Đã từ lâu tôi đã nghĩ đến chuyện trốn chạy vì không thể trải qua một mùa Giáng Sinh nữa trong hoàn cảnh này. Ngay từ lúc đặt chân đến bệnh viện hoành tráng ấy, ý tưởng duy nhất trong đầu tôi là bỏ trốn. Chạy, thật xa nơi chốn ấy..
Đi chân trần để khỏi gây tiếng động, một tay tôi cầm đôi giày còn tay kia cầm chiếc gậy và một túi ny-lon, tôi mệt nhọc dò dẫm trong bóng tối của màn đêm.. Chẳng có ai nhìn thấy…. Mấy cô y tá đang bận xem TV hay ăn uống, còn các chú bảo vệ thì đang dúi đầu vào màn hình điện thoại để vi vu trên Facebook… Họ chỉ có thể phát hiện vào sáng mai, khi cô y tá bước vào phòng để đánh thức tôi và khám phá ra là dưới chiếc mền trùm kín, chỉ có hai chiếc gối nằm dưới tấm drap, xếp đặt như một người đang nằm ngủ.
Bây giờ thì tôi có thể mang đôi giày vào chân và từng bước, từng bước rời xa cái nơi chốn khốn nạn này. Tôi muốn chạy đến khu rừng thông mà hằng ngày thường nhìn thấy qua khung cửa sổ. Chắc chẳng xa gì lắm.
Thời còn trẻ tôi đi khá nhanh, cứ tưởng mình có thể nắm bắt thế giới này trong bàn tay…nhưng giờ đây tôi chỉ là một ông lão già nua. Bệnh tật và cô độc.
Tôi phải làm bất cứ điều gì có thể để có thể trốn khỏi cái bệnh viện, mà thực chất là một nhà ngục nạm vàng. Còn căn nhà của các con thì đúng là địa ngục.
Dĩ nhiên trước đây tôi chưa bao giờ ngờ tới.
Tất cả được bắt đầu sau đám tang của em, em yêu ạ. Trở về nhà, anh chỉ muốn xa cách với tất cả bọn người cứ luôn mồm cười nói, ngồi một mình để ngẫm nghĩ về những gì sẽ xảy đến với mình. Trong anh vẫn còn lòng ham sống nhưng ý nghĩ là em không còn trên đời này nữa làm anh đau đớn. Đau không chịu nổi! Dĩ nhiên anh cũng có thể tự mình nấu ăn, dành thời gian để đọc, để viết, nhưng anh chợt nhận ra là mình không thể nào bước vào căn phòng ngủ, nằm trên chiếc giường mà mình đã từng ôm nhau rồi chìm sâu vào giấc ngủ và thức giấc bằng một nụ hôn. Biết bao lần bàn tay của em sờ soạng nắm lấy tay anh rồi ngủ tiếp, như vừa được trấn an vì có anh nằm bên cạnh. Bao nhiêu niềm vui và đam mê đã được thắp sáng trong trái tim chúng mình, thay vì suy giảm, chúng lại được tăng lên cùng năm tháng, trong một tình yêu ngày càng khắn khít, thơm ngon như hương vị của một thứ rượu vang được ủ lâu năm trong thùng gỗ quý.
Vì những hoài niệm đau buồn đó nên anh quyết định đóng kín căn phòng bằng ổ khóa. Và ngay từ lúc ấy anh biết mình đang bắt đầu đi vào cõi chết.
Em yêu ơi, em có biết sự cô đơn là một căn bệnh trầm kha?
Dần dà, mọi người cố gắng thuyết phục anh về sống ở nhà đứa con trai. Và đây chính là bước đầu tiên để anh bị giam trong tù. Anh ngu ngốc quá!
Em yêu ơi, lúc em còn sống, anh chỉ biết đến công việc nhưng chỉ cần nghĩ đời mình có em là anh đã vui rồi. Sau này các con mới xuất hiện, và anh từng nghĩ là chúng sẽ lớn lên như mơ ước của chúng mình. Chỉ đến bây giờ anh mới hiểu là điều đó không bao giờ có. Dù chúng ta đã gieo những hạt mầm đúng đắn, đã cố gắng truyền đạt những giá trị quan trọng về cuộc đời, dạy chúng biết thế nào là lòng bác ái, về tình người và tâm từ bi. Em ơi, anh vừa mới nhận ra là mình đang nói chuyện với em dù biết em không còn trên đời này nữa.
Nhưng có lẽ là em đã may mắn hơn anh, vì sớm từ giã cõi đời ô trọc này để khỏi phải chứng kiến sự lãnh đạm, sự khinh thường và bạc bẽo của các con. Tất cả mọi đứa, không chừa đứa nào. Ngay cả con gái út cũng không chứng tỏ là trong lòng nó còn chút tình cảm nào.
Tôi đi, như chạy. Mệt lắm, nhưng chắc cũng sắp đến nơi. Tôi bắt đầu nhìn thấy những chóp đỉnh của hàng thông được chiếu sáng bởi một mảnh trăng non. Tiếng rì rào của biển cũng dường như đang vọng tới. Tôi còn nghe được một vị mặn đậm đà của đại dương hòa lẫn với mùi của rừng thông.
Còn nhớ không em, đêm đó, bên bờ biển, chúng mình đã ẩn mình giữa những chiếc thuyền đánh cá để nồng ấm yêu nhau? Bao nhiêu vì sao đang lấp lánh trên bầu trời và mùi thơm của biển cứ hòa trộn vào vị mặn của môi nhau.
Bây giờ thì cũng có những vì sao lấp lánh trên đầu anh, lúc anh ngồi tựa lưng vào một cây thông và hai bàn tay ve vuốt hàng cỏ ướt. Có một bầy đom đóm đang bay giữa những lùm cây. Có phải là em đã mời chúng đến đây, để anh khỏi cô đơn trong buổi tối cuối cùng?
Chính sự cô đơn là điều làm anh đau khổ nhất. Anh liên tục nhìn thấy em bên cạnh mình. Anh kể lể với em về mọi chuyện. Anh thấy thiếu vắng vì không được chạm vào em, cảm nhận được bàn tay mềm mại và êm ái của em thường dịu dàng ve vuốt khuôn mặt anh, nụ hôn của em mỗi sớm mai thức giấc, những chuyện vặt vãnh trong ngày mà chúng mình thường cười đùa như hai kẻ đồng lõa.
Anh không thể tưởng tượng là em sẽ đau đớn như thế nào khi nhìn thấy những đứa con cười chế diễu khi nhìn những bức hình của chúng mình âu yếm bên nhau, chứng kiến những quyển sách yêu thích bị ném đi tung tóe. Chúng đã vứt đi mọi thứ, như loại bỏ mình, bởi vì sự hiện hữu của chúng mình lúc tuổi già đang làm phiền chúng.
Nhưng chỉ còn vài giờ nữa thôi. Anh cũng sẽ không còn nữa. Anh sẽ vĩnh viễn chấm dứt mọi sự phiền hà.
Đủ rồi! Anh không muốn phung phí những giây phút cuối cùng này để nghĩ đến những kẻ vô tình bạc nghĩa.
Khô khốc và tham lam, đấy chính là những thứ mà các con đã trở thành.
Anh như vừa nghe lại buổi tranh cãi cuối cùng của chúng :
Bác sĩ nói cần cho ổng nhập viện…
Vậy là phí bao nhiêu tiền của.
Thì dùng tiền mà ổng bả để dành đó…
Thế thì còn gì cho bọn mình? Một mớ tiền lẻ à? Biết đâu thằng cha già vô dụng này chưa chịu chết…và thế là hết sạch…
Câm mồm đi. Chính mầy đã bán căn nhà của ổng và còn đang giữ tiền…
Bao nhiêu điều xấu xa và kinh tởm mà anh đã phải nghe! Thế nhưng anh câm lặng, giả bộ như chẳng hay biết gì. Nhưng đêm đó, vì quá đau đớn mà sức khỏe của anh bị một cơn suy sụp.
Bây giờ mình phải làm gì đây? Nếu tao phải mang lão đến bệnh viện thì làm sao có thể tham dự đám cưới của sếp…Thôi, cứ bỏ mặc lão. Nếu lão chết thì càng tốt. Mình tiết kiệm được tiền bạc và thời gian.
Anh không thể nào chịu nổi sự khốn nạn kinh tởm này. Anh ngồi bật dậy và to giọng nguyền rủa chúng, là anh không muốn ở với chúng thêm một phút nào.
Bọn chúng chỉ khó chịu chứ không có ai giật mình vì phản ứng đột ngột của anh. Một đứa chở anh vào bệnh viện. Và anh biết là định mệnh của mình đã được an bài. Trước hoặc sau gì cũng có một cú đột quỵ, sau đó có thể là bán thân bất toại hay tệ hơn, không thở được, anh sẽ bị đút các loại ống linh tinh để sau đó chết trong đau đớn.
Nhưng nỗi đau lớn nhất vẫn là bị bao vây bởi đám diều hâu tham ác này, chúng đang chờ đợi và thèm rõ dãi đoạn kết đời anh để thừa hưởng gia tài, rồi sau đó còn lớn tiếng rêu rao là đã ở kề cận cha mình cho đến phút lâm chung!
Bọn khốn kiếp! Giả nhân giả nghĩa!
Đủ rồi! Đủ rồi! Đã bao lần tôi hét lên như thế, không muốn nghĩ đến, nhưng lại chẳng thể quên. Tôi bắt đầu cầm lấy chai nước và lọ thuốc nằm trong bao nylon. Mình giỏi thật, đã tính toán chi ly mọi thứ từ lâu. Mỗi ngày tôi đều để dành một viên thuốc ngủ, giả bộ như vừa mới uống, ngoan ngoãn thực hành lời căn dặn của các y tá.
Một nắm thuốc trong lòng bàn tay. Một ngụm nước. Môt ngụm nữa. Một cơn ho rồi vận sức nuốt xuống. Được rồi. Bấy nhiêu đó là quá đủ để trái tim già này ngưng đập.
Đêm nay không lạnh lắm. Chỉ có vài cơn gió nhẹ và anh dường như vừa nhìn thấy ánh hồng ở phương Đông.
Thế nhưng anh muốn tìm một chút hơi ấm. Muốn cảm nhận rằng em đang nằm gọn trong vòng tay anh, giống như bữa chúng mình đi hái cherri, trái chín, mọng đỏ như môi em. Anh vừa ăn, vừa hôn em, nép mình dưới bóng mát những cành cây trĩu quả.
Anh chợt sờ lấy môi mình như thể muốn tìm lại cảm giác đó, nghe lại mùi vị của môi em mềm mại và đỏ mọng…ôi, anh yêu em nhiều lắm… và anh thấy trống vắng làm sao!
Anh bắt đầu nghe một cảm giác rất lạ trong cơ thể mình. Như một cơn buồn ngủ. Bình minh cũng vừa ló dạng. Ngày đang ửng sáng. Và những vì sao dường như cũng tắt dần. Bỗng anh thấy lạnh. Vội nép mình vào gốc cây để tránh gió. Một cơn rùng mình rất khẽ. Một cảm giác thật lạ lăn trên má, chạy xuống môi. Rồi một hơi ấm ở đâu tràn tới, như thể anh đang nằm giữa vòng tay của ai. A, hiểu rồi, là em, người yêu quý nhất của anh.
Cảm ơn em đã không để anh chết một mình. Tìm lại nhau, hạnh phúc biết bao! Và giờ đây, mãi mãi bên nhau.
Chỉ vài ngày để sống cùng cảm xúc và chọn những niềm vui. Ý định ban đầu là vậy, chương trình đã được sắp xếp nhưng sau đó cũng có một vài thay đổi.
Phải nói là trong mọi cuộc phiêu lưu, anh em Quán Văn đều vui vẻ vì được sống gần nhau: Những trận cười bất tận, những câu nói trêu ghẹo bạn bè, câu này bất ngờ tiếp theo câu khác… và cuộc chơi chữ nghĩa thường biến thành một trận bóng bàn thú vị giữa những người yêu văn thơ.
Điều mang lại hương vị cho cuộc chơi chính là sự dí dỏm và trí thông minh ngôn ngữ, của những câu chữ đa nghĩa được tung ra để khiêu khích và chờ đợi câu trả lời, và sau đó là một trận cười giòn giã.
Thực ra, là bạn cũng có nghĩa là có chung một thứ ngôn ngữ và chỉ qua một ánh nhìn là có thể hiểu nhau. Một nhóm có thể rất nhỏ hay nới rộng ra nhiều người, và đìều quan trọng chính là sự nối kết giữa những thành viên.
Nhóm Quán Văn cùng với thời gian đã được mở rộng: Các nhà văn, những nhà thơ, nhà báo, họa sĩ hay nhiếp ảnh, độc giả và cộng tác viên… mỗi người đều tự hòa mình và góp phần chung vui, dưới cái nhìn thân thiện và minh triết của nhà văn Nguyên Minh.
Mỗi lần họp mặt đều vui như một truyện cổ tích, tuy nhiên cũng có lúc nỗi buồn hiện lên nét mặt mọi người khi có ai nhắc về một vài người bạn đã không còn nữa. Cuộc sống vẫn tiếp tục đi tới nhưng nhiều khi quá khứ cũng quay lại gây nhiều buồn khổ, còn bây giờ nỗi buồn ấy tuy đã lắng đọng nhưng vẫn còn đấy những tiếc thương. Chỉ cần ai nhắc đến những người bạn ở Pháp, ở Virginia hay ở một địa phương nào khác là trên mắt mọi người đều ươn ướt. Nhưng nỗi buồn rồi cũng vượt qua khi nhớ lại những tiếng cười. Đúng rồi, con người ta hay nhớ về những trận cười, và những khoảng lặng.
Sự yên lặng có thể có nhiều ý nghĩa và có khi đó cũng là những diễn ngôn sâu sắc. Nó giúp chúng ta hiểu nhau bằng ánh mắt và bằng cả trái tim.
Đó là tất cả những gì mà tôi suy nghĩ trong suốt chuyến đi và cuối cùng chúng tôi đã đến Vũng Tàu.
Biển rất đẹp!
Chúng tôi đến vào lúc hoàng hôn và tất cả cùng rời phòng để ra ngồi ở một quán cà phê trên bãi biển để uống một thứ gì. Gió mang mùi biển phả lên người chúng tôi. Bờ biển vắng, chỉ có mấy người đi dọc theo mé nước.
Một giờ ngồi bên nhau để trò chuyện và thư giãn cho đến khi bóng chiều đổ dài và màn đêm buông xuống. Cũng chính thứ ánh sáng mập mờ và mùi vị của biển như thế này đã đánh thức trí nhớ tôi về một buổi chiều trên bãi biển… rất nhiều năm về trước.
Chúng tôi hai người cùng nắm tay đi dạo, thỉnh thoảng trao cho nhau những nụ hôn, rồi sau đó nằm nép mình trên vũng cát nhỏ giữa những chiếc thuyền được kéo lên bờ dưới bầu trời đầy sao. Cả hai đều im lặng, lắng nghe tiếng rì rào của biển. Một giây phút ngắn ngủi nhưng đẹp tuyệt. Và còn đẹp hơn vì cho đến giờ này chúng tôi vẫn còn sống bên nhau để nhắc về những kỷ niệm. Nhưng lần này chúng tôi không chỉ có nhau mà xung quanh còn có rất nhiều bạn bè thân thiết, có lúc nó cho tôi cảm giác là mình đang sống thật đơn giản nhưng với thật nhiều cảm xúc, như những trẻ em được thầy cô dắt đi du ngoạn.
Buổi sáng chúng tôi thức dậy thật sớm và gần như tất cả đều ra biển để ngắm bình minh. Giữa những đám mây dày, đây rồi, một khối cầu lửa đang từ từ từ xuất hiện, làm bầu trời ửng vàng rồi chiếu xuống mặt biển ở cuối chân trời.
Như những đứa bé, vài người chúng tôi vừa reo hò vừa chạy ào, nhảy ùm xuống biển; Những người khác đang mải miết chụp hình bầu trời màu vàng cam nhờ ánh sáng của bình minh. Trong những lúc đó có nhiều trận cười mà cũng có những khoảng lặng. Nhưng đứng trước sự mênh mông, vào lúc bắt đầu một ngày mới tâm hồn đâu có thể dửng dưng.
Riêng với tôi có lẽ còn hơn thế nữa, vì chúng tôi đang cùng sống lại những giây phút đẹp đẽ và sâu lắng bên nhau, giống như một buổi tối nhiều năm trước dưới bầu trời đầy sao.
Anh Nguyên Minh ơi, bao giờ Quán Văn chúng ta lại bắt đầu một cuộc phiêu lưu mới nữa?
Sài Gòn 03/05/2016
(Trương Văn Dân dịch từ nguyên tác tiếng Ý: L’alba dorata sul mare)
Những bức tường trắng và ngay cả thành giường bằng thép để tôi khỏi ngã.
Có lẽ vì thế mà tôi rất thích cái cây phong nằm bên ngoài cửa sổ, vật duy nhất cho tôi hay là thời gian vẫn đang trôi. Bên ngoài mọi thứ đang đổi mới và đổi thay.
Có một điều gì đó cũng đang thay đổi trong tôi, nhưng từ từ…chậm rãi, không đau đớn.
Tôi nhớ là khi mình vừa mới đến, căn phòng liền ngập đầy bác sĩ và y tá; tất cả đều rộn ràng chuẩn bị để tấn công căn bệnh một cách quyết liệt, không khoan nhượng.
Nhưng thực ra là cuộc chiến không khoan nhượng đó đang nhắm vào tôi… Không ai hỏi tôi muốn gì. Họ đến vào buổi sáng, viết lên bệnh án cái gì đó, bảo y tá truyền nước biển cho tôi, rồi đi.
Ngày hôm sau cũng thế. Mà thực ra tôi có gì khác nữa đâu để mà chọn lựa.
Từ mấy hôm nay có một người nào đó đến vào buổi sáng… sau đó thì tôi ngủ. Tôi ngủ càng lúc càng nhiều và tôi không thích điều đó.
Không thích vì tôi muốn tưởng tượng hay nhớ về một điều gì, nhưng tôi lại nằm mơ.
Tôi mơ thấy mình bơi lội trong làn nước biển xanh trong mát mẻ, có những tia nắng vàng phản chiếu với những giọt nước mặn trên làn da sạm nắng. Tôi mơ thấy mình đi xe đạp ở miền quê, giữa những cánh đồng lúa xanh rì.
Tôi mơ nhiều thứ, mà rồi khi thức giấc, đôi mắt chỉ nhìn thấy bức tường trắng trước mặt.
Thế là tôi xoay người hướng về phía cửa sổ và nhìn thấy bạn tôi. Đó là người duy nhất có thể hiểu những gì mà tôi cảm nhận. Tôi quan sát đôi bướm đang bay lượn như hai kẻ yêu nhau đang nhảy điệu luân vũ xung quanh bạn ấy. Đúng rồi, tôi muốn mơ thấy mình nhảy múa. Tôi muốn mơ thấy mình ôm hôn một ai đó, say đắm chứ không phải phớt qua như các bạn ở trường. Tôi muốn yêu, dù cũng chẳng biết thế nào là tình yêu. Tôi đã không có thời gian và chắc cũng sẽ không bao giờ có.
Những bác sĩ bước vào phòng tôi, càng ngày họ càng dừng lại ít thời gian, gần như là tôi có thể làm họ bị nhiễm hoặc có khi họ nghĩ, nếu không nhìn thấy tôi thì cũng giống như chẳng gặp phải vấn đề.
Tôi là một vấn đề! Điều mà không ai có thể chấp nhận. Nếu chết già là một niềm hy vọng thì cái chết của tôi khi chưa tròn 16 tuổi là một sự thật tàn nhẫn, không thể nào chấp nhận.
Nhưng có lẽ nhiều người không hiểu rằng tôi không hề sợ sệt. Người ta có thể dễ dàng chấp nhận khi biết mình sẽ chết. Chỉ khi nào còn hy vọng sống mới làm người ta hoảng sợ. Vì để sống, cần phải phấn đấu, một cách tuyệt vọng và liên tục. Còn tôi thì không muốn phấn đấu nữa rồi.
Tình cảm duy nhất có trong tôi chỉ là sự cay đắng, bởi vì đối với tôi đáng lý phải là mùa xuân, mùa của hoa hồng, của tình yêu đầu đời, của những điều vô tư và hồn nhiên nhưng thay vào đó chỉ là một cuộc tăng tốc để sớm vào đông. Tôi đã nhìn thấy những chiếc lá nhiều màu trên cành của bạn tôi. Hằng ngày tôi nhìn những chiếc lá thay đổi màu sắc dưới ánh nắng mặt trời càng ngày càng nhạt, hay có khi sáng bóng sau cơn mưa hoặc khẽ lay động vì những cơn gió càng lúc càng lạnh dần.
Lạnh lẽo và băng giá như căn phòng mà họ đang bỏ mặc tôi, một mình.
Bây giờ thì tôi mệt lắm, chỉ muốn ngủ, và mơ.
Mơ thấy mình đang ôm và siết chặt trong vòng tay một đứa bé, rồi đong đưa nó. Mơ thấy mình cẩn thận nắm tay bé, dạy bé chập chững bước đi, từng bước, từng bước hướng về phía cuộc sống.
Mơ thấy mình nằm, ngước mặt lên, nhìn thấy một bầy chim én bay lượn giữa bầu trời ấm áp, xoay tròn trên đỉnh đầu, miệng kêu ríu rít như thể muốn mời tôi nhập bọn, bay theo chúng trong cuộc hành trình.
Mơ thấy mình nằm dài trên một đống lá khô giòn, những chiếc lá phong của ông bạn ngoài kia, đủ màu sắc từ vàng, đỏ tươi, chuyển sang tím… rồi cuốn người lăn tròn cho đến khi mỏi mệt và nằm dài dưới bóng cây có những cành trơ trọi nhưng luôn sống động.
Nếu có ai đó hỏi thì tôi sẽ trả lời rằng mình chỉ muốn nằm nghỉ dưới bóng của bạn mà thôi. Người duy nhất hiểu được những nỗi sợ hãi của mình. Người duy nhất đã không bỏ rơi tôi.
Những bức tường trắng và ngay cả thành giường bằng thép để tôi khỏi ngã.
Có lẽ vì thế mà tôi rất thích cái cây phong nằm bên ngoài cửa sổ, vật duy nhất cho tôi hay là thời gian vẫn đang trôi. Bên ngoài mọi thứ đang đổi mới và đổi thay.
Có một điều gì đó cũng đang thay đổi trong tôi, nhưng từ từ…chậm rãi, không đau đớn.
Tôi nhớ là khi mình vừa mới đến, căn phòng liền ngập đầy bác sĩ và y tá; tất cả đều rộn ràng chuẩn bị để tấn công căn bệnh một cách quyết liệt, không khoan nhượng.
Nhưng thực ra là cuộc chiến không khoan nhượng đó đang nhắm vào tôi… Không ai hỏi tôi muốn gì. Họ đến vào buổi sáng, viết lên bệnh án cái gì đó, bảo y tá truyền nước biển cho tôi, rồi đi.
Ngày hôm sau cũng thế. Mà thực ra tôi có gì khác nữa đâu để mà chọn lựa.
Từ mấy hôm nay có một người nào đó đến vào buổi sáng… sau đó thì tôi ngủ. Tôi ngủ càng lúc càng nhiều và tôi không thích điều đó.
Không thích vì tôi muốn tưởng tượng hay nhớ về một điều gì, nhưng tôi lại nằm mơ.
Tôi mơ thấy mình bơi lội trong làn nước biển xanh trong mát mẻ, có những tia nắng vàng phản chiếu với những giọt nước mặn trên làn da sạm nắng. Tôi mơ thấy mình đi xe đạp ở miền quê, giữa những cánh đồng lúa xanh rì.
Tôi mơ nhiều thứ, mà rồi khi thức giấc, đôi mắt chỉ nhìn thấy bức tường trắng trước mặt.
Thế là tôi xoay người hướng về phía cửa sổ và nhìn thấy bạn tôi. Đó là người duy nhất có thể hiểu những gì mà tôi cảm nhận. Tôi quan sát đôi bướm đang bay lượn như hai kẻ yêu nhau đang nhảy điệu luân vũ xung quanh bạn ấy. Đúng rồi, tôi muốn mơ thấy mình nhảy múa. Tôi muốn mơ thấy mình ôm hôn một ai đó, say đắm chứ không phải phớt qua như các bạn ở trường. Tôi muốn yêu, dù cũng chẳng biết thế nào là tình yêu. Tôi đã không có thời gian và chắc cũng sẽ không bao giờ có.
Những bác sĩ bước vào phòng tôi, càng ngày họ càng dừng lại ít thời gian, gần như là tôi có thể làm họ bị nhiễm hoặc có khi họ nghĩ, nếu không nhìn thấy tôi thì cũng giống như chẳng gặp phải vấn đề.
Tôi là một vấn đề! Điều mà không ai có thể chấp nhận. Nếu chết già là một niềm hy vọng thì cái chết của tôi khi chưa tròn 16 tuổi là một sự thật tàn nhẫn, không thể nào chấp nhận.
Nhưng có lẽ nhiều người không hiểu rằng tôi không hề sợ sệt. Người ta có thể dễ dàng chấp nhận khi biết mình sẽ chết. Chỉ khi nào còn hy vọng sống mới làm người ta hoảng sợ. Vì để sống, cần phải phấn đấu, một cách tuyệt vọng và liên tục. Còn tôi thì không muốn phấn đấu nữa rồi.
Tình cảm duy nhất có trong tôi chỉ là sự cay đắng, bởi vì đối với tôi đáng lý phải là mùa xuân, mùa của hoa hồng, của tình yêu đầu đời, của những điều vô tư và hồn nhiên nhưng thay vào đó chỉ là một cuộc tăng tốc để sớm vào đông. Tôi đã nhìn thấy những chiếc lá nhiều màu trên cành của bạn tôi. Hằng ngày tôi nhìn những chiếc lá thay đổi màu sắc dưới ánh nắng mặt trời càng ngày càng nhạt, hay có khi sáng bóng sau cơn mưa hoặc khẽ lay động vì những cơn gió càng lúc càng lạnh dần.
Lạnh lẽo và băng giá như căn phòng mà họ đang bỏ mặc tôi, một mình.
Bây giờ thì tôi mệt lắm, chỉ muốn ngủ, và mơ.
Mơ thấy mình đang ôm và siết chặt trong vòng tay một đứa bé, rồi đong đưa nó. Mơ thấy mình cẩn thận nắm tay bé, dạy bé chập chững bước đi, từng bước, từng bước hướng về phía cuộc sống.
Mơ thấy mình nằm, ngước mặt lên, nhìn thấy một bầy chim én bay lượn giữa bầu trời ấm áp, xoay tròn trên đỉnh đầu, miệng kêu ríu rít như thể muốn mời tôi nhập bọn, bay theo chúng trong cuộc hành trình.
Mơ thấy mình nằm dài trên một đống lá khô giòn, những chiếc lá phong của ông bạn ngoài kia, đủ màu sắc từ vàng, đỏ tươi, chuyển sang tím… rồi cuốn người lăn tròn cho đến khi mỏi mệt và nằm dài dưới bóng cây có những cành trơ trọi nhưng luôn sống động.
Nếu có ai đó hỏi thì tôi sẽ trả lời rằng mình chỉ muốn nằm nghỉ dưới bóng của bạn mà thôi. Người duy nhất hiểu được những nỗi sợ hãi của mình. Người duy nhất đã không bỏ rơi tôi.
Tôi là người mê áo dài từ thời còn đi học nên khi nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên gửi cho xem bản nhạc tôi đã đọc ngay. Và thật bất ngờ.
Bất ngờ vì người đã tạo cảm xúc để nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên cảm tác thành nhạc phẩm “áo dài ơi” là chị Elena, một nhà văn người Ý!
Thế là tôi liền tìm đọc bài viết Áo Dài Việt Nam&Tà Áo Lụa Bay Trên Đất Ý nhà văn Elena Pucillo Truong (thực ra là một bài trả lời phỏng vấn của báo song ngữ Ngày mới Sài Gòn) và được đăng lại trên trang A2A.net[1]. Các nhận xét của chị thật tinh tế, làm nổi bật những nét độc đáo của chiếc áo dài Việt Nam:
“Áo dài là trang phục truyền thống của Việt Nam. Từ chiếc áo dài trắng của các cô gái trẻ đi học – sự chuyển tiếp từ thời thơ ấu sang tuổi thiếu niên, cho đến chiếc áo dài màu đỏ trong các lễ cưới – đánh dấu sự khởi đầu của một gia đình.” .
“Trong các buổi lễ quan trọng hay tham dự một bữa tiệc, khi trên người có mặc áo dài, người phụ nữ nào cũng cảm thấy mình như một “bà hoàng”… Và chỉ cần một cơn gió là 2 tà áo múa may như trình diễn vũ khúc của ánh sáng với các tia phản chiếu.”
“Thoạt nhìn, trông Áo dài cũng tương tự như trang phục của các đất nước Á châu khác; thế nhưng, khi người mặc áo chuyển động, hai tà áo sẽ bay làm bước đi của người phụ nữ thanh thoát và uyển chuyển. đây là một trong những nét rất độc đáo của Áo dài Việt Nam.”
Ngạc nhiên pha lẫn chút tò mò, tôi còn tìm các bài viết khác và đọc được bài “Tà Áo Lụa Giữa Những Cánh Sen”[2] mà chị Elena đã viết từ 13 năm trước (2012) :
Tôi cũng có chiếc áo dài đầu tiên của mình khi về Việt Nam lần đầu để tổ chức đám cưới vào năm 1985… Đó là kiểu áo, dù chỉ có một màu hay được thêu những hoa văn tuyệt đẹp hay không, nó vẫn luôn lịch sự và quyến rũ.
Biết chị đã theo chồng về sống ở Sài Gòn từ nhiều năm nay, và trong các sinh hoạt văn hóa dù ở Việt Nam hay ở ra mắt sách ở Ý, chị đều mặc áo dài… tôi lại càng quý mến.
*
Tà áo dài bay trong gió luôn là niềm cảm hứng dạt dào cho người nghệ sĩ nên tôi hiểu là nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên đã đồng cảm với bài viết của chị Elena nên đã cảm tác nhạc phẩm “áo dài ơi”.
Có thể nói lời ca, giai điệu bài hát đẹp như một bức tranh hay một khúc phim ngắn nhìn qua lớp sương mờ. Lời nhạc dịu dàng, bay bướm mà khi ngân nga tôi như thấy tà áo đang lất phất bay trong “màu xanh đồng lúa”, “giữa phố phù hoa” hay lan ra “khắp miền thế giới..” còn “Em mân mê chiếc áo nàng dâu”… tạo trong lòng tôi một chút bâng khuâng, một nỗi nhớ thương ngơ ngác, có pha chút ngậm ngùi về thời gian và sắc đẹp, hồi tưởng đến phút giây chia tay cái tuổi vô tư để hướng về cuộc đời mới.
Toàn bộ ca từ như hòa quyện nhịp nhàng trong một giai điệu du dương, êm ái…!
Sống trong một thành phố xô bồ, người người đông đúc ai cũng ăn mặc gọn, bước đi nhanh như chạy… một bài hát viết về chiếc áo dài thanh thoát với nhịp điệu chậm rãi thật là ý nghĩa và gây cho lòng tôi tràn đầy cảm xúc.
Chính vì thế, dù mình không phải là ca sĩ tôi vẫn muốn hát lên ca khúc này. Hát để mình nghe, để chia sẻ tình cảm với hai tác giả, nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên và nhà văn Elena Pucillo Truong và cũng để bày tỏ tình yêu áo dài của mình.
Tôi mạnh dạn xin phép nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên để hát, tuy trong lòng vẫn còn chút đắn đo, chỉ sợ mình thể hiện không đạt, “làm hư” ca khúc của tác giả.
Nhưng, thật bất ngờ! Sau khi dè dặt đưa lên FB liền có nhiều người nghe và bình luận khích lệ. Chắc chắn là nhờ giai điệu dễ thấm vào lòng người. Vả lại, bạn bè, người quen, ai là người Việt mà không mê áo dài?
Sự hài hoà của âm nhạc và hình ảnh minh họa trên video thanh thoát, có một thiếu nữ mặc áo dài e ấp như cũng phụ họa để tăng thêm sức quyến rũ… tạo thêm cảm xúc cho người nghe. Vì có ai trong chúng ta mà không từng ngắm, từng mơ, từng nhớ một dáng áo dài, và có lẽ bài hát còn giúp chúng ta thấy cần khám phá thêm những nét mới… để càng yêu thương chiếc áo dài.
Vì áo dài đâu chỉ là trang phục mà còn là nét đẹp Việt Nam!
Tôi rất vui khi có người đã bình luận là Bích Quyên trình bày duyên dáng, tiếng hát dịu dàng đằm thắm và gợi nhiều cảm xúc.
Mới sau 3 ngày đã có hơn 2000 lượt nghe, nhiều đợt chia sẻ lại trên FB và trên trang web chuyên về âm nhạc “Hợp Âm việt”[3] cũng đã đăng lại. Tôi thật sự hạnh phúc và rất cảm ơn bạn bè và khán thính giả quý mến. Nhưng trước hết tôi xin cảm ơn nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên đã cảm tác một nhạc phẩm giá trị để tạo cho người nghe những cảm xúc thú vị.
Trước nay đã có nhiều ca khúc rất hay về áo dài đã ra đời và tôi đã từng nghe … nhưng có lẽ bài hát này của nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên đã tạo cho tôi nhiều cảm xúc nhất.
PS: Khi vừa viết xong đoản văn này, tôi tình cờ bắt gặp một trang viết trên FB của hội quán các bà mẹ[4] có một trạng thái ngắn và có nhiều hình ảnh để nói về các sinh hoạt văn học của nhà văn Elena Pucillo Truong trên đất Ý: “Hiếm có người thương Việt Nam đến vậy.Học tiếng Việt- Nói tiếng Việt- Mặc áo dài Việt- Đội nón lá Việt. Hẹn gặp nhau vào Ngày Quốc tế Tiếng Mẹ Đẻ: Tôi yêu tiếng nước tôi trong buổi giao lưu với chị Elena nhé!”
Lòng tôi dâng lên một niềm thương mến. Xin cảm ơn chị Elena và cảm ơn tình yêu cho quê hương thứ hai mà chị đã chọn sống.
Về giây phút đầu của buổi chiều hôm đó mẹ chỉ nhớ là mình căng mắt nhìn ra bốn hướng và trái tim đập lên loạn xạ. Mẹ tìm con, cố tìm mái tóc dợn sóng của con nổi lên trên tà áo trắng. Mẹ mong nhìn thấy ánh mắt vui mừng của con, hồn nhiên như những bé gái lên mười.
Từ văn phòng về trễ, mẹ cầm túi thức ăn có một ít trái cây, bánh mì và mấy hộp sữa cho bữa điểm tâm. Tuy mệt nhọc leo lên cầu thang nhưng mẹ vẫn chuẩn bị sẵn nụ cười để che giấu sự nhọc nhằn sau một ngày buồn bã và nhàm chán. Một nụ cười dành cho con, để con khỏi cảm thấy cái gánh nặng của cuộc đời buồn bã, con thì thiếu một người cha còn mẹ cũng không có người đàn ông trong mái ấm. Mỗi ngày chúng ta đều sống như một sự thách thức, để tiếp tục, nhưng niềm vui luôn có trong đôi mắt, một sự đồng loã phát sinh giữa mẹ và con.
Niềm vui cuối ngày của mẹ là được nhìn thấy con ngồi đợi ở bậc thang trước thềm nhà, miệng ngậm cây bút chì, tay cầm quyển tập hay có một trang sách mở rộng trên đầu gối; vài sợi tóc lòe xòe trên trán và khuôn mặt rạng rỡ, sống động như chú ngựa con trên thảm cỏ.
Mẹ hổn hển vì leo đến cuối cầu thang. Nhưng không có con ngồi đợi mẹ.
Run rẩy. Mẹ không mở được cửa! Mẹ bỏ túi thức ăn xuống sàn nhà, mẹ bấm chuông các nhà lân cận. Gọi điện đến trường…
Tất cả đều vô ích.
Sao lại thế này? con đã biến mất?
Mẹ lao xuống đường, hỏi tin con ở các cửa hàng thân quen, đến đồn công an, và một nhân viên an ninh khuyên mẹ gọi điện đến bệnh viện trong vùng.
Không kết quả.
Mãi đến khuya mẹ mới trở về nhà, tuyệt vọng. Trong đêm mẹ không sao ngủ được, mẹ nằm, cửa để mở, hy vọng được nghe bước chân con bước lên cầu thang. Một đêm kinh hoàng, mẹ lục lọi khắp nơi trong nhà xem con có để tờ giấy nhắn nhủ gì không, tìm một vài dấu hiệu mơ hồ nào đó để có thể dắt mẹ tìm đến bên con. Nhưng hoàn toàn vô vọng.
Đến lúc đó thì những hồi tưởng từ đâu quay về trong đầu mẹ: buổi sáng trong lúc chải tóc mẹ nghe con khe khẽ hát, con lẩm nhẩm bài thơ, bài học lịch sử hay địa lý gì đó để học thuộc lòng. Rồi sau đó con kể chuyện về bạn bè hay cô giáo. Con, mãi mãi và chỉ con thôi. Con là cuộc đời của mẹ nhưng mẹ không biết con đang ở đâu.
Sau những tìm kiếm vô ích và vô vọng, mẹ bỗng dưng cảm thấy mình có lỗi. Đáng lý ra mẹ phải đến đón con ở trường và mọi việc đã không thể xảy ra. Những đứa bạn nói rằng đã cùng con leo lên xe buýt, con đã xuống ở trạm dừng gần nhà, con bước đi trên vỉa hè và vẫy tay chào các bạn. Tất cả như mọi lần. Chỉ vài chục mét, đến cửa hàng bách hóa, quẹo trái là con về đến nhà. Ai cũng nói không, nhưng mẹ vẫn cảm thấy mình có lỗi vì có lẽ mẹ đã phải làm một điều gì đó, dù không thể. Mẹ phải làm việc. Mẹ phải cố gắng kiếm tiền để con không thiếu một thứ gì.
Sau cảm giác tội lỗi thì mẹ bắt đầu có biểu hiện vô cảm. Đi quanh quẩn trong phòng mà chẳng biết thời gian đã trôi qua, ngồi xuống bàn ăn và liên tục nhìn bức hình con trên tờ báo. Mẹ đọc lại tên con, vài chi tiết như chiều cao, áo quần đang mặc. Mẹ đã ghim tờ thông báo đó lên tủ buffet để bất cứ lúc nào mẹ cũng có thể nhìn thấy.
Mẹ tìm mọi cách để che giấu sự vắng mặt của con trong trái tim mình, và ngày qua ngày, mẹ vẫn tiếp tục chuyện trò với con, như thể con vẫn còn đây, tưởng tượng về những câu chuyện không hề hiện hữu. Vài tháng sau mẹ im, không còn nói nữa. Cuộc đối thoại chỉ có trong đầu mẹ và mẹ âm thầm bước đi trong các căn phòng, ve vuốt các vật dụng của con, xếp lại hàng trăm lần chiếc áo của con.
Mẹ đã trở thành cái bóng của chính mình. Mẹ không ăn. Buổi sáng thức giấc gập mình trên chiếc bàn, nơi mà giấc ngủ đã cho mẹ tạm dừng sự tuyệt vọng.
Con đang ở đâu? Ở đâu? Tại vì sao mà con đã không về?
&&&
Mẹ yêu ơi, mẹ cứ liên tục hỏi là con đang ở đâu?
Chắc không xa mẹ lắm đâu, con ở đây, dưới chân cầu, có lẽ cách mẹ chừng vài kilomét.
Bọn họ đã ném xác con ngay trong đêm mà con không trở về nhà.
Con vừa xuống xe buýt và vẫy tay chào bạn bè. Chỉ vài bước là con đến trước cửa hàng tạp hóa. Ông chủ tiệm dường như đang đợi con….
Con chưa biết phải làm gì thì bị một bàn tay đưa lên bịt miệng, rồi ông chủ kéo con vào phía sau tiệm. Con nghe tiếng đóng cửa và ngay lúc đó con nhìn thấy có mấy người đàn ông như bầy sói đang thở dốc.
Xõa tóc ra, mầy sẽ lớn như một cô gái …
Con chẳng hiểu gì cả nhưng linh tính cho hay mình đang là một con thú đang sập bẫy. Hai mắt mở to vì kinh hãi, nước mắt chảy ròng cùng tiếng kêu lạc giọng.
Mẹ ơi, mẹ ơi !
Sau đó thì người ta đánh đập con, rồi ép sát người con vào thân hình nhớp nhúa của họ. Hơi thở sặc mùi rượu, họ không chút động lòng trước tiếng khóc tuyệt vọng của con. Họ giữ con bất động. Rồi một cơn đau nhói chạy khắp người con. Con như ngạt thở. Nấc nghẹn theo từng cú ép đẩy của bọn người khốn nạn. Đớn đau lẫn tủi nhục mà trước đó đầu óc non nớt của con chưa thể nào tưởng tượng.
Sau đó thì mọi việc chấm dứt. Con không còn là gì, giống như một nùi giẻ để vứt đi. Họ chẳng chút xót thương. Đối với họ con chỉ là một thứ đồ vật, để thõa mãn, dùng xong rồi bỏ. Rồi trong bóng đêm, họ ném xác con xuống dòng sông.
Giờ thì con ở đây. Nằm giữa những rác rưởi trôi trên sông và những rễ cành lẫn rong rêu đã giữ con lại. Thân xác con chẳng còn lại gì. Chiếc áo trắng đến trường không còn nữa, và giữa những đám rong, những đàn cá bơi lội xuyên qua mái tóc con, còn lũ côn trùng thì nhún nhảy. Đôi mắt của con giờ chỉ là hai lỗ hổng nằm trong hộp sọ, chó dại và chuột nhắt đã ăn mất từ lâu.
Con rất tiếc đã không thể báo tin sớm cho mẹ về những gì đã xảy ra! Con đã không trốn mẹ, nhưng chính những gã đàn ông mà mẹ nhìn thấy mỗi ngày, họ nhìn mẹ với cái nhìn thương hại, rồi khi mẹ đi qua, họ đưa mắt đồng lõa nhìn nhau như nhắc nhở về những giây phút điên cuồng khi con lọt vào cạm bẫy.
Mẹ yêu ơi, con và mẹ có chung một cuộc đời…Người này chỉ sống cho người kia. Thế mà bây giờ bọn khốn nạn đã chia rẽ chúng ta. Con hy vọng là sẽ có một ai đó sẽ tìm thấy thi thể của con. Để chôn cất. Và lúc ấy mẹ sẽ điên lên. Dửng dưng với hết thảy mọi việc xung quanh. Nhưng mẹ sẽ không còn buồn khổ nữa trong sự đợi chờ vô vọng.
(Trương Văn Dân dịch từ nguyên tác tiếng Ý : l’attesa)
Mỗi buổi sáng tôi thường xuống quán cà phê nằm dưới sân chung cư, vừa thưởng thức ly cà phê sữa đá vừa ngắm những chiếc lá của hàng cây rung khẽ vì ngọn gió đến từ dòng kênh.
Vẫn là những tiếng chào, những nụ cười đáp lại của những người khách quen thuộc… một điều thật ra rất đơn giản nhưng thường giúp tôi thư giãn trước khi bắt đầu một ngày mới.
Sáng hôm đó, ngoài những người đàn bà bán rau quả, trái cây hay đậu phộng luộc tôi bỗng chú ý đến một thân hình bé nhỏ đang đến gần.
Mỏng manh như một đóa hoa, một bé gái đang mặc trên người chiếc áo màu xanh da trời, đang chầm chậm đến từng bàn để mời mọi người mua vé số.
Nhỏ bé, gầy gò, với chiếc áo cụt tay phô ra hai cánh tay trần màu bánh mật, bé gái đó thu hút tôi bởi cái nhìn thật buồn từ đôi mắt to đen. Thoạt đầu bé không đến gần mà chỉ đứng liếc nhìn tôi từ xa, như không muốn mình bị phát hiện.
Có lẽ bé đang tò mò, nên nhìn một lát rồi bé tiếp tục đi bán ở các bàn khác. Thỉnh thoảng một vài người gọi bé đến gần chỉ để dò vé số, hy vọng trúng được chút gì, nhưng cũng có người mua vài tấm rồi cho thêm bé ít tiền.
Những lần như vậy tôi nhìn thấy bé cẩn thận mở túi xách, cầm lấy xấp vé số ra mời khách rồi sau đó bỏ vào ngăn trong, vé một bên và tiền một bên. Sau đó bé kéo fermature rồi mới đi bán tiếp.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi lần đầu nhìn thấy bé là bé còn quá nhỏ để có thể đi mưu sinh trên đường phố một mình. Mỏng manh như một cuống hoa, bé có thể bị quật gãy từ những bạo lực và tàn ác trong cái thế giới này.
Mà làm sao cha mẹ bé có thể yên tâm để bé đi làm một mình trên những con đường giữa thành phố này? Tại sao bé không đang ở một ngôi trường nào đó cùng với những bạn bè cùng tuổi?
Tôi tự hỏi mình như thế, mặc dù trong đầu cũng đã hình thành những câu trả lời có thể. Và tôi đã không thể không nghĩ đến bé nên những ngày sau đó tôi thường đưa mắt tìm kiếm đứa bé gái gầy gò và có đôi mắt đen to ấy.
Lúc này là những ngày trước Tết, cuối năm thành phố vắng người, ai để dành được một ít tiền thì có thể về quê. Nhưng hình như năm nay nhiều người buôn gánh bán bưng không về được, giá tàu xe đắt đỏ, nên họ đành phải chọn mưu sinh trên đường với hy vọng là bán được chút gì để tạm đắp đỗi qua ngày.
Như thường lệ, chúng tôi thường hẹn bạn ở quán cà phê. Sáng hôm đó tôi xuống trễ, và đang ngồi nói chuyện với một chị bạn thì thấy từ xa đứa bé gái đang tiến đến gần.
Tôi chuẩn bị sẵn một ít tiền và nói khi bé bước đến gần:
Lại đây! Bác không mua vé số, nhưng tiền này là lì xì Tết để mừng tuổi bé.
Bé bất ngờ, mở to mắt nhìn tôi, bối rối đưa một bàn tay vuốt lọn tóc vừa rơi phủ mắt mà khuôn mặt như đang tỏa sáng. Bé cầm lấy tờ giấy bạc trong lòng bàn tay, bé nhỏ như bàn tay của một con búp bê, cảm ơn rồi rời đi, thỉnh thoảng dừng bước, ngoái đầu nhìn lại phía sau.
Còn tôi, sau chiếc kính che nắng, cảm giác là nước mắt mình cũng đang lăn xuống. Điều mà tôi cảm nhận là một nỗi đau từ sâu thẳm trong tim. Trong óc tôi lúc đó xuất hiện bao nhiêu hình ảnh, quá khứ và tương lai, bao nhiêu điều lẽ ra phải khác, nhân bản hơn, nhưng không phải vậy.
Vài ngày trôi qua… rồi Tết cũng qua nhanh. Trời không lạnh và những cơn gió nhẹ đầu xuân đã đem đến cho tôi sự mát mẻ khi ngồi thưởng thức ly cà phê ban sáng.
Cứ thế, chúng tôi ngồi tán gẫu với các bạn còn ở lại thành phố, không về quê ăn Tết, và trong lúc cười vui, thì đây, bé gái xuất hiện. Tôi gần như không nhận biết lúc bé đến gần và, thật bất ngờ, bé phủ người rồi nằm dài lên hai cánh tay tôi bằng một vòng ôm rất mạnh.
Sửng sốt về sự thân thiện bất ngờ và lòng yêu thương không chờ đợi này, tôi giật mình và cảm động, ôm bé giữa hai vòng tay, cảm giác dường như như cái thân hình nhỏ bé này đang thổn thức. Tôi không biết điều gì đã xảy ra sáng hôm ấy nhưng cái thân hình bé nhỏ như chú mèo con lạc lõng kia cứ bám vào tôi như đang tìm một sự cứu rỗi.
– Bé tên là gì?
– Bảo Trâm!
Vài câu hỏi thông thường nữa và bằng cái giọng lảnh lót như chim Bảo Trâm lễ độ trả lời. Đã 9 tuổi mà bé gầy ốm quá nên trông như nhỏ tuổi hơn, nhà ở bên kia chiếc cầu gỗ phía sau chợ xổm, không được đi học vì cha mẹ không có đủ tiền. Trong gia đình ngoài bé ra còn có một anh trai cũng đi bán vé số và một em nhỏ chỉ vừa 1 năm tuổi nên mẹ bé phải ở nhà trông con. Ba của bé đi làm phụ hồ, và cái gia đình nhỏ ấy chỉ có thể sống lây lất nhờ tiền thu nhập mỗi ngày.
Có bao nhiêu trẻ em đang tồn tại như vậy, chúng tồn tại và cảm thấy bằng lòng và cảm thấy mình may mắn khi mỗi ngày có thể ăn được một bữa cơm!
Nhưng bên cạnh đó cũng có những cuộc đời khác trong thành phố, nhiều em bé lớn lên với Ipad, điện thoại thông mình, video game đầy bạo lực… chúng hoàn toàn không biết gì về đời sống thực vì đã quen và chỉ quan tâm đến đời sống ảo!
Tôi mời Bảo Trâm uống nước và chỉ trong một hớp em đã làm cạn ngay ly trà đá. Tôi đưa một ly khác em cũng uống hết, cảm ơn, rồi tiếp tục đi bán.
Tôi và các bạn, tất cả yên lặng và có lẽ cùng chung ý nghĩ nên ai nấy đều nhìn theo hướng đi của chú mèo con lạc lõng với đôi mắt đen to, đang lầm lũi bước đi dưới nắng, giữa những cơn khát đến khô cổ và có lẽ cả đói, trên những nẻo đường thành phố.
Mấy ngày sau tôi cũng lại thấy Bảo Trâm, lần này em mặc một chiếc áo màu vàng có những chấm tròn nhiều màu xen với những con bọ rùa màu đỏ. Bé đến và chạy ào đến, nằm dài lên người tôi. Rồi bé thu hình, đưa hai cánh tay dài và khẳng khiu ôm lấy tôi, còn người thì run khe khẽ, có lẽ vì những cơn gió lạnh đầu xuân nên bé áp đầu tìm hơi ấm trên vai tôi. Tôi để yên bé nằm trong lòng mình, chiếc xách tay của bé nằm lắc lẽo giữa bé và tôi, hai tay bé quấn chặt quanh cổ.
Sau một lát tôi mời bé uống nước, cho bé một ít tiền và bỏ một chiếc bánh mì thịt vào túi xách trước khi bé tiếp tục đi bán..
Cháu bán gần hết rồi, chỉ còn có ít vé nữa thôi… vừa nói bé vừa đưa tôi xem một xấp vé số được buột lại bằng một sợi dây thun.
Bé cẩn thận kéo fermature để đóng túi xách, gỡ tay ra khỏi vòng tay của tôi rồi vẫy tay chào.
Rồi chỉ một lát sau, bé bất ngờ đến chạm nhẹ vào tôi từ phía sau lưng:
Nói xong em bước đến trước mặt tôi, buông người nằm xuống và thu mình trên đầu gối. Thỉnh thoảng tôi đưa tay vuốt tóc và ve vuốt chiếc đầu bé tí. Bảo Trâm nằm yên cho như một chú mèo con và sau vài phút bé dường như thiếp ngủ. Chắc bé rất mệt và lạnh nữa.
– Sáng mai cháu phải nhắc mẹ đưa cho một chiếc áo khoác vì trời lúc này khá lạnh nhé.
Bé ngẩng mặt nhìn tôi mỉm cười và khẽ gật đầu.
Đó là một đứa bé hiền ngoan và biết vâng lời. Bé cười nhưng trong mắt dường như có nét buồn. Điều quan trọng với bé lúc này hình như là được nằm như vậy, được ôm ấp bởi một người xa lạ; bé đang đói và khát tình thương hơn là bánh mì và nước.
– Bây giờ bán hết rồi, lát cháu về nhà chứ không lang thang ngoài đường nữa nhé. Lạnh đó.
Bé đứng dậy như con mèo duỗi mình và chào tôi bằng cách cà cái mũi nhỏ xíu lên má tôi.
Tôi nhìn theo dáng bé đang rời đi và trong một thoáng tôi ước gì mình được là bà tiên có chiếc đũa thần trong truyện cổ tích để có thể mang lại cho bé gái ấy một chút hạnh phúc.
“Trò chuyện với thiên thần – Những tai họa thế giới và giấc mơ Việt Nam
Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. ( 6.2020)
Nhà Văn Kiều Bích Hậu đã giới thiệu bài viết của Tiểu Mai về Trò chuyện với thiên thần đăng trên trang Kết nối văn học thế giới (www.worldliterature.link) và trên Facebook cá nhân : “Một cuốn sách mà bạn có thể đọc lúc thảnh thơi để tìm được sự đồng cảm, nhưng cũng có thể đọc lúc tâm trí rối bời để tìm về bình an.”
“Trò chuyện với thiên thần – Những tai họa thế giới và giấc mơ Việt Nam” là một cuốn sách lạ lùng! Nó lạ từ cái tựa cho đến thể loại mà tác giả lựa chọn. Nhưng nếu có thể vượt qua giây phút e dè ban đầu để mà tiếp cận sách, thì chắc chắn nó sẽ lập tức biến thành thỏi nam châm hút người đọc ngay từ trang đầu tiên.
Xa lạ mà gần gũi,
Hiểu được băn khoăn thông thường của độc giả nên Trương Văn Dân đã có đôi dòng giải thích ngay rằng: “Độc giả chắc sẽ bất ngờ về quyển sách này và nghĩ rằng các đề tài đề cập trong sách đều xa lạ với cái thế giới mà ta đang sống, vì đó chỉ là một cuộc trò chuyện với một nhân vật siêu việt: Thiên thần.
Nhưng hoàn toàn không phải vậy, đó là quyển sách có những câu chuyện liên quan đến đời sống chúng ta, đến thân phận làm người, dù là nam hay nữ, trong cuộc sống hàng ngày.”
Tất nhiên rồi, dù là hư cấu đi chăng nữa, nếu không liên quan đến đời sống thì sẽ chẳng mấy ai tìm đọc. Nhưng “Trò chuyện với thiên thần – Những tai họa thế giới và giấc mơ Việt Nam” rõ ràng không phải là hư cấu. Bởi vì, tác giả trò chuyện với nhân vật tưởng tượng để nói với một tương lai hiện thực. Nhà văn Vũ Ngọc Tiến nói: “Nếu gọi đây là một giáo trình tổng hợp về nhân loại học như một “Bách khoa thư” về cuộc sống cũng không sai bởi mỗi lần trò chuyện của người cha với thiên thần nhỏ bé là một bài giảng bao chứa các vấn đề triết học, tôn giáo, đạo đức học, xã hội học; thậm chí cả những vấn đề về chính trị học, kinh tế học của thế kỷ XX vắt qua hai thập niên đầu của thế kỷ XXI như chiến tranh, toàn cầu hóa kinh tế, cách mạng tin học,…”
Xem chừng “nội thất” cuốn sách này hầu hết đều là những chủ đề đau đầu buốt óc và có vẻ khô khan, nhưng làm thế nào nó vẫn “thao túng” được người đọc, đến mức không thể đọc lướt mà phải đọc thật kỹ, thậm chí đọc đi đọc lại những đoạn làm họ tâm đắc?
Câu trả lời vẫn nằm gọn trong hai chữ: Thực tế – đặc tính bám rễ và ăn sâu vào phong cách viết của Trương Văn Dân. Nói cách khác, những câu chuyện thực tế được tác giả quan sát, ghi nhớ để rồi viết ra bằng lối văn chương chân thật và minh triết, khiến những người bạn tri âm của ông cũng phải ngưỡng mộ. Nhà văn Đặng Châu Long nói: “Trò chuyện với thiên thần là một tác phẩm văn học dành cho ai yêu quá đỗi đời này”. Nhà văn Elena Pucillo Truong thừa nhận: “Đây là một quyển sách để chúng ta dừng lại và suy nghĩ.”
Không dừng lại để mà suy nghĩ sao được khi mà mỗi trang sách của Trương Văn Dân đều có một đoạn, thậm chí nhiều đoạn khiến người đọc chỉ muốn ghim ngay vào cuốn sổ ghi chú: “Chừng tuổi này, tôi quá hiểu là của cải không nằm lâu trong bàn tay của một người mà nó luôn được chuyển từ tay người này sang tay người khác. Chủ tài sản giống như những người ở trọ trong khách sạn hay hành khách trong một toa tàu: Tuy có mặt, nhưng chẳng bao giờ được ở lâu.”
“Trong nhịp sống mới, áp lực của người trẻ giống như một vận động viên điền kinh không tìm được vạch chiến thắng. Chạy miệt mài nhưng chạy đến đâu cũng không tìm thấy vạch cuối cùng.”
“Hiện nay không chỉ ở Nhật dù xã hội phát triển, có internet và các mạng xã hội nhưng nỗi cô đơn đã trở thành bệnh dịch toàn cầu!”
“Nếu có một người nào đó hỏi ba: Bạn muốn con mình lớn lên sẽ trở thành gì? Luật sư? Bác sĩ? Kỹ sư? Nhà quản trị?, ba sẽ không ngần ngại trả lời: Hạnh Phúc.
Vì mỗi khi gặp nhau, phần lớn mọi người sẽ hỏi con: Con làm việc ở đâu? Công ty nào? Lập gia đình chưa? Có mấy con? Đã mua nhà chưa? Mua xe chưa?… như thể cuộc đời chỉ là bảng liệt kê những món hàng. Phần lớn đều xây nhà trên sa mạc mà cứ tưởng là vững chãi. Nhưng chỉ cần một câu hỏi thì tất cả những thứ đó liền chao đảo: Con có hạnh phúc không?
Thực ra thì ai cũng tin là mình đã hành động đúng, nhưng theo ba chỉ có một cách để kiểm chứng: Nếu không bình an và hạnh phúc có nghĩa là mình đã sai lầm.”
Là một độc giả đã thẩm rất kĩ cuốn sách “Trò chuyện với thiên thần”, nhà văn – nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu khẳng định: “Tác giả hẳn sẽ nhận được đồng cảm tri âm bởi ông đã thắp lên một que diêm cho mỗi đêm buồn mất ngủ.”
Đồng hành với cuốn sách này, độc giả sẽ thấy thiên thần thực ra cũng rất gần gũi, trong sáng, luôn ôm ấp và che chở chúng ta bằng đôi cánh mềm mại, làm bất cứ việc gì cũng bằng trái tim dù trong linh hồn họ luôn có rất nhiều vết sẹo…
Thức tỉnh để cứu rỗi mình thoát khỏi sự tự hủy diệt
Trương Văn Dân đam mê cống hiến cho nghề viết đến mức ông không cần người ta phải gọi tên sách của mình sao cho đúng.
“Tôi chỉ viết với ý muốn được chia sẻ những suy nghĩ về cuộ sống và mong bạn đọc hiểu cho rằng những trang viết của tôi là không vô nghĩa, không giáo điều. Vả lại, những điều tôi nói cũng chưa hẳn là mới, mà chủ yếu chỉ là những nhận thức chung và ước muốn nhìn thẳng vào sự thật. Tôi cũng như bạn, không ai có thể chắc chắn về điều gì. Bản chất của cuộc đời là đổi thay liên tục. Khi chúng ta tưởng có mọi câu trả lời thì những câu hỏi đã bất ngờ thay đổi”, Trương Văn Dân tỉ tê như thế trong cuốn sách “Trò chuyện với thiên thần”.
Có lẽ, số đông độc giả sẽ đồng tình với nhà Elena Pucillo Truong, rằng “Trò chuyện với thiên thần” khiến chúng ta dừng lại và suy nghĩ. Động thái này của độc giả chính là thành công của tác giả bởi vì, “Đời sống không phải là một trò chơi trên mạng ảo nên khi ý thức được điều này sẽ làm nhiều người vô cùng khổ sở. Trong đời sống thực chúng ta đau khổ, chúng ta chết mà không thể nào tránh khỏi. Nhưng chúng ta không thể chạy trốn khổ đau bằng cách ngắt điện hay tắt chiếc điên thoại di động. Chúng ta hiểu là sự tiến bộ có thể giúp ích cho con người nhưng con người cũng cần phải phát triển những kỹ thuật có đạo đức, và chỉ có thế chúng ta mới mong cứu rỗi mình thoát khỏi sự tự hủy diệt, trước khi chạy đến điểm không còn có thể quay lại.”
Thời gian gần đây, những lúc nhức mỏi, tâm trạng không được thăng bằng cho lắm, tôi thường tìm đến thơ Nguyễn Văn Gia, và đọc văn Elena Pucillo. Lời văn tự sự của chị như một liều Aspirin xoa dịu nỗi nhức nhối trong lòng người vậy. Có thể nói, Elena Pucillo là một hiện tượng đặc biệt trên diễn đàn văn chương Việt trong những năm gần đây. Sự đặc biệt ấy, không hẳn bởi tài văn, mà là sự nhào trộn, hoà tan cái văn hóa Ý- Việt vào những trang sách của chị. Đọc văn Elena Pucillo (qua bản dịch của Trương Văn Dân) nếu không biết trước, có lẽ ai cũng nghĩ, tác giả phải là người Việt. Bởi, bối cảnh, tâm lý, hồn cốt nhân vật như đã được Việt hóa hoàn toàn vậy. Có lẽ, cái món văn hóa spaghetti tan chảy vào cái văn hóa nước mắm chăng? Chẳng vậy, có lần ngồi khật khừ với Nguyễn Đức Minh ở Bischofswerda, người rất thân thiết với vợ chồng Elena Pucillo-Trương Văn Dân, chẳng biết đùa hay thật gã bảo: Làm bất cứ loại Spaghettisoßen nào (nước sốt mì Ý) Elena cũng cho nước mắm cá cơm Bình Định nguyên chất vào. Tôi không tin như vậy. Nhưng mấy năm trước Elena sang thăm tôi, bún mắm tôm cứ thấy chị đả đều đều.
Nhà văn Elena Pucillo người Italia, là tiến sĩ ngôn ngữ và văn học nước ngoài. Chị đã từng là giảng viên Đại học Milano, và Đại học âm nhạc, cũng như Đại học khoa học xã hội, nhân văn Saigon. Nghiên cứu và tiếp xúc với văn chương từ rất sớm, nhưng Elena viết văn muộn. Và chị chỉ viết khi cảm xúc ùa đến bất chợt, buộc phải cầm bút, do vậy văn của chị rất sinh động và chắt lọc. Và nếu không có sự cổ vũ, dịch chuyển sang Việt ngữ của người chồng, nhà văn Trương Văn Dân, thì có lẽ, văn chương của Elena không được nhiều người biết đến như hiện nay. Thật vậy, những tác phẩm: Bóng của ngày, Một phút tự do, Vàng trên biển đá đen, Cùng Bay về Tâm dịch đã xuất bản, và Hạt bụi lênh đênh, cùng Nỗi đau ngọt ngào sắp xuất bản của chị đã được Trương Văn Dân dịch nguyên bản từ tiếng Ý một cách sinh động và tinh tế.
Văn chương Elena gồm hai mảng chính: Truyện ngắn, và tùy bút, tạp văn. Tự sự là nghệ thuật xuyên suốt những trang viết của Elena. Và khi đi sâu vào đọc, ta có thể thấy, Elena là một nhà văn có tài khám phá, miêu tả diễn biến nội tâm, hay mượn cảnh vật thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng nhân vật. Nếu được phép tuyển chọn, với tôi Vàng Trên Biển Đá Đen là tập truyện hay và tiêu biểu nhất về nội dung, cũng như thi pháp (hình thức nghệ thuật) sáng tạo này của Elena.
*Tính chân thực, với cái nhìn nhân bản.
Có thể nói, ngay từ những ngày đầu nghiên cứu ở Đại học Milano, Elena đã bén duyên với viết lách, nhưng chỉ đến khi về sống và giảng dạy ở các trường Đại học Saigon thì tài năng văn chương của chị mới được phát tiết. Có lẽ, đất và con người nơi đây đã cho chị những cảm xúc đặc biệt chăng? Có được những trang văn chân thực, làm rung động mọi tầng lớp người đọc như vậy, ngoài bút lực, ta có thể thấy, tình yêu, tình người của Elena sâu đậm biết nhường nào. Để có được những cảm xúc ấy, Elena đã đi vào khám phá nội tâm tư tưởng, hồn vía con người nơi đây, từ đó có một sự đồng cảm sâu sắc. Và “Con chim nhỏ trong lồng” là một truyện ngắn như vậy của chị. Nhà văn đã chọc thẳng ngòi bút vào cái vô cảm, sự mâu thuẫn gia đình, xã hội mà bấy lâu nay dường như đã bị chìm lấp. Lời văn tự sự, hay là tiếng kêu bất lực vọng lên từ những mẹ, người già cô đơn, hiu quạnh trước sự thờ ơ, ghẻ lạnh của con cái, gia đình và xã hội: “Bị giam hãm giữa bốn bức tường, tôi như chết từng ngày, lặng lẽ ngồi cô đơn trên thành giường mà chẳng có căn phòng riêng nào để trú ẩn. Những tiếng động bên kia bức tường là của những người xa lạ, của những người hàng xóm không quen, lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau của tôi.”. (Con chim nhỏ trong lồng)
Nỗi đau, sự tuyệt vọng ấy, đã đẩy người mẹ đến đường cùng, ngõ cụt. Tự kết thúc cuộc sống là lối thoát duy nhất của bà. Thân phận con người cùng tâm trạng đó đã được nhà văn Elena lồng vào sự vần vũ của đất trời, thiên nhiên. Sự miêu tả độc đáo, cùng những hình ảnh so sánh, với phép ẩn dụ này, dường như nhà văn muốn làm giảm đi nỗi đau của bi kịch đó, và bật lên tấm lòng vị tha của con người, cũng như của chính tác giả chăng? Tuy vậy, từ cái hiện thực đó ta vẫn nhận thấy cái rẻ mạt của tình người, và nhân cách. Và cái luân lý, đạo đức đã bị đảo lộn tùng phèo trong gia đình, xã hội đương thời, gây nhức nhối cho người đọc. Đoạn kết của thiên truyện: Con chim nhỏ trong lồng (dưới đây), tuy rất buồn, nhưng có lời văn nhẹ nhàng, và tuyệt đẹp. Nó không chỉ cho ta thấy rõ những điều đó, mà còn chứng minh tài năng sử dụng biện pháp tu từ của nhà văn Elena:
“Đêm nay có một vầng trăng tuyệt đẹp trên bầu trời, chỉ có một phần rất nhỏ bị che bởi một sợi mây. Tôi bỏ khung hình vào túi áo, đó là kho tàng của tôi, và từ cửa sổ tôi nhìn xuống thành phố đang ngái ngủ. Tia mắt tôi dõi theo ánh đèn màu đỏ của một chiếc xe hơi dọc theo hàng trụ đèn đường. Yên lặng quá. Từ trên cao ánh sáng chiếu xuống mềm mại như bông làm tôi có cảm giác như mình cũng đang đứng trên một cụm mây. Chỉ vài giây thôi! Tôi nhoài người, bay qua khung cửa sổ, rơi tự do trong không khí. Trên môi tôi vẫn nở một nụ cười thật ngọt ngào, để khỏi phải hét lên, sợ làm phiền người khác”.
Từ yêu người, dẫn đến tình yêu mảnh đất nơi đây, làm cho Elena gắn bó chặt chẽ với nó. Sự đi lại tìm tòi, khám phá với cái nhìn, quan sát tỉ mỉ cùng sự sẻ chia, cảm thông sâu sắc, như vốn sống để nhà văn viết nên truyện ngắn: Vàng trên biển đá đen, được in trong tập sách cùng tên. Tình tiết đơn giản, lời văn mộc mạc, song đây là một trong những truyện ngắn cảm động, và hay nhất của Elena. Gieo mầm một động từ, hay là hình ảnh, một phép tu từ so sánh: (gieo hạt, và gieo chữ) làm nên cái tứ của thiên truyện. Cái khát khao sống, buộc con người phải vượt qua khắc nghiệt của thiên nhiên. Và cái tình người (gieo chữ, bồi đắp linh hồn) ấy, nhà văn đã mở ra lối thoát cho đất và người nơi cao nguyên núi đá khô cằn:
“Một hạt giống không thể nẩy mầm nếu không có đất, và trên núi đá không phù hợp nên họ đào một cái rãnh và đem đất từ nơi khác lấp vào. Một điều đơn giản, mà từ thời nguyên thủy con người đã chiến đấu với thiên nhiên để sinh tồn. Gieo hạt để nẩy mầm! Công việc của tôi cũng vậy. Bây giờ tôi hiểu là mình cũng đang gieo hạt và tìm cách giúp các cậu học trò nảy mầm cho cuộc sống mới…” (Vàng trên biển đá đen)
Đọc Elena, ta có thể thấy tình yêu, tình người không chỉ dừng lại ở hai người mẹ Việt-Ý, mà sự ấm áp đó của nhà văn làm tan đi giá lạnh của bà cụ cô đơn, hay một bé gái bán vé số… Thật vậy, đọc: Mèo con lạc lõng, và Cho nhau một chút an lành (trong tập truyện Hạt bụi lênh đênh, sắp phát hành) rồi quay lại đọc Thư viết cho mẹ (trong tập Vàng trên biển đen, in năm 2018) tôi bị xúc động mạnh. Cảm xúc tuy khác nhau, song có thể nói, tình yêu, lòng nhân ái ấy làm cho người đọc xa quê, xa tổ quốc gần bốn chục năm như tôi ấm lại. Và hơi ấm đó, dường như xuyên suốt những trang văn Elena. Mỗi truyện ngắn, một tản văn của chị như một bài học luân lý vậy. Nếu đọc Con chim nhỏ trong lồng, ta thấy cái luân lý, đạo đức gia đình, xã hội bị đảo lộn, thì đến Thư viết cho mẹ, Elena đã trả cái luân lý, đạo đức ấy về đúng vị trí của nó. Đọc Elena một cách có hệ thống, ta có thể thấy, dù chị dẫn dắt người đọc đến đâu, và đi đâu chăng nữa, thì cái đích cuối cùng vẫn quay về với chân thiện mỹ.
Cũng như tác phẩm Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình của nhà văn Trần Hoài Thư (đã đọc trước đây) Thư viết cho mẹ của Elena (đọc gần đây), khi ngồi viết những dòng chữ này, tôi chưa biết để ở mục truyện ngắn, tùy bút, hay một trang thư. Và cho đây là một bức thư, thì có lẽ, đây là lá thư thứ hai hay nhất mà tôi đã được đọc. Nếu Nụ Hoa Vàng Của Ngày Si Tình như một sự tiếc nuối tình yêu của cái thuở ban đầu, thì Thư viết cho mẹ là tình yêu, lời tự sự về mẹ của Elena. Đằng sau lời tự sự ấy là câu chuyện thật cảm động về những người mẹ. Thư viết cho mẹ gây cho tôi cảm xúc đặc biệt, không hẳn bởi nội dung, mà do thủ thuật dẫn dắt truyện của tác giả. Thủ thuật kết nối từ một người mẹ (đẻ) sang người mẹ (chồng) một cách bất ngờ ấy của Elena làm tôi nhớ đến cái qui tắc bắc cầu trong toán học, từ cái thuở còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây cũng là một trong những truyện tiêu biểu về tính chân, thiện của Elena. Và đọc nó, dường như ta thấy, văn chương cũng như con người chị đang đến gần hơn với tư tưởng, triết lý nhà Phật:
“Bây giờ thì con xin báo cho mẹ biết là trong những ngày tới, mẹ sẽ có một cuộc gặp gỡ quan trọng. Đến gặp mẹ là một người đàn bà mà mẹ đã từng gặp rất nhiều năm trước: mẹ của chồng con. Con tin chắc rằng hai người sẽ trở thành bạn, sẽ kể cho nhau nghe nhiều rất chuyện, về những cuộc đời ở mãi tận phía bên kia trái đất. Bà ấy hay cười và thích nói đùa. Đây là điều mà con đang tưởng tượng: Hai người ngồi bên nhau như thể là hai người bạn lâu năm, vui đùa, cười nói. Mẹ chồng của con sẽ nói về Việt Nam, sẽ giải thích về lễ Vu Lan, một ngày lễ Phật giáo rất đặc biệt dành cho các bà mẹ vì họ giữ một vai trò quan trọng trong gia đình cũng như ngoài xã hội” (Thư viết cho mẹ)
Có thể nói, truyện ngắn nào của Elena cũng đầy ắp hình ảnh, tình tiết so sánh, liên tưởng. Cùng với lời văn nhẹ nhàng, tinh tế như vậy, hiển nhiên chị đã mang đến người đọc sự rung động và cảm thông sâu sắc.
*Tùy bút, tạp văn…với những nét đặc trưng.
Như có lần phân tích tác phẩm Miền Ấu Thơ của Vũ Thư Hiên và Sông Lam của Trần Mạnh Hảo, tôi đã viết: Có người cho rằng, chỉ có các nhà thơ, nhà văn viết về chính quê hương của mình mới có những tác phẩm hay, và chân thực. Song đi sâu vào văn học sử, cho tôi suy nghĩ ngược lại: Thường những mảnh đất, đồng quê xa lạ mới là đề tài để các nhà văn, thi sĩ đẻ ra những tác phẩm hay. Thật vậy, nếu không có cái nhìn xa lạ, tò mò khám phá của cậu bé đến từ nơi phố thị, thì sau này Vũ Thư Hiên khó có thể viết được tác phẩm Miền Ấu Thơ về đồng quê hay, đặc sắc có sức sống bền bỉ và lâu dài. Hay nếu sinh ra, và lớn lên ở Nghệ Tĩnh, chưa chắc Trần Mạnh Hảo đã viết được Sông Lam, với những hình tượng mới lạ, sâu sắc làm rung động không chỉ người đọc nơi xứ Nghệ. Và nhà văn Elena Pucillo cũng vậy. Đến từ Italia, khi Elena viết về Hà Nội hay Trà Sư, hoặc một vùng đất Việt nào đó sẽ khách quan, mang tính khám phá, sinh động hơn. Nó gây cho người đọc cảm giác thú vị như được tìm hiểu, khám phá vùng quê ấy cùng nhà văn. Hà Nội, nét đẹp bí ẩn là một tùy bút như vậy của Elena. Từ một tiếng rao đêm, hay một gánh đậu hũ non nóng giữa phố thị, hoặc những hàng trái cây bên đường, dưới lăng kính của mình, Elena cho người đọc cùng liên tưởng đến hình tượng (so sánh) thật độc đáo và mới lạ: “Tôi kinh ngạc nhìn các kim tự tháp bằng trái cây đặt trước các cửa hàng bên lề đường, trái nọ chồng lên trái kia, màu sắc chen nhau, như thách thức quy luật thăng bằng.”. Là tiến sĩ văn học Pháp, do vậy Elena đọc, nghiên khá rõ về văn hóa của các nước thuộc địa ở những năm đầu thế kỷ 20. Có được sự đồng cảm và tình yêu ấy, dường như Elena muốn bộc lộ cái tư tưởng, ước vọng của mình. Trở về cái thuở ban sơ của thành phố, như một cánh chim tự do muốn thoát ra khỏi những rào sắt vô tình đó. Vâng, đó cũng là khát khao, ước muốn không chỉ riêng của nhà văn. Một tiệm thuốc, hay nơi bán đồ lưu niệm ở góc phố, hoặc quán bia nơi vỉa hè cũng gây Elena một ấn tượng, một cảm xúc để chị đặt lên trang viết của mình. Có thể nói, Elena Pucillo là một nhà văn giầu trí tưởng tượng, có lời văn nhẹ nhàng, sâu sắc, ngữ nghĩa đa tầng. Và có lẽ, không chỉ tôi mà nhiều người sinh trưởng, gắn bó với Hà Nội đọc trang văn này, ít nhiều sẽ được hiểu biết thêm về nó:
“Giống như một giấc mơ giữa ban ngày, tôi tưởng mình đang cưỡi rồng bay trên thành phố, luớt qua khu biệt thự Pháp và những căn nhà thời thuộc địa được che chắn bởi những hàng rào và cổng vào bằng sắt trang trí theo kiểu Liberty của đầu thế kỷ 20. Tôi muốn mình được bay như một cánh chim vừa thoát khỏi lồng, lơ lửng trên những con đường thuốc, với những dụng cụ chưng cất đang hâm nóng bát thuốc trường sinh hay cỡi trên lưng một con cá vàng bơi dọc theo sông Hồng.” (Hà Nội, nét đẹp bí ẩn)
Mượn cảnh vật thiên nhiên để miêu tả nội tâm nhân vật là nghệ thuật không hề mới, gần đây được nhiều nhà văn quay lại sử dụng. Tuy nhiên, không phải ai cũng thành công ở loại hình nghệ thuật này. Đọc Một đêm huyền diệu của Elena chợt làm tôi nhớ đến cái tài, lấy động tả tĩnh trong Thu Điếu của cụ Nguyễn Khuyến“Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Hay ngược lại, mượn cái tĩnh của căn phòng tả tâm trạng động trong “Hộ Chiếu Buồn Những Biên Cương” của Thế Dũng. Và khi đến thăm nhà văn Nguyễn Hoàng Đức, Elena đã mượn đồ vật, cảnh trí trong căn phòng dường như để miêu tả, khắc sâu cuộc sống, tính cách cũng như tâm hồn gia chủ. Thật vậy, với sự liên tưởng độc đáo ấy của Elena, nhà văn Paul Đức (Nguyễn Hoàng Đức) hiện lên lịch lãm như một triết gia, nghệ sĩ, hay hình ảnh chiến binh của Phong trào khai sáng Tây Âu ở thế kỷ 18 vậy. Trích đoạn có lời văn tinh tế dưới đây, không chỉ thấy rõ điều đó, mà còn cho ta thấy tài năng, cũng như sự quan sát tỉ mỉ của nhà văn Elena:
“Tôi có cảm giác như không phải mình đang ở trong một căn nhà ở Hà Nội, Việt Nam. Tôi tưởng mình là cô bé Alice đang đứng trước chiếc gương thần để khám phá ra một thế giới khác. Tôi tưởng mình đang ở Paris, trên tầng nhà áp mái của một họa sĩ, một nghệ nhân Bohémien, đang ở vùng Montmartre hay ở khu Quartier Latin. Tôi đứng ngây người nhìn những bức tranh treo trên tường. Những tủ sách, ôi chao cơ man là sách, nhiều lắm và những bản nhạc mở rộng đặt trên chiếc dương cầm, như thể chàng nghệ sĩ vừa dạo đàn trước đó và trong không gian vẫn còn vang vang những nốt nhạc du dương của Beethoven, của Liszt hay Chopin… Tôi không thể nào rời mắt khỏi những thứ đồ vật vây xung quanh mình. Trên một bức tượng bán thân có phảng phất nét mặt của Paul Đức, được lập lại trong một bức chân dung được phóng cọ theo phong cách hiện đại, anh xuất hiện như một chiến binh tân thời.” (Một đêm huyền diệu)
Nếu truyện ngắn Elena sắc lạnh, thì tùy bút, chân dung của chị mềm mại, ấm áp. Tình bạn, tình người ủ ấm những trang viết của chị. Tùy bút, tạp văn Elena thường là những ký ức nhỏ, hay cảm xúc bất chợt từ một bạn văn, một nhà sư, một em bé bán vé số, hoặc về một miền quê nào đó…mà chị đã bắt gặp, trải qua. Thật vậy, mỗi (một) người bạn đều cho Elena cảm hứng viết. Và cái hơi ấm tình bạn, tình người ấy, với chị: “thật bình an và sảng khoái, hơn hẳn các loại thuốc hay liệu pháp trị liệu nhóm nào hiện hữu trên thế giới” (Trị liệu nhóm). Tuy nhiên, đọc tùy bút Elena, tôi khoái nhất những trang viết về chân quê, cùng những hình ảnh thân thuộc dưới góc nhìn của chị. Vâng, hình ảnh bà cụ, với tiếng gà kêu quang quác dưới cái lạnh của mưa gió như kéo hồn vía chúng tôi về với đất mẹ vậy. Cái mộc mạc và chân thực ấy, Elena làm cho lòng tôi ấm lại, khi ngồi viết những dòng chữ này, bởi cái tình người còn sót lại:
“trời mưa lất phất, nên chúng tôi phải nép vào một mái hiên của một căn nhà nhỏ. Bỗng tôi nghe có tiếng lục đục rồi có một bà cụ bước ra mời chúng tôi vào trong nhà nghỉ ngơi cho ấm. Lát sau tôi nghe có tiếng gà đập cánh và kêu lên quang quác. Con gà có thể là của để dành của bà, nhưng bà cụ đem ra nấu cháo mời chúng tôi mà chẳng chút đắn đo. Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn nhớ như in bóng dáng bà nhỏ con, chiếc áo bà ba màu nâu phủ lên một thân hình mảnh khảnh và nhất là nụ cười hiền hậu, thương quá, hai khóe miệng còn thẫm đỏ màu trầu.” (Một đêm huyền diệu)
Không biết Elena có phải là một Phật tử hay không, song đi sâu vào đọc và nghiên cứu, ta có thể thấy Phật giáo, hình ảnh, đức tin thấm đẫm những trang văn của chị. Với cái tư tưởng này, Elena luôn hướng nhân vật hành động, ứng xử nhân hậu, nhìn nhận con người, sự việc ở mặt tích cực, hay mở ra một lối thoát cho họ và xã hội. Khi đọc: Hạt bụi lênh đênh, trong tập truyện cùng tên, sắp in của Elena, càng cho tôi những cảm nhận hơn nữa: Cái chánh tin ấy của chị không chỉ trong sinh hoạt thường nhật, mà ngay cả những lúc ốm đau sinh tử. Sự bình tâm, thanh thản từ nơi Đức Phật chính liều thuốc đã giúp con người vượt qua những đớn đau, ưu phiền đó. Thật vậy, đây cũng là một trong những đặc điểm nổi bật nhất trong tùy bút, văn xuôi của Elena:
“Tôi biết là mình đang ngầy ngật vì thuốc. Có lúc tôi cảm thấy như mình đang lơ lửng trong một cái bong bóng đang tan biến. Điều lạ lùng là nằm trong đó tôi không còn nghe đau đớn, chỉ có bình an. Tôi giật mình thức giấc vì bất ngờ có ai đó ngồi bên cạnh mình. Tôi nghe một bàn tay đang đặt lên trái tim và cùng lúc đó cũng có một bàn tay khác đang nắm lấy cổ tay mình. Tôi mở mắt một cách khó nhọc và trời ơi, trước mặt tôi là ánh mắt sáng rỡ của nhà sư mà mình đã gặp trên chuyến bay. Nhà sư nhìn tôi mỉm cười và bàn tay ông dời từ trái tim để đặt lên trán tôi. Ông không nói gì, nhưng sự hiện diện của ông ở nơi đây đã ban tặng cho tôi một sự bình yên không thể nào nói được nên lời” (Hạt bụi lênh đênh)
Có thể nói, mỗi truyện ngắn, tùy bút của Elena Pucillo là một lát cắt của cuộc sống. Cái ác, và sự giả dối, chị vẫn đặt lên trang văn một cách sâu đậm, như để răn mình, răn đời vậy. Và tính nhân văn, khát vọng sống, khát vọng tự do đã làm nên văn chương, tên tuổi Elena Pucillo. Tuy nhiên, văn tự sự, độc thoại nội tâm, dù sâu sắc, nhưng ít đối thoại làm lời văn chậm, cho ta cảm giác mệt mỏi khi đọc. Đây cũng là nhược điểm của loại hình nghệ thuật này.
(Nguyên tác tiếng Ý: Donare un momento di serenita’)
Bản dịch của Trương Văn Dân
Trong xe khá yên lặng nhưng bên ngoài mưa đang rơi rất mạnh.
Những đám mây đen rủ ren nhau từ buổi chiều bây giờ đang phóng thích hơi nước tích tụ thành một cơn mưa xối xả, mọi vật xung quanh mờ mịt vì màn đêm cũng vừa buông xuống, ánh sáng chỉ lóe lên từng chặp nhờ đèn pha từ những chiếc xe hơi chạy ngược chiều.
Tôi muốn chợp mắt một chút để nghỉ ngơi nhưng xe cứ nhảy dựng vì ổ gà, luồng sáng chiếu lên mặt kính làm chói mắt và tiếng còi xe inh ỏi liên tục nhấn lên nên giấc ngủ không thể nào đến được.
Thoạt đầu tôi còn nghe tiếng nói chuyện của Nga, Kim Đức và cô bạn Hồng Hoa ngồi ở băng sau, còn bên cạnh là chồng tôi đang trao đổi với Châu và Tự, chú em rể đang ngồi bên cạnh tài xế. Nhưng về sau, có lẽ vì quá mệt nên mọi người im lặng, ngủ gà ngủ gật hay buông trôi theo ý nghĩ của mình.
Vì đã trễ nên trước khi về thành phố Qui Nhơn chúng tôi cho xe dừng lại ở một quán cháo vịt.
Hơi nóng và mùi thơm bốc lên từ tô cháo làm chúng tôi tỉnh ngủ. Cảm giác như vừa nhận được một sự trợ gíup, không chỉ hâm nóng cơ thể mà còn cả tinh thần.
Hôm ấy không phải là một ngày dễ dàng… nhưng sự mệt mỏi của tôi còn do những buồn phiền từ những ngày trước đó.
Chuyến công tác từ thiện lần này được chúng tôi chia làm nhiều đợt: Buổi sáng di chuyển bằng xe máy đến trung tâm trợ giúp các em bé ở thị trấn Bình Định và buổi chiều đi phát gạo và tiền cho những bệnh nhân nghèo đang chạy thận ở bệnh viện Qui Nhơn. Ngày cuối chúng tôi phải đi xa, đến thị trấn Phú Phong để phối hợp chương trình cùng các bạn trong gia đình Phật tử.
Chúng tôi đã đi trên những con đường nhỏ hẹp và đầy bụi dưới cái nóng kinh hồn, bầu trời chỉ thỉnh thoảng mới có một cụm mây, để mang đến chút niềm vui cho những người bất hạnh. Nhưng cũng may là về chiều trời mới đổ mưa, điều này giúp chúng tôi tránh phải lội bùn hay gặp nhiều khó khăn trong việc đi lại.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng về đến nhà. Điều đầu tiên mà tôi ao ước là được tắm rửa để xóa đi những mệt nhọc và cơn buồn ngủ. Dòng nước ấm làm trôi đi những bụi bặm trong ngày nhưng những ý nghĩ thì vẫn còn đọng lại.
Từ đôi mắt tôi chảy xuống ngoài những giọt nước còn có thêm vị mặn của nước mắt. Tôi không thể nào xóa đi trong tâm trí những khuôn mặt co quắp vì đau khổ hay nỗi xót xa khi thấy những thân thể teo tóp, biến dạng vì bệnh tật trong những cuộc đời bất động, những con người im lìm, không thể tự túc nhưng ánh mắt vẫn còn ánh sáng.
Đó đây vang lên những những nụ cười của các trẻ em câm điếc cùng những đôi mắt để bày tỏ lòng tri ân, bởi vì để cảm ơn không cần phải dùng lời; Đôi mắt đầy lệ của bà mẹ 90 tuổi bị con cái bỏ rơi, của người đàn ông còn trẻ nhưng thân mang trọng bệnh mà không tiền chạy chữa, ông đâu còn có tương lai. Rồi còn đôi mắt đẫm ướt của một cô gái trẻ đang mang thai, một thân một mình nên không biết định mệnh sẽ đưa về đâu.
Ôi bao nhiêu đau khổ toát lên từ bàn tay sần sùi, chai sạn của người đàn ông mà tôi đã nắm lấy để an ủi, mấy tháng trước ông còn làm việc ở một công trường hay bàn tay đen đúa của một bà nông dân suốt đời cúi gập mình trên ruộng gieo mạ để nuôi sống gia đình và cũng để nuôi sống cả chúng ta.
Tôi đã siết chặt những bàn tay biến dạng vì viêm khớp, có nhiều nút sưng to như trên những cành cây cổ thụ hay những bàn tay trắng xanh và mỏng manh như cánh hoa hồng của những em bé, có lẽ do sống nhiều thời gian giữa bốn bức tường, vì sợ ánh sáng hay không còn muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Tôi đã ôm chầm lấy em bé mồ côi mẹ ngay từ ngày sinh đẻ hay lau khô những giọt nước mắt của những người không còn cử động.
Những cuộc đời bị cầm tù trong thân thể vì thiếu chân để trốn chạy, thiếu tay để tự vệ hoặc yêu thương. Họ không thể ôm lấy một ai để bày tỏ lòng yêu mến hay cảm nhận được hơi ấm của tình người!
Nhưng tôi nghĩ là mọi thứ còn kinh khủng hơn vì thiếu những cử chỉ thân thiện. Thường thì không ai có thời gian để ban tặng một vòng ôm. Đối với nhiều bác sĩ hay y tá thì chỉ có sự chẩn bệnh, trị liệu là quan trọng. Tất cả đều được khái quát hóa và người bệnh chỉ là một kẻ chiếm một giường nằm, nếu may mắn có được một chiếc giường để ngả lưng. Và điều này hiện nay phổ biến trên toàn thế giới, bệnh nhân đang trở thành một con số và mất đi bản sắc của mình vì chẳng ai còn quan tâm đến họ như một con người, không ai cần nhớ đến quá khứ, cuộc đời hay nỗi cô đơn của họ. Người ta dễ dàng quên đi là những cụ già này, những bệnh nhân kia cũng là người và từng có một đời sống đầy phẩm giá. Trong tình huống đó, cuối cùng thì giàu, nghèo chẳng có khác gì nhau, khi người ta không còn cảm nhận là mình đã từng hiện hữu. Tôi chợt nhớ đến bài thơ “Mới hôm qua thôi” [1] của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc và hiểu là sự đau khổ làm đã làm những diễn ngôn trở thành vô ích.
Đầu óc tôi bỗng hiện lên hình ảnh một bà cụ, lúc bà vừa nấu xong một nồi cơm, đang đặt lên bàn thờ vài quả trứng chiên, một điã rau xào cùng bát canh rau vì hôm ấy là ngày giỗ chồng. Khi thấy chúng tôi, bà liền mời ăn cơm với bà. Tôi biết đó là cách mà bà muốn cảm ơn về món quà của chúng tôi mang lại nên ai nấy cũng đều vô cùng xúc động.
Ôi, bao nhiêu đau khổ trong những cuộc tồn sinh của bà! Mỗi ngày lặng lẽ trôi qua, bà không nhìn thấy một ai và chỉ trao đổi vài lời với một chú mèo con, chân bị cột vào thanh giường vì nếu nó chạy mất thì bà sẽ không còn biết vì ai để sống. Đợi chờ. Bà luôn đợi chờ một ai đến, có thể đó là một bà hàng xóm ghé qua thăm và có mang cho bà tô cháo. Thỉnh thoảng lắm mới có những khuôn mặt lạ và họ đã để lại cho bà một vòng ôm, truyền cho bà chút hơi ấm đặc biệt qua hai bờ vai mảnh khảnh, rung theo tiếng nấc và đến từ trái tim khao khát tình người.
Tôi lau mặt và nhìn thấy trong gương đôi mắt đỏ của mình. Tôi giặt vội quần áo để loại bỏ mồ hôi và bụi đường và sau khi phơi ở hành lang, tôi bước lên giường để ngả lưng.
Nhưng những ý nghĩ vẫn còn nằm đó! Tôi không thể nào chặn nổi những ý nghĩ cứ trỗi dậy trong đầu.
Trong trí tôi vẫn còn đọng lại hình ảnh một bà cụ già, trên người mặc chiếc áo màu tím, cầm cây gậy trúc cao hơn đầu mình chống ra cổng vẫy tay chào khi chúng tôi từ giã và sắp bước lên xe đậu ở phía bên kia lề đường. Đứng tựa người vào gậy, lưng dựa vào hàng rào, bà vẫy tay chào lần nữa để tỏ lòng biết ơn vì năm nay chúng tôi vẫn còn nhớ đến bà.
Mấy năm trước chúng tôi cũng đã gặp bà, luôn gầy ốm nhưng trong ánh mắt không thiếu tia sáng của nghị lực và lòng can đảm. Tôi còn nhớ bà và một bà cụ khác cũng ở gần nhưng năm nay đã không còn nữa. Chiếc phong bì dành cho bà cụ này chúng tôi đã dành cho một gia đình khác cũng đang cần giúp đỡ.
Khi tham dự vào một công tác thiện nguyện thì tôi không thích chụp hình, thế nhưng lần này thì chú Tự đã ghi hình và có lúc còn quay phim, mục đích lưu lại để chuyển cho những bạn ở xa đã đóng góp tiền bạc nhưng không tham dự được. Có bạn biết một vài trường hợp và nhờ chúng tôi thay mặt giúp đỡ. Nhưng có lẽ hiện thực mà chúng tôi chứng kiến còn nằm ngoài những trí tưởng tượng của họ. Bằng những đồng tiền nhiều nguồn, có thể góp được từ những buổi làm thêm, của một bà cụ già hay của một đôi vợ chồng trẻ gửi về để làm công đức cho đứa con gái vừa mới ra đời, tiền hoa hồng của một cô sinh viên làm thêm trong những giờ rảnh rổi, tất cả góp lại và gửi về để chúng tôi có thể đại diện họ mang lại một chút niềm vui cho những người khốn khổ. Mỗi người đều muốn đóng góp phần của mình, ít hay nhiều không quan trọng vì phát xuất từ những tấm lòng.
Tất nhiên tôi không thể nào đo lường được những bận rộn và lo âu của Nga, Xuân, Nguyệt, Kim Đức, Hoa, Hảo… để tổ chức về chuyến thiện nguyện này, dù đã nghe rất nhiều cuộc điện thoại, thấy nhiều lần trao đổi qua email, FB, tham khảo ý kiến của các bạn trong gia đình Phật tử Tây Sơn như anh Lộc, Như Trang… để xem xét các trường hợp, và bổ sung vào danh sách những người cần giúp.
Những đóng góp cá nhân tuy nhỏ nhưng mọi người đều cùng làm nên cũng đã giúp được nhiều người.
Tối đó tôi không thể nào dỗ được giấc ngủ. Đầu óc tôi cứ miên man nghĩ về những phận người, những cụ già hay em bé bị bỏ rơi, cô độc và bệnh tật. Tất nhiên không chỉ là những người mà tôi vừa thấy, vì trong thế giới này, chỉ cần mở một trang báo là thấy những hoàn cảnh như thế càng ngày càng tăng. Nguyên nhân có thể rất nhiều, nhưng với những người khốn khổ thì nào có quan trọng gì, cuối cùng cũng chỉ là đau khổ, đói khát, chết chóc và cô độc.
Khi chúng tôi đến trung tâm người khuyết tật thể chất và tâm thần thì có một người đàn ông đã gây cho tôi một ấn tượng mạnh lúc tôi đến trao cho ông chiếc phong bì. Vẫn nằm yên, mặt quay vào vách, ông cầm phong bì rồi ném ra xa. Sau vài lần như vậy thì cô y tá bảo tôi đừng quan tâm vì ông ta rất bất thường.
Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được cái bờ vai của ông ấy, và cái cách mà ông từ chối người lạ mặt. Thái độ của ông chính là sự khước từ cái thế giới này và chỉ chấp nhận nhìn vào mắt của những người đồng cảnh ngộ. Sự chọn lựa của ông là không thèm nhìn vào sự thật của bệnh tình.
Có thể là chỉ khi nhìn vào bức vách trắng thì ông ta mới tin rằng mình là một người bình thường, là có thể sống một cuộc đời khác, tưởng tượng vẽ lên bức vách đó những ý tưởng, những nhân vật hay sự kiện mà chỉ mình ông biết để tạo ra một thế giới riêng biệt và vẹn toàn.
Có lẽ ông không điên, không hề, và đã tự tìm ra cách để giảm bớt đau khổ, đã tìm thấy một cách giải quyết những vấn đề hiện sinh của mình để có thể tiếp tục sống.
Nếu ông ta quay lại, giả sử ông đã nhìn vào mặt tôi, có lẽ ông sẽ nhìn thấy trong mắt tôi bao niềm thương cảm và sẽ hiểu ra tình trạng của mình, như thế thì có khác gì ông ta đã hủy diệt cái thế giới siêu thực mà ông đã khó nhọc tạo ra?
Tất nhiên tôi phải tôn trọng sự chọn lựa của ông và cần tìm hiểu lý do của thái độ khác thường đó, vì thật ra biên giới của sự bình thường và điên loạn rất đỗi mong manh.
Vì chính tôi cũng đã nhiều lần dập mạnh cánh cửa vào mặt cái thế giới tàn nhẫn này! Nhưng dù thế nào thì qua những an ủi và trợ giúp trong những ngày qua, có lẽ chúng tôi cũng đã gửi được một thông điệp hy vọng và an lành.
Có thể đây chỉ là một niềm an ủi nhỏ nhoi, nhưng chỉ sau những suy tư ấy mà tôi đã chìm vào giấc ngủ.