sách bàng bạc chất đối thoại này. (more…)

Read Full Post »

Tần Thuỷ Hoàng tâm sự

Hiếu Tân

Tần Thuỷ Hoàng ngồi ngả người trên một đám mây xốp. Bên cạnh y, Kinh Kha cũng trong tư thế ấy. Hai người đang chăm chú xem những hình ảnh loang loáng trước mặt.

images (1)

Tần Thuỷ Hoàng ngồi trên bệ rồng, uy nghi lẫm liệt. Phía dưới, ngồi trước án, Kinh Kha đang giở một cuộn giấy (địa đồ). Nét mặt gã căng thẳng. Bàn tay gã ngập ngừng. Giở đến cuối cuộn, nét mặt gã căng thẳng tột độ, gần như hốt hoảng. Bàn tay gã ngưng lại, khoảng độ một thế kỉ. Cuối cùng, con chuỷ thủ hiện ra. (more…)

Read Full Post »

Chuyện xứ Mithman

     Hiếu Tân

laudai

Ngày xửa ngày xưa có một ông vua..

Những câu chuyện cổ thường bắt đầu như thế. Câu chuyện này cũng xưa như trái đất, bởi vậy, nhân vật chính của nó ắt hẳn là một ông vua. Thật vậy, bạn đã từng nghe tiếng hoàng đế Templer lừng danh chưa? Chưa à? Thế thì lạ thật đấy. Danh tiếng và vinh quang của ngài, còn ai là  không biết?  Hoàng đế Templer  cai trị vương quốc Mithman, xứ sở huyền thoại, nằm cách kinh thành Alexandria khoảng 700 dặm. Khỏi phải nói đó là một xứ sở thanh bình: dân chúng ở đấy một ngày không được múa hát ca ngợi đức vua anh minh của mình thì họ phát ốm, còn nếu cấm họ cả tháng, thì họ phát điên. Bởi thế, nào ai dám cấm họ? Toàn bộ kho từ ngữ mỹ miều của tiếng mẹ đẻ, họ đã vét cạn để tôn xưng vị hoàng đế của mình, chưa đủ, họ còn mượn thêm tiếng của nhiều dân tộc khác: Makedonia, Hy Lạp…Có lần một viên cận thần còn dám so sánh vua Templer  với chính Apollo! Chuyện đến tai Apollo, vị thần ôn hoà này nổi trận lôi đình sai một sứ giả của mình, một nhà tiên tri, đóng vai ông lão hát rong lần đến xứ sở Mithman, thực thi mật lệnh.

* (more…)

Read Full Post »

Hiếu Tân

images

Nhìn từ xa, đỉnh núi chìm trong mây. Dễ nghĩ rằng đây là nơi bắt đầu của bầu trời.

Các triền núi rậm rì một màu xanh ngút mắt. Từ dưới thung sâu giữa hai triền núi, từng làn hơi trắng ngùn ngụt dâng lên. Đứng ở trên này, nơi cao nhất, nhìn mây trắng bồng bềnh trôi quanh, tưởng như chính mình đang nhẹ bay trong một cõi mà thời gian không còn ý nghĩa. Bản hòa tấu râm ran thánh thót của loài chim rừng không làm tan biến đi cái tĩnh lặng của thinh không ban sớm: không ồn ào, không quấy nhiễu, nó làm sâu thêm cái tĩnh lặng thăm thẳm của tâm linh. (more…)

Read Full Post »

Older Posts »