Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘Xứ Nẫu, Người Nẫu’ Category

Quy Nhơn, tên gọi của thành phố – tỉnh lỵ Bình Định hiện nay có từ cuối thế kỷ XIX, nhưng trong lịch sử, địa danh Quy Nhơn xuất hiện lần đầu vào năm 1602 với tư cách là một phủ thuộc đạo Quảng Nam của xứ Đàng Trong, đơn vị hành chính có địa giới còn rộng hơn tỉnh Bình Định hiện nay. Nhân 410 năm (1602 – 2012) “khai sinh” địa danh phủ thành Quy Nhơn. Xin giới thiệu loạt bài “Dấu xưa Quy Nhơn” nhằm phác thảo “một chân dung” Quy Nhơn trong tiến trình lịch sử qua góc nhìn văn hóa.

Bài 2: Miền đất tụ linh , tụ phúc (more…)

Read Full Post »

Quy Nhơn, tên gọi của thành phố – tỉnh lỵ Bình Định hiện nay có từ cuối thế kỷ XIX, nhưng trong lịch sử, địa danh Quy Nhơn xuất hiện lần đầu vào năm 1602 với tư cách là một phủ thuộc đạo Quảng Nam của xứ Đàng Trong, đơn vị hành chính có địa giới còn rộng hơn tỉnh Bình Định hiện nay. Nhân 410 năm (1602 – 2012) “khai sinh” địa danh phủ thành Quy Nhơn. Xin giới thiệu loạt bài “Dấu xưa Quy Nhơn” nhằm phác thảo “một chân dung” Quy Nhơn trong tiến trình lịch sử qua góc nhìn văn hóa. (more…)

Read Full Post »

Nếu không làm ca sĩ chẳng biết bao giờ tôi mới có cơ hội đến thăm Qui Nhơn. Tất cả những gì được nghe về nó chỉ là một hình ảnh của một thành phố biển nhỏ xinh: buồn và đẹp ! Đến cả cái máy bay chở tôi ra Qui Nhơn cũng nhỏ đến bất ngờ. Có lẽ mang sẵn cái suy nghĩ ấy nên khi đã nhìn thấy những đường biển dài và mênh mông , mình vẫn cứ cho nó là bé!

12h trưa chẳng biết làm gì, nằm ở khách sạn thì buồn quá, thế là vác quả kính đen ( nghiêm cấm hình ảnh trong cự ly quá 3m vì không phải mắt cận) chạy ra đường. Qui Nhơn vắng lắm, nó yên tĩnh và hiền hòa như con người ở đây vậy. Thấy một chiếc xích lô chạy tới, thế là vẫy vì trong lòng cũng muốn ngồi 1 thứ gì khác ngòai taxi. (more…)

Read Full Post »

 

    Sang hè thật đẹp, nắng óng vàng nhuộm sắc quả ngọt lịm mọng hương. Ngọn nồm từ biển ùa vào theo nhịp chân người hối hả cùng thời gian sinh sôi nảy nở vun đắp cho đời như màu nắng vàng kia. Nhưng đâu đây niềm chia xa luyến tiếc len lỏi mọi ngõ ngách vào buồng tim đau đáu nhớ, đau đáu thương khi đêm chập chững nặng nề cố đọc cho hết thông tin trên trang tranhanam.vnweblogs.com: “Tình hình bệnh của thầy Trương Tham chuyển sang nguy kịch từ tối qua 23.4.2012. Thầy lâm vào tình trạng tắc nghẽn đường thở, và ngừng thở vào lúc 23h20. Các bác sĩ đã tận tình cấp cứu, trợ thở bằng máy và đến 24 giờ thì thầy thở lại được bằng máy. Từ 4 giờ 30 sáng ngày 24.4.2012, huyết áp của thầy liên tục giảm, đội ngũ bác sĩ, điều dưỡng liên tục cấp cứu. Nhưng đến 15 giờ, huyết áp, tim mạch đều báo động đỏ. 15 giờ 55 phút, thầy trút hơi thở cuối cùng tại phòng hồi sức cấp cứu của bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định.
Hiện thầy đã được đưa xuống Nhà tang lễ Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định. Lễ liệm tiến hành đúng 17 giờ – 18 h 30 nhập quan. Lễ viếng đã bắt đầu lúc 19 giờ cùng ngày. Thầy sẽ được an táng tại nghĩa trang Phật giáo Quy Nhơn
”. Cùng lúc đó nhận được tin nhắn của Nhà báo Trần Quang Khanh, chủ nhiệm CLB Văn học Xuân Diệu báo tin Nhà giáo ưu tú Trương Tham đã từ trần…
(more…)

Read Full Post »

Đặng Phú Phong

Quang cảnh Hội Đổ Gian tại An Thái - Rước nước Thánh từ sông Côn về Ngũ Bang Hội quán - địa điểm diễn ra Hội Đổ giàn. Ảnh Đào Tiến Đạt

“Trai An Thái gái An Vinh”

Trần võ sư giật mình thức dậy thì trời đã hừng sáng . Ông bước ra sau nhà rửa mặt, ngậm mấy hớp nước, sục sục trong miệng một lúc, nhổ toẹt xuống đất rồi bước nhanh vào nhà. Ông di đến bàn thờ thắp mấy cây hương, kính cẩn bái từng bàn thờ một, nhẹ nhàng cắm vào bát hương, xong, ông đi lại bộ phản gõ, chập hai bàn chân lại xoa xoa phủi bụi rồi ngồi xếp bằng ngay ngắn, sửa soạn cho điếu thuốc lào đầu ngày

(more…)

Read Full Post »

Thành Hoàng Đế là một địa điểm hai lần là kinh đô của hai tộc người, hai triều đại, trong hai thời kỳ lịch sử khác nhau. Do vậy, dù được khai quật khảo cổ nhiều lần, những tồn nghi quanh di tích này vẫn nối dài. Mới đây, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch mời Viện Khảo cổ học Việt Nam khai quật khảo cổ di tích thành Hoàng Đế lần thứ 5 với mục tiêu cụ thể: Xác định không gian “Tử thành” (thành con) để phục vụ công tác trùng tu tôn tạo.

Mô hình thành Hoàng Đế (theo tư liệu của GS. Phan Huy Lê) trưng bày ở Bảo Tàng Bình Định. Ảnh: N.T.Q

Từ 500 năm thành Đồ Bàn …

Theo thư tịch cổ, ngôi thành cổ này có rất nhiều tên gọi: Vijaya, Chà Bàn, Xà Bàn, thành Lồi, Đồ Bàn… Trong đó, tên gọi Chà Bàn được sử liệu Việt Nam ghi chép sớm nhất vào thời Lê (1403) và sử dụng nhiều nhất, một số sử liệu về sau gọi là thành Đồ Bàn. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết: “Sách Thiên Nam dư địa chí gọi là Chà Bàn, sau nhiều sách chép lầm là Đồ Bàn vì chữ Chà và chữ Đồ gần giống nhau”.

Năm thế kỷ vương quốc Champa định đô ở vùng Vijaya (TK XI-XV), chiến tranh nhiều lần chà xát khu vực này. Sau lần bị người Khơme tấn công vào cuối thế kỷ XII, kinh đô bị hủy hoại nặng nề. Đến năm 1832, để tránh cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông, người Chăm lại bỏ kinh thành chạy lên vùng thượng du. Cuộc chiến với nhà Trần và đặc biệt là nhà Lê của Đại Việt vào năm 1471 đã đưa Vijaya vào Đại Việt, thành Đồ Bàn chấm dứt vai trò lịch sử của nó với vương quốc Champa. Hiếm có kinh đô nào lại xây dựng, bị hủy hoại, rồi tu sửa, phục hồi nhiều lần như Đồ Bàn.

Về thành Đồ Bàn, thư tịch cổ cho biết: “Trong phủ có thành Đồ Bàn, là nơi vua nước Chiêm ở đó, lộng lẫy kiên cố nay dấu cũ hãy còn” (Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú); “Xã Phú Đa xưa có thành xây bằng gạch gọi là Đồ Bàn. Thành vuông mỗi bề dài một dặm, có 4 của. Trong thành có điện, có tháp. Điện đã bị đổ , tháp còn lại 2 tòa gọi là tháp con gái” (Thiên Nam tứ chi lộ đồ thư); “Thành cũ Chà Bàn ở địa phận 3 thôn: Nam Định, Bắc Thuận và Bả Canh về phía đông huyện Tuy Viễn, xưa là quốc đô của Chiêm Thành, chu vi 30 dặm, trong thành có tháp cổ, có nghê đá, voi đá đều là của người Chiêm Thành” (Đại Nam Nhất thống chí),…

Một đoạn thành ở rất gần miếu Song Trung, trong khu vực Tử Cấm thành. Ảnh: B.PHÙNG.

Đến Thành Hoàng Đế của Vương triều Thái Đức.

Khởi nghĩa Tây sơn giành thắng lợi, Nguyễn Nhạc đã chọn tòa thành cổ Đồ Bàn hơn 300 năm hoang phế để xây dựng kinh đô Vương triều Thái Đức (1778).

Sử cũ chép về Thành Hoàng Đế: “Nguyễn Nhạc nhân đất cũ của Chiêm Thành, sửa đắp thành Đồ Bàn, đào lấy đá ong thành Lũy, mở rộng cung điện” (Sách Lê Quí Dật Sử); “Tây Sơn Nguyễn Nhạc chiếm cứ thành này, nhân nền cũ xây đá ong tiến xưng là Thành Hoàng Đế” (Đại Nam Nhất Thống Chí); “Đồ Bàn có từ lâu đời, khắc phục tự nhà Trần, bị phá vỡ tự đời nhà Lê, khôi phục được từ nhà Tây Sơn, sau dần dần phá bỏ mà nay nền cũ vẫn còn…Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 37, nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc năm thứ 4 bèn nhân nơi đó mà đóng đô, mở rộng cửa đông kéo dài đến 15 dặm, tường thành được đắp cao rồi xây bằng đá ong, bề cao đến 1 trượng 4 thước, bề dày 2 trượng, mở thêm 1 cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có 2 cửa, bên tả là cửa Tân Khai, bên hữu là cửa Vệ môn…phía tây thành có đắp con đê đỉnh nhĩ để phòng nước lụt, phía Tây Nam có đàn Nam Giao để tế trời đất, bên trong thành xây thêm bức thành con, chính giữa dựng điện Bát Giác…phía sau là điện Chánh Tẩm (nhà chính), trước điện Bát Giác có lầu Bát Giác; hai bên dựng hai nhà thờ, bên tả thờ tổ tiên ông Nhạc, bên hữu thờ tổ tiên bà Nhạc; trước lầu Bát Giác có cung Quyển Bồng, hai bên có dãy hành lang là nơi làm việc; trước cửa cung có cửa Tam Quan cũng gọi là cửa Quyển Bồng, hay là cửa Nam Lâu mà cửa Vệ Môn đứng ở trước mặt” (Đồ Bàn Thành Ký Nguyễn Văn Hiển).

Theo Chapman, một thương gia người Anh khi đến thăm Nguyễn Nhạc vào giữa năm 1778 viết: “Tường thành phía Đông dài nửa dặm, không thấy có đại bác, lỗ châu mai, tháp canh gì cả. Cũng không thấy có lính canh ở cổng và trên tường thành”.

Đến năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm thành Hoàng Đế đổi tên là thành Bình Định. Năm 1800, quân Tây Sơn vây thành, đến năm 1801 chịu không nổi trùng vây của quân Tây Sơn, hai tướng giữ thành của Nguyễn Ánh là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự sát.

Năm 1802, quân Tây Sơn bỏ thành ra Bắc. Khi Gia Long lên ngôi, nơi đây trở thành dinh Bình Định rồi trấn Bình Định. “Năm Gia Long thứ 7 (1808) dời đến chỗ hiện nay (thôn Kim Châu và An Ngãi), năm thứ 14 đắp bằng đất, năm thứ 16 xây bằng đá ong” (Đồ Bàn Thành Ký Nguyễn Văn Hiển). Để xây thành Bình Định, nhà Nguyễn đã dỡ lấy vật liệu đá ong từ thành Hoàng Đế và xây lăng mộ Võ Tánh ngay trên địa điểm điện Bát Giác và lầu Bát Giác.

Cuộc khai quật lần trước giúp phát lộ hồ bán nguyệt trong khu vực Tử Cấm thành. Hy vọng những cuộc khai quật tới đây sẽ cung cấp thêm nhiều cứ liệu khoa học  giúp chúng ta hình dung rõ ràng hơn về tòa thành cổ này. Ảnh: B.PHÙNG.

Những tồn nghi nối tiếp

Trải qua bao cuộc biển dâu, việc bóc tách để phân biệt đâu là thành của người Chăm, đâu là của nhà Tây Sơn và đâu là của nhà Nguyễn là vấn đề không đơn giản, do đó tồn nghi nối tiếp tồn nghi.

Năm 1986, GS Phan Huy Lê cùng một số nghiên cứu sinh Đại học Tổng Hợp Hà Nội khảo sát thực địa di tích Thành Hoàng Đế và công bố Thành Hoàng Đế gồm 3 vòng thành: Thành Ngoại, thành Nội và Tử Cấm Thành. Tử Cấm Thành có cấu trúc hình chữ nhật, dài 174m, rộng 126m (khuôn viên Lăng Võ Tánh hiện nay).

TS. Lê Đình Phụng – Viện khảo cổ học Việt Nam, người chủ trì 4 đợt khai quật khảo cổ thành Hoàng Đế cũng xác định thành Hoàng Đế có 3 vòng thành: thành Ngoại, thành Nội và Tử Cấm Thành. Tuy nhiên Tử Cấm Thành có chiều dài 321m. Bởi vì dấu tích thành Đông và thành Tây Tử Cấm Thành nối dài ra phía Bắc. Mặt khác, thành Bắc Tử Cấm Thành (theo GS. Phan Huy Lê) và là tường Bắc lăng Võ Tánh hiện nay, xây sau thành Đông và thành Tây vì tường Bắc xây tiếp giáp với tường Đông và Tây bằng kỹ thuật gối đầu (không câu neo), kỹ thuật xây ghép đá ong thành Bắc khác thành Đông và thành Tây. Và TS, Lê Đình Phụng xác định thành Bắc Tử Cấm Thành là bờ Bắc thành Nội theo xác định của GS. Phan Huy Lê.

Năm 2009, Viện khoa học Công nghệ xây dựng phối hợp với Ban Quản lý di tích tỉnh đào thám sát kiểm tra các thông số kỹ thuật để lập thiết kế trùng tu, kết quả cho thấy: Bờ thành Bắc Tử Cấm Thành theo công bố của TS. Lê Đình Phụng không nối với thành Đông và còn kéo dài  về phía Đông, kích thước đá ong và tường thành Bắc đều lớn hơn kích thước đá ong và tường thành Đông và Tây hiện còn.

Vừa qua, trong quá trình phục hồi tường Đông, Tây và Nam Tử Cấm Thành (theo xác định của GS. Phan Huy Lê) đã phát hiện bờ tường Nam nối với tường Đông và tường Tây cũng xây gối đầu (không câu neo) và tường Nam cũng nối dài ta ngoài tường Đông và tường Tây hiện còn, kích thước tường Nam được phục hồi theo dấu tích chân tường hiện còn, có chiều rộng nhỏ hơn tường Đông và tường Tây.

Dấu gạch nối còn in bên ngoài góc Đông Nam bờ tường Tử Cấm Thành (thành Nam Kéo dài ra phía Đông Tử Cấm thành). Ảnh: N.T.Q

Điều đáng lưu ý ở đây là tất cả các tư liệu lịch sử để lại không có tài liệu nào nói cấu trúc thành Hoàng Đế có 3 vòng thành là: thành Ngoại, thành Nội và Tử Cấm Thành. Đây là mô hình thành Bắc Kinh của Trung Quốc. Tòa thành được sơn màu tím (tử) là nơi cấm địa, nên gọi là Tử Cấm Thành.

Trong Đồ Bàn Thành Ký của Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển chép về thành Hoàng Đế như sau: “…thành nội trúc tử thành….”, tạm dịch: “bên trong thành xây thành con”. Chữ “tử” ở đây nghĩa là “con”, chứ không phải tử là “màu tím”. Trong sách: Thành Hoàng Đế – kinh đô vương triều Tây Sơn, trang 154, TS. Lê Đình Phụng viết: “Về thành Hoàng Đế qua ghi chép của sử liệu (Đồ Bàn Thành Ký) cho thấy kinh đô vương triều Tây Sơn có 3 lớp vòng thành: Thành Ngoài, thành Trong (gọi là thành Nội), và thành Con (sau này gọi là Tử Cấm Thành)”.

Qua những tư liệu lịch sử viết về thành Đồ Bàn và thành Hoàng Đế nêu trên và những phát hiện mới những năm vừa qua, trong quá trình khai quật khảo cổ và phục hồi tường thành Hoàng Đế cho thấy rằng: Công bố của GS. Phan Huy Lê và TS. Lê Đình Phụng xác định về cấu trúc cũng như không gian của 3 vòng thành Thành Hoàng Đế còn nhiều điều tồn nghi. Hy vọng những cuộc khai quật tới đây sẽ cung cấp thêm nhiều cứ liệu khoa học  giúp chúng ta hình dung rõ ràng hơn về tòa thành cổ này.

(Theo baobinhdinh.com.)

NGUYỄN THANH QUANG

Read Full Post »

Đặng Phú Phong.
 
Nắng xế mùa thu khiến bóng của hàng dâm bụt cao qúa đầu người làm tối đi gương mặt nhăn nheo của ông Nghè Trì đang rảo bước vào cổng. Ông xô nhẹ cánh cửa cũ kĩ, xiêu vẹo đóng không kín nhà ngõ. Tiếng kêu của cánh cửa làm con Mực đang thiêm thiếp ở hàng ba, vụt dậy, phóng chạy ra, cất tiếng sủa nhưng nhận ra người quen, nó gừ gừ mấy tiếng rồi quẫy đuôi dẫn khách vào nhà. (more…)

Read Full Post »

Trường Nghị

Dưới Triều Nguyễn, cũng giống như các địa phương khác, trường lớp ở Bình Định xây dựng theo phân cấp hành chính Trường Tỉnh, Trường Phủ và Trường Huyện. Quan chức phụ trách giáo dục cấp Huyện có Huấn Đạo, cấp Phủ có Giáo Thụ và cấp Tỉnh có Đốc Học. Giống như trường tư bây giờ, ở mỗi làng xã còn có những Thầy Đồ là các Khóa sinh, các ông Tú hoặc các hưu quan, hoặc các vị đỗ đạt mà không muốn làm quan đứng ra tổ chức giảng dạy cho người trong thôn trong xóm. Những lớp học nầy đặt ở nhà Thầy hoặc nhà dân, dạy từ 5,  7 cho đến vài chục môn sinh.

(more…)

Read Full Post »

“Ghé bờ đê ăn bánh dây rồi hẵng đi nha tụi bay”, đó là lời rủ rê khó có thể bỏ qua với những người lại sắp sửa đi xa như chúng tôi. Chẳng ai biết bánh dây ra đời từ lúc nào, nhưng hễ về thị trấn Bồng Sơn (H.Hoài Nhơn, Bình Định) thì chắc rằng ai cũng sẽ ghé đến thưởng thức bánh dây bờ đê ít nhất một lần.

(more…)

Read Full Post »

Ở huyện Vân Canh, Tuy Phước (Bình Định) có một nghề mưu sinh không giống ai: săn kiến. Không kể nắng hay mưa, ngày nào họ cũng băng rừng, bạt núi từ sáng đến chiều.

Lang thang trong những cánh rừng, những nơi cây có lá non và to kiến thường làm tổ

(more…)

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »