Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Một, 2025

Phần rượu cuối năm

Trần Thiên Thị

1.

Rượu của em để lại

Và em bỏ đi rồi

Chiều nay còn gió bấc

Và tôi buồn mình tồi

2.

Những chiếc kim đồng hồ cứ nghĩ

Gắng cho qua dân giao thừa mình sẽ nằm lại và nghỉ ngơi mãi mãi

Không gian thì cứ rộng dần như không còn điểm tựa

Đâu rồi một bàn tay

3.

Mùa xuân đã đánh thức đám người chai lười nhất thức dậy và mĩm cười

Em đã không cho phép tôi nằm lại

Mơ tiếp giấc mơ cũ kỷ

Mọi đôi môi đều hồng lên nụ hôn bạn đầu

Chờ tôi

Chờ tôi

Nếu có buồn ta sẽ buồn với nhau

4.

Ôi câu thơ này đã chui qua không biết bao nhiêu lớp hàng rào luân lý

Nằm lại trong mắt người với báo nhiêu vết sẹo

Cùng với cỏ

Sau bao lần dày xéo

Ta hứa với nàng

Ngày mai sẽ xanh

Phía trước chúng mình

Mùa xuân

5.

Sắp xếp lại

Cho anh lời hẹn

Cho cái buồn cắc cớ có cơ may

Trả cái lạnh về cho gió bấc

Năn nỉ xuân thì cho mượn bàn tay

Bao nhiêu năm rồi câu thơ chưa dám tỏ

Ta nở cùng em

Hoa của xuân này

6.

Thơ thiên hạ cưu mạng chân lý của loài ngưới

Đeo đuổi em thơ ta thành rắm rối

Mùa xuân nhuộm hồng mặt đất

Sót những góc buồn bởi lỗi mình ta

Ôi những buổi chiều cuoi đông

Ăn thứ gì với nhau cũng ngon

Uống với nhau thứ gì với nhau cũng say

Em nhắn mẹ đêm nay nhiều việc

Về với ta

Sám hối

Đoạ đày

trần thiên thị

Read Full Post »

Chiều cuối năm ra phố

Đinh Lê Vũ 

.

Từng có bàn tay nắm tay mình thật chặt

Từng có bàn tay buông tay mình mà đi

Từng có người nói thương mình trọn kiếp

Từng có người bỏ mình đi mà chẳng nói một lời…

.

Chiều cuối năm ra phố

Phố xá thênh thang

Người ta dọn sạch sẽ những đồ vật cũ

hỗn độn cũ

tàn tích cũ

Người ta lên màu sơn mới

treo chùm đèn mới

cắm bình hoa mới

hát một bài hát mới…

.

Năm mới tưng bừng

Giây phút an lành…

.

Sao mình cứ thương hoài cái nắm tay ngày cũ.

Read Full Post »

Tết về . .

.Bùi Thanh Tuấn

Nghe âm vang trong gió

Mùi rơm rạ thơm nồng

Phải chăng là sắp tết

Người có chờ tôi không?

.

Tôi giờ như đứa trẻ

Quẩn quanh bên thềm nhà

Chỉ mong mặc áo mới

Vui tết với người ta!

.

Tôi giờ thơ ngây lắm

Sợ tết này thiếu hoa

Hay là mời em đến

Cho vui cửa vui nhà (?)

.

Tôi giờ mong manh lắm

Như đứa bé lên năm

Vịn câu thơ đứng dậy

Tìm em trong xa xăm

.

Tết này không có pháo

Nhớ em cười giòn tan

Nhớ tôi ngày mới lớn

Đêm mơ tưởng đến nàng

.

Tôi giờ như đứa trẻ

Thèm nghe tiếng dỗ dành

Thèm được ru em ngủ

Bên hiên nhà vắng tênh

.

Thèm được hôn lên tóc

Những sợi mềm cỏ ngoan

Hạnh phúc là khi biết

Mình yêu nhau nồng nàn!

.

Tết năm nay có đến

Xin hãy đến thật gần

Nhỏ nhẹ như dòng suối

Đưa tôi về trăm năm…

……………………….

Bảo Lộc ngày không tên…

Có thể là hình vẽ ngẫu hứng về hoa

Read Full Post »

Bèo nổi mây chìm

     Nguyễn Trí        

Tuấn. Năm mươi lăm tuổi. Một vợ bốn con. Một trai ba gái. Sáu cháu ngoại và ba thằng rể. Trưởng nam của Tuấn tên Hùng, năm nay ba mươi lăm tuổi nhưng chưa vợ. Chả là năm hai mươi, đang sinh viên năm hai, một tương lai đầy tươi sáng… vậy mà Hùng bỏ cửa bỏ nhà đi một mạch những mười lăm năm. Hai mươi cọng mười lăm vị chi ba mươi lăm tuổi Hùng mới trở về ôm mẹ mà Kiều rằng dại rồi con biết khôn làm sao đây.

          Chớ đi đâu mà dữ thần và dại khôn gì ở đây vậy?

         Để nói sơ về Hùng tí xíu. Hồi nhỏ Hùng ú nu như em bé trên hộp sữa Sma. Cu con là nụ cười tươi của bà ngoại Sáu Kỳ. Ông Sáu qua đời nếu không có thằng bụ bẩm Hùng dám bà Sáu chết theo quá. Hùng còn là tài sản quý báu để cả họ nhà Sáu Kỳ đem khoe. Mười hai năm từ cấp một cấp hai cấp ba Hùng có đúng mười hai năm học sinh giỏi toàn diện. Vào đại học nhẹ như sương như khói – vì thế cho nên – cả họ ngoại xem Hùng như tài sản quý để khoe cũng là phải quá. Hùng lại kế thừa nét đẹp trai như tài tử xi nê của ông cha tên Tuấn. Thiệt mà nói, Tuấn không đẹp, không duyên ơi là duyên với nụ cười có cái răng khểnh và thiệt thà như đếm còn lâu mới được là rể nhà Sáu Kỳ. Sáu Kỳ bốn đứa con gái đẹp như Thúy Kiều Thúy Vân. Gã làm thuê tên Tuấn xuất xứ tận miền Trung xa lắc, không đặc biệt dễ mà lọt mắt xanh cô Thúy con gái thứ ba của Sáu Kỳ. Nhà Sáu Kỳ cố cựu miền Đông nên đất đai kha khá. Rể Tuấn được cha vợ cho năm sào rẫy và cắt cho chút đất cất nhà. Tuấn làm bảo vệ cho một trường tiểu học, bà xã Thúy bán ba cái bút chỉ văn phòng, thức ăn vặt và giải khát các loại ở căn-tin trường.

          Gia cảnh nhà Hùng vậy là ngon. Đẹp trai, con nhà không giàu không nghèo học giỏi. Người vậy, nữ thần tình yêu còn đứ đừ nói chi bạn cùng lớp cùng trường. Khổ cái, con ngươi ta chỉ có một trái tim. Trong vô số bóng hồng sa mạc vây quanh Hùng thích đúng một Minh Thùy. Thùy xinh ơi là xinh, cô là mộng mỵ của hầu hết trai đẹp trong cho đến ngoài cổng trường. Năm lớp mười hai Minh Thùy rực rỡ như hoa, trai xếp hàng theo cô cả cây số. Mới lớp chín Hùng và Minh Thùy đã đôi bên cùng liếc đôi lòng cùng ưa. Ở cái thời sống thử, được tới luôn bác tài, không được thì chia tay. Hùng và Minh Thùy khỏi nói ai cũng biết cái sự yêu của trai thanh gái lịch. Minh Thùy không chứ vào được đại học cả hai chung một phòng trọ là có quá. Vậy là đẹp trai lên phố trọ học, xinh gái được bố mẹ tậu một xe nước mía, một tủ thuốc lá trước sân nhà. Quán của xinh gái kề quốc lộ nên nước mía ngọt là một, thuốc lá thơm là hai, nụ cười chủ quán là ba lôi bọn mê nhan sắc đến tỏ lời ong ve. Khi ván chưa đóng thuyền thì không của riêng ai  – Chiến – huấn luyện viên một lò võ nói vậy khi bê một cây si to đùng đặt trước quán nước mía. Chiến Võ – tên thường gọi –  không những đẹp trai còn hùng dũng như Mike-Tyson thời thịnh. Mỗi khi đến quán Minh Thùy anh mặc quần Jean, áo thun ba lỗ để khoe cái gọi là cường tráng.

        Chiến Võ biết Minh Thùy đang cặp kè với Hùng nên can ke Hùng đến thăm tình là có mặt. Chiến hơn Hùng ba tuổi tức hai mươi ba. Tuổi nầy là chúa của tự mãn và hiếu thắng. Võ nghệ đầy mình nên Chiến ra cái vẻ đàn anh:

  • Mới về hả mậy? Học hành sao? – Anh nói đầy ngạo nghễ.
  • Mắc chi mày mà hỏi?

   Với Hùng hơn ba tuổi không là cái nghĩa địa gì nhưng Chiến Võ thì:

  • Mày có học mà mất dạy quá. Mày tao với người lớn là mất dạy nghe em.

      Rõ là Chiến cố tình sĩ nhục Hùng trước mặt Minh Thùy. Chả nói chả rằng Hùng đi một hơi về nhà lòng đầy giận dữ vì ghen. Vào phòng riêng lấy khẩu súng điện nhét vào lưng quần. Khẩu súng nầy Hùng mua từ một bụi đời ở Sài Gòn. Mua vì thích và để chơi chứ Hùng chả có ý chi. Và khi nhét khẩu súng vào lưng quần Hùng cũng chả có ý chi nếu không tình cờ gặp Vàng, Nhứt và Tú, ba thằng bạn không vào nổi cấp ba đang ăn đang chơi quậy quọ ra trò mỗi khi xỉn rượu.

       Bạn bè lâu ngày gặp nhau không vô quán đâu có được. Ba thằng lôi Hùng vào “Mộc Tồn quán” làm cái lẩu cầy. Đang buồn bực Hùng cũng nhấp môi chút chút. Nhấp môi với một kẻ chưa từng rượu cũng là đáng nói. Nghe Hùng chửi thề Tú – từng bị kỷ luật khi cự lại thầy chủ nhiệm – nói:

  • Gì mà chửi thề. Có gì nói tao xử cho.

      Vậy là Hùng kể về một Chiến Võ bố láo bố toét. Tú rằng, võ chơi theo võ tao đếch sợ thằng nào. Nó ở đâu mày dẫn đến tao xử cho. Vàng và Nhứt có ba xi đế vào người trời còn chả sợ lọ chi võ. Vậy là chơi xong một chai ba xị cả bốn lên đường. Ba xị bốn thằng mỗi thằng ba ly xây chừng đủ để ngà. Rượu ngà ngà thì trời là mãnh vung bể. Trên hai chiếc 125 phân khối bốn thằng dừng xe ở quán nước mía Minh Thùy. Nhìn Chiến Võ đang bên cô chủ cười cười nói nói Hùng nóng như hơ. Đẹp trai học giỏi đốp liền chứ sợ à:

  • Hồi nãy mày nói tao mất dạy. Dám nói lại tao kêu mày bằng cha.

   Thấy người yêu hung tợn Minh Thùy vội chạy lại:

  • Thôi mà… bỏ qua đi Hùng ơi.

    Được người yêu ôm eo ếch, chục thằng Hùng cũng xìu nói chi một. Nhưng Tú thì không. Có rượu và thầy chủ nhiệm còn cự – nghe đâu – Tú còn cải lại cha… thì Chiến Võ không là cái đinh rỉ gì:

  • Mày nói lại tao cũng kêu mày bằng cha.

        Nói xong Tú lao đến ra đòn. Nhưng Chiến là huấn luyện viên võ thuật, chỉ hai bước đã ra khỏi quán. Và khi ta có chút nghề đánh với tay ngang nó mới dễ làm sao. Bị một cước vào mặt Tú ngã xuống đường nghe cái bịch và máu mủi tè le. Thấy vậy Vàng và Nhứt nhào vào…  tiếp tục ăn đòn. Khi khổng khi không được thể hiện tài năng trước mắt người đẹp, Chiến Võ cỡi luôn áo thun ba lỗ khoe cơ bắp và sáu múi đẹp ơi là đẹp. Thấy ba thằng bạn ngã ngựa Hùng hất tay người tình rồi vung súng điện. Hai trăm hai mươi vôn thì voi còn ngã nói chi người.

       Cả ba – Tú, Vàng, Nhứt – lợi dụng thời cơ đối phương ngã ngựa lao vào trả đòn. Mày đánh tao sao tao đánh lại y vậy. Hùng cũng ké vài cú đá. Thấy bá quan văn võ người đời đến, cả bốn liền lên xe vù một hơi. Nhưng chạy lên trời cũng bị lôi xuống. Chiến Võ chết vì bị đánh hội đồng.

       Cái chết khởi nguồn từ khẩu súng điện. Bốn trẻ trai chia nhau năm chục năm tù. Hùng hai mươi năm. Ba mươi còn lại cho Tú, Nhứt và Vàng. Nhờ cải tạo tốt nên sau mười lăm năm Hùng về đời nhờ giảm án.

      Đó là lý do Hùng bỏ cửa bỏ nhà đi một mạch mười lăm năm.

                                                                ***

      Hùng về đúng hai mươi tám tết. Một mình. Hành trình cho ngày về là lên xe đò tiếp tục xe buýt và cuối cùng là honda ôm.

       Sao lại một mình?

       Phận tù. Tục rằng “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại”. Mất tự do khổ lắm. Lắm lắm. Thực ra có phần cường điệu khi nói thiên thu tại ngoại. Con người vốn rất dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh sống. Không tự khép mình vào cái khuôn của thì hiện tại là tự sát. Dân chơi có câu “ba năm tù như một giấc ngủ trưa”. Đã là phạm phải xem cõi tù là nhà mới tồn tại. Khi tự do của ta là tường giam thì mọi cái sẽ dần quen. Quen đến độ không ít những con người xem cõi tù là nhà. Hết án về đời lại tiếp tục gây án để vào tù bởi – họ nói – đời chán bỏ mẹ, ủ tờ vui hơn. Hùng sau sáu tháng tạm giam rồi ra tòa. Nơi thụ án cũng bằng nhau với tạm giam. Cũng chừng đó sáng trưa chiều tối ăn ngủ lao động. Trại giam cũng có tivi để giải trí. Có báo để đọc. Lễ lạc tết nhất cũng có ca vũ nhạc kịch. Có cả nghệ sĩ nổi tiếng đến vui chơi cùng phạm… muốn sao nữa bây giờ. Không quen mà được sao?

        Phận tù tội đau khổ là thật nhưng đâu có khổ đau bằng thân nhân của họ. Hãy nhìn ông cha tên Tuấn và bà má tên Thúy của Hùng là biết ngay đau khổ là gì. Hùng ôm án lúc Tuấn bốn mươi và bà xã ba mươi tám. Hai vợ chồng ba cô con gái và cả họ nhà Sáu kỳ không thể tin Hùng phạm tội giết người. Xót xa biết bao nhiêu khi cục vàng của họ bị hai mươi năm tù. Còn quá trẻ và vì đâu mà bèo nỗi mây chìm thế nầy con ơi anh ơi cháu của cậu của dì của bà ơi…

        Tục truyền rằng cõi tù là cõi lớn hiếp bé, ma cũ nạt ma mới. Nghe mấy thằng từng ủ tờ kể bà má tên Thúy lo lắng đến tóp má. Mẹ mà. Ai chả lòng dạ bao la như biển thái bình. Lúc Hùng còn tạm giam má Thúy tuần nào cũng tay xách nách mang thăm nuôi thằng con tội nghiệp. Tội lắm kẻ lỡ lầm một chút mà ôm hận nghìn thu. Nghe nói tạm giam cha ăn hiếp tạm giam con nên, trừ thăm nuôi má Thúy còn gặp riêng cán bộ trại để gửi gấm.

        Hết tạm giam đến tù. Từ nơi cư ngụ Tuấn phải vượt năm trăm cây số đi thăm con. Lúc đầu còn xe đò sau đó honda ôm đưa đến trại. Về sau Tuấn tậu luôn mô tô  cho dễ dàng trong thế cơ động. Muốn gửi gấm nhờ vả phải đến tận nhà cán bộ. Phải thăm dò ai chủ trì phòng con trai mình đang thụ án. Phải gặp vợ của quan anh nhờ nói giúp một tiếng. Anh nói thằng Hùng em tao thì chẳng tù nào dám hiếp. Để anh nói được ba từ “nó em tao” đâu thể bằng miệng mà phải xòe bàn tay đếm ngón tay.

        Sinh viên như Hùng mà lội ruộng, làm vườn, cuốc đất trồng khoai tội lắm. Ở nhà ăn học nào có biết lao động là gì. Lại phải tìm gặp sếp cao nhất để thằng lầm lỡ có một công việc an nhàn. Lại xòe bàn tay đếm ngón tay. Nhưng xòe và đếm lâu nhất là những ngày lễ lạt. Nhờ anh giúp cho cháu nó giảm được ngày nào hay ngày đó. Mỗi năm Tuấn cùng bà xã thân chinh bốn bận vào những ngày lễ lớn và tết nhất thì thu nhập cả một năm coi như xong. Nếu không có cái căn-tin của trường học nơi Tuấn là bảo vệ, chắc chắn Hùng không bao giờ được chân sai vặt trong nhà bếp của trại giam. Rất may cho vợ chồng Tuấn-Thúy – ngôi trường – nơi hai vợ chồng ăn nên làm ra nhờ kiếm bạc lẻ của học sinh tiểu học. Chỉ năm trăm bạc lẻ từ một học sinh của ngôi trường bốn mươi lớp, mỗi lớp ba mươi nhóc thì ngày Tuấn Thúy kiếm triệu là ít. Cũng ngôi trường nầy Hùng hết tiểu học. Hùng được thầy yêu bạn mến bởi ngoan ngoãn và học giỏi. Hùng đã đem vinh dự về cho trường khi quán quân học sinh giỏi toàn diện cấp huyện. Nhờ thành tích nầy mà vợ chồng Tuấn Thúy vẫn bình như vại ở căn-tin. Cô bác bảo rằng gặp người khác thì đừng hòng khi con cái là kẻ giết người.

       Mỗi năm thăm nuôi bốn lần. Chừng đó lần được gặp cha má cũng là một hạnh phúc cho Hùng. Đã biết thích nghi với cõi tù thì phải biết hạnh phúc ở quanh ta chứ chả tìm đâu cho nhọc. Có khi cả họ nhà Sáu Kỳ lên xe bảy chỗ theo 175 phân khối của Tuấn đi thăm thằng cháu tội nghiệp. Quy định của trại giam mỗi lần thăm chỉ một – tối đa – hai người. Muốn chín người phải liên hệ trước qua điện thoại. Và phải xòe bàn tay đếm ngón tay mới thông.

        Đối với cả họ nhà Sáu Kỳ, trước và sau khi Sáu Kỳ qua đời cũng vậy, tiền bạc không là gì. Hùng xé được hai cuốn lịch thì khu vực và đất đai nhà Sáu Kỳ vào quy hoạch làm cao tốc. Cả họ Sáu Kỳ lấy tiền đền bù xây nhà cao cửa rộng trên tái định cư. Tuấn và Thúy cũng chả thua bởi bố vợ khi còn sống cho Tuấn năm sào rẫy và lô đất cất nhà. Thăm nuôi Hùng một năm chục lần còn được lọ chi bốn.

       Vậy mà Hùng về đời sau mười lăm năm chỉ một mình nghĩa là làm sao?

        Số là. Ừ, số là…

                                                             ***

       Số là… biết nói sao nhỉ? Mỗi năm đi thăm con trai bốn kỳ, trại giam như nhà, cán bộ trại chả khác chi bằng hữu, chuyện giảm án ra làm sao vợ chồng Tuấn Thúy không thể không biết. Khi thời gian thụ án của Hùng bước qua năm thứ mười, mười một rồi mười hai… Tuấn mơ ngày con trai về nhà đến cháy bỏng ruột gan. Thời gian lúc nầy trôi đi thật sự chậm với đôi vợ chồng tội nghiệp. Đêm đêm vắt tay lên trán, nghĩ đến thằng con đang âm thầm trong bóng tối của tường giam Tuấn – ngay cả yêu – để giải phóng bản năng còn không muốn. Xòe bàn tay đếm ngón tay và tình thương mến thương vung ra một thời gian dài nên, ở năm thứ mười lăm Tuấn Thúy hy vọng con trai sẽ giã biệt trại giam. Tuấn nghe phó giám đốc trại bảo kỹ luật, lao động và ý thức tốt như Hùng có thể sẽ được về vào một trong nhưng ngày lễ lớn của năm. Nhưng rồi ba mươi tháng tư qua đi, hai tháng chín qua luôn… niềm hy vọng vào ân xá của tết tươi cũng qua đi. Thôi thì chờ năm tới vậy.

       Vậy thì lý do gì Hùng có mặt ở nhà vào hai mươi tám tết?

       Số là… sau một năm ở trại. Nhờ cha má xòe bàn tay đếm ngón tay gửi gấm nên Hùng được vào phụ việc trong nhà bếp. Giàu thủ kho no nhà bếp nên ai thiếu thốn chi kệ, riêng Hùng có da có thịt bởi hơi của dầu mỡ. Gần nhà bếp là căn-tin và trạm xá của trại. Hùng ghé trạm xá và phát giác ra cô y tá trạm đang ôn để thi đại học. Chả là đã hai lần ứng thí mà chả ra cái ôn gì. Là em của giám đốc trại, chỉ ăn và học mà cứ mãi sôi cơm nhưng chửa chín thì đâu có được. Nhớ chữ, Hùng liền thao thao  tám thể mười hai thì, thế nào là chủ động hay bị động trong anh ngữ. Hùng còn nói tiếng anh lưu loát như một ông mỹ con. Toán học hả? Chỉ cần nhìn cái đề ôn thi đại học Hùng đã cho cô y tá biết rằng tù cũng có anh giỏi tận trời. Về nhà cô  méc với anh trai rằng có một tù nhân…

        Ông giám đốc – tội nghiệp quá hoàn cảnh – vợ mất trong một tai nạn. Ông ở vậy nuôi một trai một gái. Trai mười ba tuổi đang lớp tám, con gái kế lớp sáu. Ông phải triệu em gái vào thay mẹ chăm con. Thêm bước nữa ư? Làm sao được khi con cái mới chừng này tuổi. Nhà của giám đốc kề bên trại, cách khu dân cư có ngôi trường con ông đang theo học những ba cây số. Sáng chúng học ở trường, chiều thêm với các thầy cô giáo. Đứa nào cũng giỏi toàn diện nhưng giám đốc biết chúng giỏi bởi ông là giám. Bằng chứng là khi  kiểm tra thằng lớn muốn nhân một đơn thức và một đa thức nó ngơ ra như bò đội nón. Con em còn tệ hơn.

      Vậy là ông giám bèn vời thằng tù về nhà kèm cho cả cô cả cháu cái sự học. Mỗi đêm mà thông qua lớp sáu lớp bảy đến luyện thi đại học thì gã tù tên Hùng quá xá giỏi đa nghe.  Ngon lành nhất là năm ấy cô y tá đỗ đại học. Cô khăn gói lên thành chen chân cùng đô hội. Tù Hùng vẫn đêm đêm ghé nhà ông giám kèm cho đôi trẻ. Thằng anh vào đại học con em cũng vào theo. Đó là những năm tháng đẹp nhất đời Hùng. Nếu không có vụ kèm cặp chắc Hùng tự sát bởi ngộ ra mình dại. Một năm sau ngày thụ án, Minh Thùy của Hùng lấy chồng. Đời mà. Yêu anh em cũng có yêu nhưng chờ thì sao được khi hai chục năm chứ  ngày bữa gì hả anh? Đời chả có cái dại nào giống cái dại nào, nhưng dại nhất chắc chắn là dại gái.

        Hùng nhận ra cô bé lớp mười hai tên Thùy Trâm – cô học trò mà tù Hùng kèm cặp – yêu mình. Tù Hùng hơn Thùy Trâm mười một tuổi. Năm cô mười tám Hùng đã ba mươi. Một số người trên trần gian này bóng thời gian không đi qua họ. Có nhưng rất chậm. Hùng là một. Cả ngày trong bếp với cá mú thịt thà và hơi dầu mỡ lại, kế thừa nét đẹp trai tài tử của cha nên, tù thì tù vẫn cứ phong trai. Gái tham tài trai tham sắc. Hùng quá tài nên Trâm yêu cũng phải thôi. Nhưng Hùng biết mình là ai. Biết lắm. Tù chớ có vọng động bá láp. Mất chỗ đội nón như chơi con ạ.

        Trâm đẹp như á hậu nên trai thanh lịch con nhà theo cô cả tiểu đội. Cha cô là giám đốc, nhà cô cao rộng chả thua ai. Phố phường vui và cái xô bồ của nó hút con người vào với lực nam châm của tam giác quỷ Bermuda. Trâm cũng bị cái guồng của hiện đại hút vào. Năm Hùng lớp mười, cha Tuấn đã tậu cho con máy tính bàn để học. Khoảng cách từ lúc ấy cho đến khi Trâm lên phố thì văn minh internet hiện đại gấp trăm lần. Trai đẹp theo cô ong ve ma mị quỷ sứ đến ghê hồn. Cô bị cái gọi là mê tình bám theo quyến rũ. Vậy là đơn phương trong lòng Trâm sụp đỗ. Cô cũng cặp một anh để cô đơn tan đi.

          Yêu nhau và hẹn ra trường mình cưới nhau em nhé. Trâm ừ –  và – phải chi cô như bạn bè, sống thử trước hôn nhân thì hay quá. Cưới xong cô mới nhận ra mình sai lầm. Chồng. Người mà cô ngộ nhận là yêu, ngay cả yêu anh chỉ biết cho anh. Xong cuộc anh lăn ra khò khò miệng mồm há hốc. Những lúc ấy Thùy Trâm da diết nhớ ông thầy dạy kèm tên Hùng. Một ngày nọ chồng đưa Trâm về thăm cha. Trong lúc cha và chồng chén tạc chén thù. Cha mừng vì sắp có cháu ngoại. Chồng bô lô ba la chuyện làm ăn thì Trâm lẻn vào trại giam thăm thầy. Tù Hùng hỏi:

  • Trâm khỏe không? Hạnh phúc chớ hả?
  • Khỏe thì có nhưng hạnh phúc thì không.
  • Sao vậy?

       Đó rồi cô tựa đầu vai thầy mà khóc. Sau đó vợ chồng Trâm ly thân. Đàn bà khi không yêu họ trơ như đá đàn ông nào chịu được. Huy – chồng Trâm – chân nam đá chân chiêu tâm sự với cha vợ khi con trai đà năm tuổi:

  • Ba hỏi sao ly thân hả? Vợ con không yêu con ba ơi. Cô ấy yêu người khác.
  • Người khác? Ai?
  • Thằng Hùng. Cái thằng tù mà ba nhờ kèm cặp cái vụ học hành đó.

       Để cứu vãn nhân duyên của con cái không ra tòa ly dị. Ông giám đốc với uy quyền sẵn có ký lệnh cho Hùng về trước tết như một đặc ân. Ông nghĩ xa mặt cách lòng. Năm trăm cây số từ trại đến nhà của Hùng thì xa quá là xa.

     Đó là lý do Hùng về vào hai mươi tám tết và chỉ một mình.

                                                                       *** 

      Chả ai có thể hình dung ra niềm vui phải nói là bất tận với cả họ nhà Sáu Kỳ. May mà bà Sáu đã cưỡi hạc chứ sống đến ngày thằng cháu về chắc chết vì sướng. Lòng Hùng cũng vậy. Khi bắt lại được tự do tâm tư con người ta ứ lại vô số nỗi niềm không thể nói bằng lời. May mà hai mươi tám tết nên sau thăm hỏi, láng giềng cũng như anh em họ mạc rút êm để lo cho tết tươi. Ba cô em gái của Hùng – sau mười lăm năm – cũng đã nên bà như ca dao dạy trai ba mươi tuổi đang xoan gái ba mươi tuổi đã toan về già.

        Còn lại Hùng và hai ông bà già. Ôm lấy bà má tội nghiệp Hùng bảo rằng con xin lỗi, con dại quá… dại rồi con biết khôn làm sao hả má? Mười lăm năm tù mà dại rồi không biết khôn làm sao thì biết ai dại biết ai khôn.

       Tuấn nói với con trai:

  • Cuộc sống là một quá trình làm sai và sửa sai. Sai thì sửa. Mười lăm năm tù  cay đắng và đoạn trường lắm nhưng dù sao, đến lúc nầy, mày vẫn đang trên chân mình mà bước. Vẫn đang ngửa mặt hít thở khí trời và tận hưởng tự do. Trong khi đó thằng Chiến mục rửa trong bóng tối của áo quan. Sai lầm của mày tuy đắt nhưng không đắt bằng thằng Chiến.
  • Con hiểu rồi.
  • Ngày mai hãy đi với tao đến nhà thằng Chiến xin lỗi cha má nó. Mười lăm năm chờ đợi của tao và má mày tuy mỏi mòn nhưng, không bằng sự mất mát của ba má thằng Chiến. Hiểu không?
  • Dạ hiểu.

    Hùng đăm chiêu:

  • Không biết anh em nhà Chiến sẽ ra sao khi con đến.
  • Không sao cả. Kinh thánh dạy “Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện để lấy áo trong của anh hãy để  nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, hãy cho, ai vay mượn, đừng ngoảnh mặt đi”. Nhẫn là trên hết.

      Hai mươi chín tết hai cha con đến nhà cha mẹ của kẻ qua đời khi còn rất trẻ là Chiến Võ. Ừ… hai ông bà già và bầy em của Chiến thôi thì chuyện cũ rồi ta cho qua. Sự chân thành của Hùng đã khiến hận oán mười lăm năm qua đi. Chân thành là gì? Là thật với chính mình. Gã tù về đời tên Hùng không còn gì trừ thật với chính mình.

        Về. Ngang qua nhà Minh Thùy ông Tuấn dừng xe:

  • Thăm con Thùy một lát.
  • Thôi ba ơi… chuyện quá cũ rồi. Ai có phận nấy.
  • Phải gặp thôi. Gặp để biết bèo nổi mây chìm vì đâu…

     Minh Thùy hai con. Một trai một gái nhưng không đề huề bởi vợ chồng đường ai nấy đi. Hai con mà không ở được nghĩa là làm sao? Ngộ nhận – nghĩa là – hiểu sai hay nhận thức sai. Sai lầm trong tình yêu đã khiến Minh Thùy trả giá. Nhưng ngộ nhận nầy bắt nguồn từ xốc nổi của Hùng mà ra. Cũng rất chân thành Hùng xin lỗi tình xưa. Con trai Minh Thùy đã mười ba, con gái mười một, cô đủ già để:

  • Cuộc sống là một quá trình làm sai và sửa sai phải không anh? Sai lầm lớn nhất chúng ta mắc phải trong cuộc sống là luôn sợ sai lầm – Elbert Hubhard- đã nói vậy. Vui đi anh. Vui để đối mặt với thử thách và chiến thắng nó mà không mắc phải sai lầm. Và ngay cả khi mắc sai lầm vẫn có thể sửa chữa để thay đổi.

       Hùng nhắm mắt nhìn trời.

                                                 Nguyễn Trí

Read Full Post »

Chiều xuân nhớ mẹ

Trần Hà Yên

Mẹ ơi!

Ruộng mùa này mẹ cấy có được không?

Vụ đông xuân nước vẫn mênh mông quá

Bàn tay cha đã bao lần gieo sạ

Mưa trắng trời… hạt thóc nước cuốn trôi

.

Ở nơi xa nghe đài báo thế thôi

Xót lòng con vì miền trung mưa gió

Xuân sắp về mà đông như còn đó

Vẫn dãi dề… con nước trắng bao la

.

Đường vào nhà những năm trước đầy hoa

Mẹ trồng rau mướt xanh khi tết đến

Đàn em thơ vui trên sân trìu mến

Nay xa rồi…cảnh ấy chẳng còn đâu!

.

Vẫn áo nâu nắng mưa đã bạc màu

Mẹ dãi dầu nơi đồng xa ngập nước

Thương cánh cò lội đồng sau bãi trước

Bước chân gầy… ngày tháng vẫn bôn ba

.

Chiều xuân nay

Con nhớ mẹ nơi xa!

Read Full Post »

Ngày cuối năm

Trần Thi Ca

.

ngày cuối năm

đường phố rục rịch gọn gàng

người đi hướng về năm mới

sớm mai đương cũ lạnh gầy

.

nhắc mong sum vầy quê xa…

đã có hoa xuân chưng sớm

đã có tường vôi trắng tinh

đã có chọn ngày gói bánh

đã có gặp thành kết năm.

.

ai đương mưu sinh xa nhà

ai đương buồn đêm tuyết trắng

ai đương tuổi đời thấm mệt

giữ lòng nôn nao cuối năm.

.

chạy về bến sông tuổi thơ

chạy về cánh đồng hương lúa

chạy về ngôi nhà bình yên

chạy về ngọn đồi nắng chớm…

.

cuối năm vui buồn khép lại

cuối năm kim đời thanh âm

hạnh phúc đến bằng san sẻ

THỜI GIAN sóng sánh THỜI GIAN.

Read Full Post »

Elena Pucillo Truong

Về giây phút đầu của buổi chiều hôm đó mẹ chỉ nhớ là mình căng mắt nhìn ra bốn hướng và trái tim đập lên loạn xạ. Mẹ tìm con, cố tìm mái tóc dợn sóng của con nổi lên trên tà áo trắng. Mẹ mong nhìn thấy ánh mắt vui mừng của con, hồn nhiên như những bé gái lên mười.

Từ văn phòng về trễ,  mẹ cầm túi thức ăn có một ít trái cây, bánh mì và  mấy hộp sữa cho bữa điểm tâm. Tuy mệt nhọc leo lên cầu thang nhưng mẹ vẫn chuẩn bị sẵn nụ cười để che giấu sự nhọc nhằn sau một ngày buồn bã và nhàm chán. Một nụ cười dành cho con, để con khỏi cảm thấy cái gánh nặng của cuộc  đời buồn bã, con thì thiếu một người cha còn mẹ cũng không có người đàn ông trong mái ấm. Mỗi ngày chúng ta đều sống như một sự thách thức, để tiếp tục, nhưng niềm vui luôn  có trong đôi mắt, một sự đồng loã phát sinh giữa mẹ và con.

          Niềm vui cuối ngày của mẹ là được nhìn thấy con ngồi đợi ở bậc thang trước thềm nhà, miệng ngậm cây bút chì, tay cầm quyển  tập hay có một trang sách mở rộng trên đầu gối; vài sợi tóc lòe xòe trên trán và khuôn mặt rạng rỡ, sống động như chú ngựa con trên thảm cỏ.

Mẹ hổn hển vì leo đến cuối cầu thang. Nhưng không có con ngồi đợi mẹ.

          Run rẩy. Mẹ không mở được cửa! Mẹ bỏ túi thức ăn xuống sàn nhà, mẹ bấm chuông các nhà lân cận. Gọi điện đến trường…

Tất cả đều vô ích.

          Sao lại thế này? con đã biến mất?

          Mẹ lao xuống đường, hỏi tin con ở các cửa hàng thân quen, đến đồn công an, và một nhân viên an ninh khuyên mẹ gọi điện đến bệnh viện trong vùng.

Không kết quả.

          Mãi đến khuya mẹ mới trở về nhà, tuyệt vọng. Trong đêm mẹ không sao ngủ được, mẹ nằm, cửa để mở, hy vọng được nghe bước chân con bước lên cầu thang. Một đêm kinh hoàng, mẹ lục lọi khắp nơi trong nhà xem con có để tờ giấy nhắn nhủ gì không, tìm một vài dấu hiệu mơ hồ nào đó để có thể dắt mẹ  tìm đến bên con. Nhưng hoàn toàn vô vọng.

Đến lúc đó  thì những hồi tưởng từ đâu quay về trong đầu mẹ: buổi sáng trong lúc chải tóc mẹ nghe con khe khẽ hát, con lẩm nhẩm bài thơ, bài học lịch sử hay địa lý gì đó để học thuộc lòng. Rồi sau đó con kể chuyện về bạn bè hay cô giáo. Con, mãi mãi và chỉ con thôi. Con là cuộc đời của mẹ nhưng mẹ không biết con đang ở đâu.

          Sau những tìm kiếm vô ích và vô vọng, mẹ bỗng dưng cảm thấy mình có lỗi. Đáng lý ra mẹ phải đến đón con ở trường và mọi việc đã không thể xảy ra. Những đứa bạn nói rằng đã cùng con leo lên xe buýt, con đã xuống ở trạm dừng gần nhà, con bước đi trên vỉa hè và vẫy tay chào các bạn. Tất cả như mọi lần. Chỉ vài chục mét, đến cửa hàng bách hóa, quẹo trái là con về đến nhà. Ai cũng nói không, nhưng mẹ vẫn cảm thấy mình có lỗi vì có lẽ mẹ đã phải làm một điều gì đó, dù không thể. Mẹ phải làm việc. Mẹ phải cố gắng kiếm tiền để con không thiếu một thứ gì.

            Sau cảm giác tội lỗi thì mẹ bắt đầu có biểu hiện vô cảm. Đi quanh quẩn trong phòng mà chẳng biết thời gian đã trôi qua, ngồi xuống bàn ăn và liên tục nhìn bức hình con trên tờ báo. Mẹ đọc lại tên con, vài chi tiết như chiều cao,  áo quần đang mặc. Mẹ đã ghim tờ thông báo đó lên tủ buffet để bất cứ lúc nào mẹ cũng có thể nhìn thấy.

Mẹ tìm mọi cách để che giấu sự vắng mặt của con trong trái tim mình, và ngày qua ngày, mẹ vẫn tiếp tục chuyện trò với con, như thể con vẫn còn đây, tưởng tượng về những câu chuyện không hề hiện hữu. Vài tháng sau mẹ im, không còn nói nữa. Cuộc đối thoại chỉ có trong đầu mẹ  và mẹ âm thầm bước đi trong các căn phòng, ve vuốt các vật dụng của con, xếp lại hàng trăm lần chiếc áo của con.  

          Mẹ đã trở thành cái bóng của chính mình. Mẹ không ăn. Buổi sáng thức giấc gập mình trên chiếc bàn, nơi mà giấc ngủ đã cho mẹ tạm dừng sự tuyệt vọng.

          Con đang ở đâu? Ở đâu?  Tại vì sao mà con đã không về?

                                                          &&&

          Mẹ yêu ơi, mẹ cứ liên tục hỏi là con đang ở đâu?

          Chắc không xa mẹ lắm đâu, con ở đây,  dưới chân cầu, có lẽ cách mẹ chừng vài kilomét.

          Bọn họ đã ném xác con ngay trong đêm mà con không trở về nhà.

          Con vừa xuống xe buýt và vẫy tay chào bạn bè. Chỉ vài bước là con đến trước cửa hàng tạp hóa. Ông chủ tiệm dường như đang đợi con….

          Con chưa biết phải làm gì thì bị một bàn tay đưa lên bịt miệng, rồi ông chủ kéo con vào phía sau tiệm. Con nghe tiếng đóng cửa và ngay lúc đó con nhìn thấy có mấy người đàn ông như bầy sói đang thở dốc.

  • Xõa tóc ra, mầy sẽ lớn như một cô gái …

Con chẳng hiểu gì cả nhưng linh tính cho hay mình đang là một con thú đang sập bẫy. Hai mắt mở to vì kinh hãi, nước mắt chảy ròng cùng tiếng kêu lạc giọng.

  • Mẹ ơi, mẹ ơi !

Sau đó thì người ta đánh đập con, rồi ép sát người con vào thân hình nhớp nhúa của họ. Hơi thở sặc mùi rượu, họ không chút động lòng trước tiếng khóc tuyệt vọng của con. Họ giữ con bất động. Rồi một cơn đau nhói chạy khắp người con. Con như ngạt thở. Nấc nghẹn theo từng cú ép đẩy của bọn người khốn nạn. Đớn đau lẫn tủi nhục mà trước đó đầu óc non nớt của con chưa  thể nào tưởng tượng.

            Sau đó thì mọi việc chấm dứt. Con không còn là gì, giống như một nùi giẻ để vứt đi. Họ chẳng chút xót thương. Đối với họ con chỉ là một thứ đồ vật, để thõa mãn, dùng xong rồi bỏ. Rồi trong bóng đêm, họ ném xác con xuống dòng sông.

          Giờ thì con ở đây. Nằm giữa những rác rưởi trôi trên sông và những rễ cành lẫn rong rêu đã giữ con lại. Thân xác con chẳng còn lại gì. Chiếc áo trắng đến trường không còn nữa, và giữa những đám rong, những đàn cá bơi lội xuyên qua mái tóc con, còn lũ côn trùng thì nhún nhảy. Đôi mắt của con giờ chỉ là hai lỗ hổng nằm trong hộp sọ, chó dại và chuột nhắt đã ăn mất từ lâu.

          Con rất tiếc đã không thể báo tin sớm cho mẹ về những gì đã xảy ra! Con đã không trốn mẹ, nhưng chính những gã đàn ông mà mẹ nhìn thấy mỗi ngày, họ nhìn mẹ với cái nhìn thương hại, rồi khi mẹ đi qua, họ đưa mắt đồng lõa nhìn nhau như nhắc nhở về những giây phút điên cuồng  khi con lọt vào cạm bẫy.

          Mẹ yêu ơi, con và mẹ có chung một cuộc đời…Người này chỉ sống cho người kia. Thế mà bây giờ bọn khốn nạn đã chia rẽ chúng ta. Con hy vọng là sẽ có một ai đó sẽ tìm thấy thi thể của con. Để chôn cất. Và lúc ấy mẹ sẽ điên lên. Dửng dưng với hết thảy mọi việc xung quanh. Nhưng mẹ sẽ không còn buồn khổ nữa trong sự đợi chờ vô vọng.

                           (Trương Văn Dân dịch từ nguyên tác tiếng Ý : l’attesa)

Read Full Post »

Tết này em có lạnh không?

Nguyên Hùng

Tết này em có lạnh không

Hai mươi năm vẫn mùa đông xứ người

Tuyết rơi phủ trắng đất trời

Gốc quê còn nhựa bật chồi xanh non?

     

Tiệc xuân chẳng thiếu thức ngon

Dưa cà xứ Nghệ mặn giòn có chăng

Nhớ chăng những lát cá măng

Những khoanh cá thửng cháy vàng tuổi thơ?

   

Em giờ nửa tỉnh nửa mơ

Khi mong biển đến, lúc chờ thu sang

Nhớ thương lệ ngấn hai hàng

Ướt năm dòng kẻ mênh mang nỗi niềm

    

Thương em ngày lẫn vào đêm

Thương mình từng cũng lấm lem đất người

Bảy mùa đi dưới tuyết rơi

Đủ cho ta nhớ một thời xa quê.

Read Full Post »

Vạn thọ

Nguyễn Đức Hiển

.

Tháng chạp rồi. Giờ này của 30 năm về trước, đi hái rau heo về ngang xóm rẫy đã thấy chơm chớm vạn thọ trổ những búp tròn như cúc áo. Tới 20 tháng chạp thì người ta bắt đầu nhổ bán. Cái màu vàng của tết quê nghèo thời đó, nhà ai cũng chưng vạn thọ. Sắc hoa tết khiến mọi nhà giàu nghèo đều bình đẳng. Giàu thì chưng từ ngõ vào sân, nghèo thì đôi chậu trước nhà và hai bên bàn thờ. Giàu, thì chơi từ trước tết 10 ngày, nghèo thì trưa 30 tết ra chợ mua hoa ế, vẫn đẹp y vậy.

Vạn thọ, đôi khi tôi nghĩ nó còn là cầu nối hai thế giới, của người sống và của ông bà khuất mặt. Nó được chưng ở nhà lẫn ngoài mộ.

Quê, vạn thọ được trồng ngoài rẫy. Đôi khi là bên những bìa rẫy nho, rẫy bắp. Có những đứa trẻ nghèo được cha mẹ chúng bày trồng vài luống, gần tết nhổ bán kiếm tiền mua áo mới và còn mấy đồng chơi bầu cua tôm cá.

Nhớ ngày còn bé, từ những xóm rẫy vùng cát, xe ngựa chở những mùa vạn thọ về phố rồi lại chở mấy món đồ chợ tết từ phố về quê. Những bụi vạn thọ vàng chanh như màu nắng non, lại có những bụi màu vàng lúa chín, quê mùa mà ấm áp. Nhiều nhà không có hoa mai, bởi nó đắt và không phải bao giờ cũng chọn được cành mai nhiều nụ, nhưng vạn thọ thì nhà ai cũng có, làng quê nào cũng có.

Những năm học đại học, chiều cuối năm đầy gió, ra sau ký túc xá Bình Triệu, cả một vườn mai sắp nở vẫn chưa thấy tết, nhưng rồi ra quán cà phê bên sông ngồi, một cái xà lan chạy qua, trên đó là mấy cặp vạn thọ vàng, chợt nhớ quê nhớ tết đến nao lòng.

Vạn thọ dễ sống, cứ nhổ nguyên bụi về rồi cho vào xô, cho cát vào và tưới nước thì nó tươi màu đến qua tết. Ngày xưa nghèo đến độ xoong cũ, xô nứt cũng thành bình thành chậu chưng vạn thọ, chỉ là dán phủ giấy màu bên ngoài. Để hai chậu vạn thọ hai bên bàn thờ và thắp nhang, màu vạn thọ và mùi nhang là đủ tết. Bàn thờ tết ở quê chỉ nải chuối và vài gói bánh cốm giã tay bọc giấy hồng giấy đỏ mà sao gợi hết sức. Nó tết còn hơn gì.

Có một đêm giao thừa xa quê trên penhouse nhà bạn. Vợ nó đi Mỹ ăn tết với con, có một mình y cũng tha đủ thứ hoa về nhà. Tiền bày biện cái bàn thờ nhà nó chắc cũng đủ vài chục hộ nghèo ăn cả cái tết. Nó mở chai rượu đắt tiền, hai thằng ngồi, uống nhiều mà cứ thấy sao sao. Chiều hôm sau nó lại rủ qua nhà uống rượu và ăn tết quê. Mấy chậu lan đã được cắm vào bình để chỗ khác, hai bên là hai chậu vạn thọ. Đốt tí nhang trầm, cắt miếng giò, nó nói hôm qua nghĩ mãi không biết thiếu gì, ra là thiếu hoa vạn thọ. Rượu đế và vạn thọ mới là tết mày ạ.

Thì ra, ngay với dân làm ăn như nó, ngày tết xa quê cũng bị níu kéo về ngày xưa với ký ức nghèo khó. Và vạn thọ quả là có sức dẫn dụ mãnh liệt.

Có đâu vài năm, tự nhiên vạn thọ ít hẳn, rồi đôi năm lại đây lại ngập tràn, vàng ấm hân hoan đón xuân về. Sẽ có kẻ đa cảm gồng lên ăn tết tha hương để chiều cuối năm gục ngã trước sắc vàng vạn thọ ven đường mà hối hả tìm mua chiếc vé cuối về quê cho kịp tết; sẽ có kẻ vì lý do nào đó mà xa nhà để chiều ba mươi ngồi nhấp ngụm rượu rồi nhìn màu hoa mà nghe vị đắng ly hương. Khi đó, trong một giây, sẽ thấy có những phút lòng yếu đuối đến độ dám từ bỏ thị thành vì màu vàng vạn thọ; sẽ thấy sự thiệt thòi đến cùng tận khi có tất cả mà không có quê để trở về.

Nhưng muốn được khóc cười với vạn thọ như vậy, bạn phải là dân miền Trung, dân xóm rẫy.

Hai năm trước, nhà đã đầy hoa, chiều 29 mình lại chở về một xe đầy vạn thọ. Chỉ là trên lề đường Phan Văn Hớn có một cậu trai loay hoay với nguyên một dải vỉa hè và những chậu vạn thọ sắp ngay hàng thẳng lối, năn nỉ: Anh Hai mua cho em có tết.

Nó lấy tiền thưởng tết mua một xe hoa chở từ Cái Mơn lên mà không bán được. Cho thêm ít tiền bảo mai mà không bán được thì kêu anh ra phụ bán với mày, tao nhẹ vía. Trưa 30 thấy nó alo nói anh ơi em về quê đây, em bán hết trơn rồi, em tính mua biếu anh cặp bưởi mà không biết nhà anh đâu. Bèn nói chờ tí, đừng mua bưởi. Ghé ra cho nó mấy hộp quà mình được tặng. Nó nói vầy tết này em bảnh rồi anh.

Vạn thọ cứ gợi cho mình nghĩ lan man những chuyện ngày xưa. Màu hoa là màu của sum vầy, của ngày tết, màu hoa vạn thọ buổi giao mùa đưa ta về ký ức. Mà không hiểu vì sao cái cây hoa chu kỳ sống có hai tháng rưỡi lại có tên là vạn thọ? Phải chăng mỗi mùa hoa là thêm một cái tết, người già thêm tuổi nên người xưa muốn đếm tuổi bằng những mùa vàng dân dã ấy?

Tất cả cảm xúc:

Read Full Post »

Kẻ lang thang

Leonid Leonov

Dịch giả Tiết Hùng Thái



KẺ LANG THANG
 (1928)

Leonid Maximovich Leonov Sinh ngày 31 tháng năm 1899 mất 8 tháng 8 1994, là nhà văn Nga nổi tiếng,  tác giả Trộm cắp (1927), Rừng Nga (1953) Kim tự tháp (1994)…Được coi là kế tục Dostoievsky ở thế kỷ 20 với chất vắn xuôi đầy suy tư trăn trở

 Trà giống như mùi cỏ mục, đường có vị dầu hỏa. Sađaép dằn mạnh chén trà uống dở xuống bàn, và lơ đãng nghe tiếng ồn ào huyên náo trong quán trọ. Thường trong những phiên chợ ngày chủ nhật cứ vào khoảng giữa trưa là sự sôi động lại tăng lên nhưng Sađaep được vây bọc bởi im lặng hoàn toàn. Anh đột ngột đứng dậy, giơ hai tay ra phía trước, bước về phía cửa sau quán rượu. Coi trọng danh tiếng không chê vào đâu được của quán mình còn hơn con mắt độc nhất của lão, lão chủ quán vội bước theo Sađaep nhưng lão đã nghi ngờ vô ích.

Trong bóng tối mờ mờ màu lục của sân sau, với những vệt sáng lọt qua những kẽ nứt, người khách trọ đang đóng yên con lừa cái của anh ta. Con lừa cái có bộ lông thẳng mượt cố níu lại khi bị kéo ra khỏi máng ăn đầy tú hụ, nhưng người khách trọ không tức giận, thậm chí không hề để ý. Tuy vậy, anh ta cúi xuống nhặt một mẩu vỏ bánh mì bị ai đó ném trên rơm bẩn. Anh ta chăm chú nhìn nó một hồi lâu rồi mới bỏ nó và túi du lịch. Thấy lạ vì hành vi bí ẩn của Sađaep, người chủ quán bước ra khỏi chỗ nấp. Sađaep trở nên luống cuống.

“Mấy con chó sẽ sung sướng thấy cái này” anh ta khẽ nói về mẩu bánh mì.

“Thế ai sẽ sung sướng được thấy anh?” lão chủ quán trả lời nheo nheo đôi mắt tinh quái cười đểu và bước vào trong quán.

Sađaep đánh lừa ra khỏi sân.

Trưa tháng Tư tràn ngập tiếng chiền chiện líu lo. Những vũng nước nhỏ lấp lánh ánh nắng, khắp nơi rầm rì những âm thanh vô nghĩa. Một cảm giác nhẹ nhõm êm dịu gần như say sưa thấm vào lòng người; nhưng với Sađaep mùa muân này, mùa xuân thứ bốn lăm của đời anh, có cái vẻ quá quắt của một thiên nhiên đang phát điên. Lấy từ trong ngực áo ra lá thư của vợ, một lá thư mà vì nó anh đã rời bỏ huyện lỵ sớm cưỡng lại mọi tiếng nói của lương tri, một lần nữa anh cố lần dò theo những dòng chữ nguệch ngoạc chất đầy lo âu của nó. “Chồng yêu quý của em” anh đọc chủ yếu bằng trí nhớ, “Em héo hon gầy mòn xơ xác vì buồn khổ… Chồng yêu quý của em, ngày nào em cũng khóc… Chồng yêu quý của em, em không biết phải làm sao cho qua ngày giờ… Chồng yêu quý của em, chúng ta…”  Những từ ngữ khôn khéo lao xao trong gió và quất vào Sađaep bằng tiếng cười vui vẻ độc ác. Với một sức mạnh như thế anh quất con lừa bằng ngọn roi và con vật thở phì phì một cách khốn khổ trên con đường mòn chán ngắt. 

Cả đời anh, anh toàn gặp vận may khiến người đời phải ganh tỵ. Trong cái năm trước khi anh được gọi nhập ngũ, anh đã cưới Katêrinka, một cô gái lúc nào cũng vui cười; cái vui vẻ trẻ trung của Katêrinka không hề giảm đi khi về ngôi nhà cổ lỗ kẽo kẹt của anh, nơi mà mỗi mùa xuân chim sáo không ngừng hót líu lo bên cửa sổ. Mặc dầu có mọi thứ để chinh phục cuộc sống, Sađaep chỉ thiếu mỗi khả năng cười; nhưng ngay cả sự bất công ấy của tạo hóa cũng mang đến thuận lợi cho anh: người ta sợ anh. Chiến tranh đã chừa cái thân anh, một thân thể cao ráo đỏ đắn trông như một cây thông đứng thẳng trên nền trời hoàng hôn, anh trở về nguyên lành, chỉ bị xây xát nhỏ. Nhưng bỗng nhiên những bất hạnh vụn vặt tầm thường như những con chuột nhắt, bắt đầu gậm nhấm anh. Anh vật lộn với nó suốt năm, tức điên lên, nhưng lũ nó cứ xông vào gặm cái gia tài có tiếng của anh. Vào những ngày tạm hưu chiến, anh cay đắng nhìn lại bản thân mà không sao tìm ra đâu là nguyên nhân khiến anh khánh kiệt. Chỉ đến lúc này, rơi vào sự trừng phạt cuối cùng của số phận, anh mới nhớ lại một cuộc phiêu lưu ở ngoài mặt trận ..và mặc dầu một người mujich thì không xấu hổ về bất kỳ tội lỗi nào được bọc trong áo lính, hồi tưởng này thiêu đốt và cắn rứt anh tận tâm can, không cách nào dứt bỏ được nó.

Vào lúc chiến tranh tạm lắng trung đoàn vô danh của anh kiệt quệ dưới ánh mặt trời phương nam. Ở đó Sađaep lấy một phụ nữ Mônđavi, một người nông dân giống như anh. Cô ấy cũng dịu dàng như Katêrinka của anh, và thật lạ, cô cũng mang cái tên ấy. Cô ta ốm o héo hắt vì mong nhớ chồng đang mòn mỏi trong tù. Cô ta là món hấp dẫn đối với sức lực miền Bắc tràn trề không ngơi nghỉ của Sađaep. Suốt ngày đêm anh ở trong ngôi nhà nhỏ dưới rặng keo của cô, anh ăn gà của cô uống rượu của cô và thường xuyên tán về cái duyên ngầm của cô gái Mônđavi bé nhỏ này với đám bạn. Tình yêu Mônđavi của cô mang lại cho anh niềm vui tạm bợ. Sađaep rời bỏ cô mà không hề tiếc nuối, và những dòng nước mắt của người thiếu phụ đã che không cho cô thấy rằng, cùng với hạnh phúc ngắn ngủi của cô, anh ta mang theo về phương bắc chiếc máy khâu của cô mà anh mê thích trong những giờ phút âu yếm của hai người. Sađaep vẫn không thể nào quên trong mười bảy ngày khắc nghiệt ấy anh đã di chuyển trên tàu hỏa như thế nào, trong giấc ngủ lơ mơ của người bệnh thương hàn, vẫn kẹp chặt lấy vật báu ăn trộm được giữa hai đầu gối. Đối với anh, nó trở nên thân thiết hơn bánh mì hay cuộc sống, bởi vì anh đang mang nó về làm quà cho Katêrinka miền bắc của anh, người mà anh quyết định coi là nền tảng của cái hạnh phúc đẹp như mơ của anh. Nhưng vào một buổi tối, lúc trâu bò về chuồng, anh bước vào đến cổng nhà anh, đói khát và nhễ nhại mồ hôi, lắc lư dưới sức nặng của món quà yêu dấu, thì Katêrinka bắt đầu khóc. Sađaep dừng lại, bằng đôi mắt mờ đục anh nhìn người đàn bà đang khóc, và bộ râu của anh biến thành lửa, như thể anh đang mang trong người dòng máu của ai khác từ chiến tranh về.

Bệnh tật và sự thức tỉnh trước cuộc sống đã mang lại cho anh những kho báu lạ lùng, mà từ trước đến nay vẫn ở bên ngoài lối sống nhạt nhẽo của anh. Anh nhìn với đôi mắt phù thủy mọi thứ xung quanh anh, và, bằng một cách không-mujich, anh mê thích ngắm nhìn mọi thứ, từ  con muỗi đang bay đến cái cây đang mọc; tuy nhiên, người mujich trong anh đã chiến thắng con người. Suốt mùa đông anh làm việc cật lực để khôi phục lại cái trại đã đổ nát, dọn dẹp vườn tược và dựng nhiều tổ sáo đá trước nhà, như cố tìm cách nhử hạnh phúc vào trong ngôi nhà tường đã mọc rêu. Nhưng lũ sáo đá không bao giờ đến ở, những cây táo bị sâu, và tính vui cười của Katêrinka bay đi cùng với tuyết. Rồi anh lo lắng chờ đợi những đứa con, nhưng cho dù đã có lần anh mơ thấy có đàn con lúc nhúc, rốt cuộc vẫn không có đứa con nào. Katêrinka thường chạy sang chơi các nhà hàng xóm, trông nàng có lẽ còn già hơn cả bà mẹ nàng. Nhưng một hôm nàng từ nơi đánh đống cỏ khô trở về trông rạng rỡ và trẻ trung; nàng lặng im buồn bã ngồi bên cửa sổ cả buổi tối. Ban đêm khi trâu bò gia súc trong nhà ngủ cả, Katêrinka bắt đầu cười trong mơ. Từ trên nóc lò sưởi bước xuống, Sađaep sa sầm mặt đứng quan sát nàng; được chiếu sáng bởi ánh trăng rọi qua khe cửa, nàng đang quằn quại lật mình trên giường. Dù cho Sađaep săm soi đến đâu qua khe hở nhìn vào bí mật của Katêrinka, đêm ấy anh cũng không tìm thấy điều gì. Xung quanh tất cả đều vắng lặng, thậm chí không có lấy một cơn gió nhẹ bên ngoài cửa sổ.

Hết mưa thì đến nắng, và nụ cười đã mất trở lại ngôi nhà. Một mình với những ý nghĩ riêng tư, Katêrinka hát những bài hát cũ của các cô gái trẻ, và mặc dầu nàng không giữ được giọng ca đến cuối bài, chồng nàng cũng hứng chí ở mỗi chỗ nàng chuyển tông. Niềm vui lại tràn ngập căn nhà kẽo kẹt này, chim véo von hót trên cây, như thể chúng được mua về để hót. Sađaep ngủ ngon lành như ngọn núi, được gió ru, và chỉ với bức thư cuối cùng này của vợ, dấu vết của một hạnh phúc khác mới đánh thức anh khỏi trạng thái lờ đờ nặng nề. Bỏ dở công việc trên thị trấn huyện lỵ liên quan đến một món nợ, anh quay về nhà, giống như về một nấm mồ không tránh khỏi.

Người chủ quán đã báo trước sự thật, ngay cả những con chó cũng chạy biến đi hết. Không có ai chào hỏi người chủ. Buộc lừa vào hàng rào, Sađaep chăm chú nhìn vào các lỗ cửa sổ gọi mãi không thấy ai trả lời. Một trụ băng dưới mái hiên nhỏ những giọt buồn bã, Sađaep giận dữ quất nó bằng roi da, và tiếp tục đợi, nhưng vợ anh không có đó. Rồi một thằng bé đang bơi thuyền trên mặt ao tan băng kêu lên với anh rằng Katêrinka đang ở khu định cư mới với Seryogia. Sađaep đóng cửa chớp lại và nhìn quanh: con lừa cái nhà hàng xóm đi tìm đực, đang cọ mình vào một thân cây, và hai bà già bên giếng nước trân trân nhìn anh với nỗi bối rối của anh.

Thế rồi, mình mặc chiếc caftan và cầm theo chiếc roi, Sađaep lên đường đến khu định cư mới, và một lần nữa hai bàn tay anh lại giơ ra phía trước, như thể sẵn sàng làm điều gì thật độc ác.

Khi đi qua khu đất nhà thờ, anh cố tìm trong Seryogia đức tính gì đã cám dỗ được Katêrinka phản bội anh. Hắn là một kẻ chơi bời phóng đãng, mơ tái cơ cấu nền kinh tế mujich để cho những quả táo bằng vàng có thể mọc ra từ một mảnh vườn chung. Vì sự phi lý đó hắn đã bị trừng phạt bằng lao động trong ủy ban hành chính huyện. Hắn sống cùng với người anh góa vợ, hai anh em chăng dây đồng lên các cột khắp xung quanh nhà. Những buổi tối mùa đông, bọn thanh niên thường tụ tập ở đó dán mắt nhìn và gật gù kính nể chiếc máy thu thanh tự tạo khi Seryogia lắng nghe những chuyện chưa ai từng nghe…Gần đến nơi, Sađaep nhếch mép cười khẩy và nghiêng nghiêng đầu nhìn ráng chiều tà đang nhuộm đỏ các lùm cây. Các bà già chen chúc trước cổng. Khi đi qua trước mặt Sađaep, ánh nhìn thù hằn trong con mắt họ còn đe dọa dữ dằn hơn cả chiếc roi da Sađaep cầm trong tay. Không có ai trong số họ dám theo chân anh vào trong bóng tối dày đặc phía trong cổng.

Đầu tiên trong tầm mắt của Sađaep chỉ có những vành tím tròn xoay nhún nhảy, nhưng trái tim anh đã đánh hơi thấy sự có mặt tội lỗi của Katerrinka. Sự im lặng không báo trước điều gì tốt lành, và anh nghi ngờ đổi từ chân nọ sang chân kia, không hoàn toàn cả quyết đi ngay vào bất hạnh của người khác. Nhưng điềm báo của anh quả không sai: từ sáng sớm, Seriogia bị một thân cây đổ rơi trúng, và bây giờ nằm trên một chiếc ghế dài giữa túp lều, hắn đang hấp hối. Gương mặt vàng khè của hắn trên chiếc gối bóng lên trong suốt, như có một ánh nến rọi vào. Hắn nằm bất động nhưng trong cơ thể vẫn có những dòng chảy li ti hối hả, và môi hắn hé ra thành một nụ cười khát khao đau đớn. Để làm dịu đi cơn đau của hắn, người ta đã đặt dưới tai hắn chiếc máy thu thanh nhỏ, và chỉ mình nó là còn vẻ sống động với một lóe sáng lạnh lẽo trong bóng tối của căn lều. Sađaep trông thấy vợ. Quỳ sát bên hắn, Katêrinka thương xót nhìn đăm đắm khuôn mặt người yêu và lặp lại từng cử động của hắn như thể chính nàng đang nghe thấy điều đã làm cho Seryogia  nở nụ cười cuối cùng.

Cuộc gặp gỡ lạ thường này đã tiếp diễn từ sáng sớm, và ngay cả Sađaep cũng không dám làm cho nó gián đoạn. Anh ho, và Katêrinka ngẩng lên nhìn quanh. Một làn gió lướt qua trên khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nàng, nàng hình như không nhận thấy chiếc roi da trong tay chồng. Nóng rực lên vì hơi ấm bàn tay nắm chặt của Sađaep, ngọn roi quằn quại cựa quậy, và phải cố gắng Sađaep mới kìm lại được chuyển động tàn độc của nó. Đôi mắt cụp xuống, Sađaep bước đến đầu giường kẻ tình địch của mình không bị gì cản lại.

“Thế nào, tao thấy mày không còn chạy rông như chó dái được nữa rồi thì phải?” Anh hỏi một cách cay đắng, mở lượng tha thứ cho kẻ không còn cần đến nó nữa. Seryogia cựa quậy, và với cánh tay run rẩy, bị cào tướp, hắn kéo mảnh chăn da cừu lên che đôi chân bị dập nát.

“Lạnh hả? Trong khi mày còn sống thì mọi thứ đều lạnh giá; nó sẽ trở nên ấm áp khi mày qua thế giới bên kia” Sađaep nói thêm một cách lạnh lùng và trịnh trọng, và – ngạc nhiên bởi cái sức mạnh nó khiến anh điềm tĩnh đến thế – anh giúp Seryogia kéo tấm chăn lên.

“Xin anh đừng nói chết chóc làm anh ấy sợ, anh ấy đã khốn khổ lắm rồi” Katêrinka thốt lên, một luồng hơi ớn lạnh phả ra từ mặt nàng khiến Sađaep im tiếng, rồi không hề sợ hãi, nàng đau đớn ép chặt thân nàng vào cái xác còn chưa được khóc thương đúng mức, như thể chỉ có nàng ở đó một mình với hắn.

Seryogia thì hình như đang ngủ, chiếc radio rơi khỏi má hắn. Sađaep lén nhặt nó lên và áp nó vào tai mình. Một âm thanh trống rỗng ngèn nghẹt vang lên, và phải gắng hết sức tập trung toàn bộ tâm trí anh mới có thể phân biệt được tiếng kèn co than thở, nó lượn vòng, kéo dài và  uyển chuyển giống như những tiếng thở dài. Tiếng nhạc đến với anh từ nơi xa xăm và bí mật, như thể vượt qua hàng trăm cánh cửa đóng kín; nhưng trong đó vẫn lộ rõ bí mật của Katêrinka, rõ ràng hơn trong cái đêm bão tố ấy nhiều. Như một phản xạ mê tín, anh giật tay ra và liếc vội xung quanh: không có ai đang nhìn anh, và một lần nữa, toát cả mồ hôi và đỏ bừng cả người, anh lại lén lút nghe cái thế giới đầy quyến rũ và kinh khủng của Seryogia. Bản nhạc thay đổi, và một giọng người rì rầm bóng gió, tra tấn Sađaep về chuyện những đứa con mà dù cầu nguyện bao nhiêu đi nữa, số phận vẫn không chịu ban cho anh. Nó tra tấn anh về chuyện những con ngưạ, niềm đam mê xưa cũ và không thể  nào bỏ được của anh, chỉ nghĩ đến nó là mặt anh lạnh buốt. Nó tra tấn anh về mọi thứ thân thiết nhất với một người đàn ông sống trên đời. Lắc đầu như thể né tránh cảnh hạnh phúc gần gũi mê hồn, anh lao ra khỏi căn lều. Ra đến cổng, anh va phải ông bác sĩ mà người anh của Seryogia mời đến. Đến tận khuya, các bà già mới đưa Katerrinka về nhà và để nàng đứng lại trước cửa. Từ trên bếp lò Sađaep trông thấy hai tay nàng quờ quạng trong đau đớn, nàng nặng nề lần vào đến giường. Lòng đầy u uất vì yêu và hận thù, Sađaep trèo xuống khỏi lò sưởi và đến ngồi bên nàng.

Trong nỗi sợ đã chai lỳ, nàng sửa soạn để sẵn sàng chịu trận, Katêrinka nhìn chằm chằm vào gương mặt méo xẹo vì giận dữ của chồng. Lúc này, gần như không dám thở, anh nghiêng xuống và ôm lấy vai nàng.

“Em bé bỏng, tội nghiệp của tôi” anh thầm thì, hết sức khổ sở vì không tìm được lời nào âu yếm dịu dàng hơn.

Nàng chậm rãi lết vào góc, nhưng khi mớ râu dài đỏ quạch của anh vừa quết vào má nàng, nàng giật phắt ra khỏi anh và gào to lên như thể bị bỏng. Bị giáng đòn bất ngờ vì tiếng thét của Katêrinka, Sađaep bối rối đi đi lại lại ở khoảng giữa căn nhà, và, thêm một lần nữa hòn than hồng của lòng khoan dung vẫn ủ lâu trong lòng chưa dùng đến lại rực lên  trong anh. Anh run rẩy bước tới lò sưởi. Vì suốt ngày qua nó chưa được đốt lên, nên lúc này nó lạnh giá và cái giá lạnh thấm vào những hình ảnh tưởng tượng thưa thớt và hoang dại của anh trong giấc ngủ mơ màng. Trong những giâc mơ khủng khiếp ấy có hình ảnh cô gái Mônđavi. Nàng đang vẫy tay ra hiệu chào biệt Sađaep và từ những bàn tay của nàng  thoát ra những âm thanh quyến rũ. Vào lúc trời sắp sắng, trong căn nhà nhỏ không khí rất ẩm ướt. Những bông tuyết tệ hại bắt đầu rơi bên ngoài cửa sổ. Katêrinka đã đi rồi. Sađaep ngồi trên ghế dài, nghe tiếng gì đó rền rĩ dưới lòng đất, rồi anh bước ra vườn, nhưng ở ngoài đó còn khó chịu hơn, nên anh lại vào nhà. Đúng lúc đó, ông chủ tịch Sôrôkin bước vào, mang theo tờ thông báo xử phạt về khoản nợ mà anh chưa chịu trả.

Lùn tịt và huênh hoang như một con chồn hôi, lão mujich này chưa bao giờ được Sađaep ưa. Lúc nào cũng thấy lão hối hả đi đâu đó và hổn hà hổn hển, như thể đang thi hành một nhiệm vụ độc ác nào đó. Lão đặt bản thông báo lên bàn trước mặt Sađaep và ra lệnh cho anh ký vào.

“Tôi chỉ biết đọc chữ in, nhưng không biết viết” Sađaep nói đơn giản.

“Cứ đánh dấu X vào đây coi như anh đã đọc, rồi ngày mai chúng tôi sẽ điền vào” Sôrôkin nói bằng giọng cáu kỉnh.

Hai đôi mắt gặp nhau, và cả hai quay đi như thể người này bắt gặp người kia đang nói dối.

“Tôi đang gặp rắc rối, ông Sôrôkin ạ” chủ nhà thú nhận giọng mờ đục “Thằng Seryogia đã mò vào giường nhà tôi”

“Thế thì có gì lạ?” ông khách lạnh lùng trả lời, thậm chí chẳng thèm đưa đẩy câu chuyện nóng bỏng này bằng một lời bịa đặt tầm phào nhất.

“Katêrinka là vợ tôi… tôi đã  ăn ở với cô ấy mười một năm nay!” Sađaep hét lên, không hiểu sao tự đập vào cổ mình; khi làm thế, bộ râu của anh bắt đầu phừng phừng lên như một bụi cây khô bén lửa.

“Vậy thì sao?” vị khách trả lời, thậm chí còn thờ ơ hơn khi gã vuốt lại cho thẳng các mép quăn của tờ thông báo.

“Tôi yêu cô ấy…” Sađaep cẩn thận nhả ra từng chữ, bằng đủ cách cố làm mủi lòng tay quan liêu này.

Sôrôkin đứng dậy.

“Anh đang nói gì thế, bất hạnh à! Anh gặp vận may thì có. Tay Seryogia chết sáng nay rồi. Bây giờ mọi việc đều ổn” Lão nói với nét mặt độc ác và chán ngấy. Vừa quay đi lão vừa dùng mấy đầu ngón tay gõ lên bậu cửa sổ như gõ trống.

Sađaep ngồi cúi gằm xuống tờ thông báo; tờ giấy sột soạt nhè nhẹ theo hơi thở của anh. Vào cái lúc anh biết tin Seriogia chết, một niềm hân hoan mãnh liệt bùng nổ trong anh, nhưng ngay lập tức anh hình dung ra điều gì sẽ đến – trước hết Katêrinka bị nỗi đau đớn hạ gục, và điều ấy phần nào làm giảm bớt nỗi căm ghét và ghen tuông của anh. Trong trí tưởng tượng bấn loạn của anh, bản thông báo to dần lên, to bằng cả mặt bàn, và cứ to lên mãi; nó giận dữ dựng đứng lên, nó xông vào đánh và bóp cổ anh…Tuân theo một sức mạnh cưỡng bức kỳ lạ, Sađaep vội vã vò nhàu tờ giấy, và bất ngờ bỏ tọt nó vào mồm và chậm rãi nhai cái món ăn bắt buộc và phát ớn này ngay trước mặt ông chủ tích mặt tái nhợt. Rồi sau khi đã nuốt, anh đưa cặp mắt trống rỗng ngó nhìn Sôrôkin, lão ta lúc này trông cực kỳ bé nhỏ.

“Anh sẽ phải trả lời chuyện này” ông khách nói sau một lúc bối rối. Lão lúng túng một lúc lâu cài các cúc áo khoác và đội mũ lên đầu, như thể nấn ná chờ sự hối lỗi cho sự nhục mạ vừa rồi.

“Ông tưởng ông ghê gớm, nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn” anh nói với theo lão ta.

Sau khi Sôrôkin đi khỏi, Sađaep lôi chiếc túi ra và bắt đầu chuẩn bị để lên đường. Trong khi chuẩn bị, anh làm vỡ một chiếc đĩa sứ, và mặc dầu không hề vội vàng, anh cũng không thu dọn các mảnh vỡ. Mặc quần áo xong, anh bước qua mảnh sân ra ngoài đường. Chẳng có gì níu giữ anh ở lại cái ngôi mồ của tình thương bị phản bội này. Hơi ấm của mặt trời bao bọc lấy con người buồn nản ra đi, nhưng dù không có nó thì anh cũng không cảm thấy lạnh lẽo, vì cơn điên giận vẫn còn đang ngùn ngụt trong người anh. Anh dừng lại trước cổng vườn huýt gió gọi mấy con chó đang ngồi bên giếng nước. Chúng vẫy đuôi và vặn vẹo mình một cách khó chịu, nhưng vẫn ngồi. Anh gọi tên chúng, bực bội vỗ mạnh đầu gối, nhưng một con chó quay lưng lại phía anh, còn con kia làm bộ như đang chăm chú nhìn một con rệp bò trên một thân cây mới đốn. Sađaep bỏ đi thẳng.

Đầu tiên anh hướng tới nhà bà chị góa chồng ở huyện bên và xin vào ở nhờ như một người làm công. Chị anh, tóc cũng đỏ quạch như tất cả dòng họ Sađaep, tóc đỏ và dáng vóc cóc cáy vì nghèo túng, gắt ầm ĩ một hồi, nhưng gắt mắng xong lại mang đến cho anh một bát xúp và chỉ cho anh một chỗ nằm chung với bầy con gày guộc của chị. Anh qua một tháng vô gia cư đầu tiên ở đây, cày đất và cầu nguyện ông Chúa mujich của anh giải thoát cho anh khỏi vô vàn những âu lo vô ích. Nhưng rồi một tờ trát đến, gọi anh ra tòa, và Sađaep biến đi phương nào không rõ.

Bây giờ những con đường mở ra trước mặt anh, và anh đến Parôsyatnhikavơ đúng vào mùa cắt cỏ. Siêng năng cần mẫn trong cương vị mới, anh hoàn toàn vừa lòng với đồng tiền công còm cõi mà chủ thí cho. Nhưng rồi một hôm anh vừa ra đến đồng cỏ đang phát cỏ như những người khác thì một người thư ký lù lù hiện ra với một tờ giấy đòi Sađaep. Công việc đang bộn bề giữa mùa thời tiết tuyệt đẹp, nên không có ai để áp giải kẻ tội phạm. Do đó người ta cho con bé Aksiusha mười tuổi đi hộ tống anh năm dặm lên hầu tòa. Lần đầu tiên trong đời, Sađaep bắt đầu cười, anh nắm lấy tay con bé và thẳng hướng lên đường.

Họ ra đi lúc trời còn sương. Gần trưa, một đám mây hồng rực rỡ bồng bềnh trên bầu trời xanh thẳm bỗng chuyển thành cơn giận dữ không sao tả nổi ầm oàng và trải dài mãi ra. Sađaep và Aksiusha  chỉ còn kịp chạy vội đến trú dưới một cây thông trong một cái trảng trước khi cơn mưa như trút đổ xuống những cánh đồng khô bụi. Con bé sợ sấm chớp, nó ép chặt người vào thân cây và run rẩy, nhưng nó không lúc nào buông tay Sađaep ra.  Rồi, lấy thân người che cho Aksiusha  khỏi làn nước, anh bắt đầu kể cho nó nghe những câu chuyện mà mẹ anh đã từng kể cho anh để quãng đời thơ ấu buồn thảm của anh sáng sủa lên đôi chút. Anh kể về những con quỷ lông lá và ngu ngốc gây ra những mối bất hòa, những mụ phù thủy và những nhà thông thái chột mắt, và trong số những con  ma vô hại mà người ta đã nhẵn mặt, chính Ilya là kẻ nắm giữ sấm sét trong tay như nắm giữ những con chim ưng. Sađaep chưa bao giờ kể như thế này cho ai, giọng anh đan xen với tiếng răng rắc trong rừng, và ý nghĩa của câu chuyện anh kể khớp với tiếng sấm và câu chuyện kể hung dữ của cơn dông tố. Aksiusha chăm chú nghe câu chuyện hoang dại của Sađaep hơn là những tiếng gầm khủng khiếp từ những đám mây dông. 

Rồi mặt trời lại bắt đầu trải lên cánh đồng một dải lụa rộng màu xanh biếc, chạm đến cả đôi chân trần của Aksiusha. Mưa ngừng rơi, những giọt còn đọng trên các cành và bay trong không khí long lanh; trong đám cỏ dưới chân họ một con châu chấu không sợ bị người ta dẫm lên, bắt đầu vui vẻ cất tiếng…và chỉ còn ở nơi rất xa, dưới cầu vồng, một cái bụng tối tăm và chưa được thỏa mãn vẫn còn sôi ùng ục.

“Thế nào, chúng ta đi chứ?” Con bé ranh mãnh liếc nhìn anh từ một bên và, nhớ lại lời khuyên răn vui đùa của những người lớn, với đầy tinh thần trách nhiệm, nó kéo tay Sađaep lên đường. Suốt quãng đường lên đến huyện lỵ, anh không trao đổi với con bé – kẻ áp giải không thể mua chuộc của anh – thêm một lời nào nữa, như thể mối nguy hiểm của cơn dông vừa qua không hề làm hai người xích lại gần nhau chút nào.

   Trước rạng đông anh trốn khỏi nhà giam huyện, và một tuần sau anh làm việc như một người gác rừng.

Các vùng miền nam đang trở thành đồi trọc cả, vì trong lãnh thổ của Sađaep dưới mỗi cây đều có một tên lâm tặc. Bọn lâm tặc này hung dữ ghê gớm trong việc bảo vệ cái quyền cướp rừng của chúng. Chúng tóm cổ người tiền nhiệm của Sađaep, thọc một cái sào qua các ống tay áo của anh ta, và tống anh ta đi lang thang ngang dọc khắp khu rừng. Khu rừng này vốn là một khu rừng rậm, hoang, từ thời xưa đã mang tiếng dữ vì những lời đồn đại rằng đến mùa thu, những hòn đá trong rừng thì ca hát, và những cây thông thì chạy từ chỗ này sang chỗ khác. Không có ai sống trong rừng, nên Sađaep nhận lấy chỗ trống. Sađaep đã làm cho người ta sợ vì bộ dạng quái đản của anh. Những kẻ ăn cắp vặt chắc sẽ không có việc làm và con cái chúng không có gì để ăn nếu không có chuyện xảy ra là một buổi tối khi anh đang ngồi chân trần bên một con mương ngắm nhìn lũ cung quăng bơi lượn trong nước, thì một bụi rậm rẽ ra và từ đó bước ra một anh dân quân mặc đồng phục mang theo một tờ lệnh bắt Sađaep. Sađaep cười và đi vào trong trạm gác để đi giày. Khi người dân quân nóng ruột đi theo anh vào, thì thấy trong trạm gác không có ai ngoài một con cú mà Sađaep đã thương hại mang từ trong rừng về hôm trước. Con cú đứng trên bàn và nhìn trừng trừng vị đại diện nhà nước, anh ta chùn lại choáng váng vì sự xúc phạm này. Sađaep đã tan biến trong bóng tối của rừng sâu.

Đây, đêm đầu tiên của cuộc đời lang thang của anh trôi qua trên một chồng gỗ. Đánh thức anh dậy là một con gián chui vào lỗ mũi nở rộng của anh. Một con chim lao như tên bắn trong không trung, và một loại chim gõ kiến đầu đỏ đã chán gõ vào thân cây, đang chăm chú quan sát vị khách mới đến. Sađaep nhớ lại sự việc ngày hôm trước và phá ra cười những con người kỳ cục cứ viết mãi về tội lỗi của anh mà không biết chán. Nhưng tội lỗi vốn thích kéo bè kéo cánh. Ngoài cái tội liên quan đến món nợ chưa trả, và ăn một cách trái phép tờ thông báo, nay lại thêm tội không chịu trình diện trước tòa án; và khi đã bỏ chạy và lẩn trốn như thế này, thì rõ ràng anh đã vĩnh viễn tự tách mình ra khỏi thế giới. Thế là kẻ lang thang ra đời.

Anh ta không còn  ở nơi nào nhất định, mà liên tục di chuyển. Anh cứ đi, và người ta cứ viết. Không ai quan tâm đến bản thân Sađaep, người ta chỉ quan tâm đến những tội lỗi của anh. Lâu lâu, chán với cảnh trơ trọi một mình một bóng vô cồng rồi nghề, anh kiếm một công việc; mùa hè thì chăn cừu, mùa đông thì làm một chân bưu tá trong huyện, mùa xuân anh đóng bè gỗ, và mùa thu tôi gặp anh trên sông nơi tôi đi tìm thứ cỏ diệu kỳ của tuổi thơ mà tôi không biết tên. Có lẽ tôi cũng bị cám dỗ bởi tiếng đập nước kỳ thú. Từ ngọn đồi nhỏ đi xuống, tôi gặp Sađaep; khi anh ta gắng sức làm điều gì trông anh ta như một người phù thủy. Anh đang nằm trên bè gỗ một tay giữ một khúc gỗ và tay kia cầm chiếc môi gỗ hình thù kỳ dị, lâu lâu lại đập chúng xuống nước. Nửa giờ sau khi chúng tôi đã thăm dò đủ về nhau và anh đã tin rằng tôi không có ý định thi hành pháp luật đối với anh, trong lúc mổ mẻ cá mới câu được, anh cười giải thích với tôi cách anh tìm bắt cá trê. Trong những ngày yên lặng, tiếng đập nước của anh vang đi rất xa. Lũ cá trê tò mò về loại tiếng động này kéo nhau đến gần, và giống như chịu một hình phạt về tội tò mò, chúng kéo nhau vào nằm trong nồi xúp của Sađaep.

Chúng tôi ngồi bên đống lửa. Trên bờ sông dốc đứng che phủ bởi những cây anh đào, cây dương tươi tốt, mùa hè đỏ ối buồn bã đang ở vào đoạn cuối cùng tàn tạ của nó. Khói làm  cay mắt tôi, và chả biết cái gì cứ bắt tôi phải liên tục ném cành cây khô vào lửa. Trong cuộc trò chuyện cực kỳ kiệm lời, Sađaep không nói một lời nào về người đàn bà Mônđavi của anh, nhưng tôi thấy dường như anh luôn nghĩ về chị ta, và một ngày nào đó, trang trọng và hiền lành, anh bước vào sân nhà chị trong khi chồng chị đang điên cuồng chửi bới một con lợn. Anh đứng đó một lúc, khiến người chồng cảnh giác chú ý, rồi anh bỏ đi mãi mãi. Tuy nhiên Sađaep không hề xác nhận những hình ảnh phỏng đoán ấy của tôi.

“Một năm nữa, tôi sẽ thành quỷ hoàn toàn, một con quỷ thật sự!” người lang thang nói một cách nặng nhọc, và tôi có cảm tưởng anh đã là thế rồi – hiện thân của một thành kiến mọc sừng. “Một con quỷ, thật đấy! Cậu có thể bước đi xuyên qua người nó, còn nó chỉ cười…”

Nồi cá đã chín, nhưng chỉ có một chiếc thìa. Tôi lên đường, tuy chưa tìm thấy lá cỏ của mình. Ngày trở nên mờ tối, cây cối trông buồn bã, con đường tím ngát màu hoa tử đinh hương, và các cánh đồng đầm đìa ướt. Tôi thấy dường như tôi không nghi ngờ gì về chuyện tôi sẽ gặp một người cưỡi ngựa phóng ngang qua tôi, tay giơ cao tờ giấy về Sađaep, trong đó chỉ thị khâu bó anh ta vào một chiếc chiếu và gửi anh về huyện để thẩm vấn. Lúc đó, tôi hầu như tin vào cái truyền thuyết của người mujich về một con gấu, rằng trước mắt kẻ chứng kiến, gần mép rừng, nó đi ra, cúi chào cái cây mà nó đã sống trong đó cả đời, rồi cứ thế đi mãi vào rừng sâu âm u không bao giờ quay trở lại.

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »