Tản văn: Nguyễn Thị Việt Hà

Cũng như một cái ôm vậy, trong ký ức, sự quen thuộc và hoài niệm của món ăn thấm đẫm sự chăm chút của những người thân quen làm ấm lòng, xoa dịu cả những ngày khó khăn đang trải qua.
Hai mươi năm về trước, buổi đó vừa qua một cơn dông, Cái Bát tựa như một hòn đảo nhỏ xung quanh bốn bề là nước, lau sậy mịt mù. Từng đám ruộng không còn bờ ranh, lúa ngoi mãnh liệt trên mặt mùa nước nổi. Cậu của tôi xách giỏ, cầm đèn pin đi theo tiếng ếch nhái gọi nhau ở những đám ruộng xem xép nước để tìm bắt.
Đêm mùa mưa năm đó, gió hất từng cơn lạnh lẽo, lòng tôi trống trải hơn cánh đồng. Những giấc mơ tuổi trẻ tan vỡ như ánh lân tinh bắn lên mặt nước mỗi lần con cá nhảy. Cậu tôi nhanh tay chộp từng cặp ếch nhái mập ú bỏ vào giỏ. Tôi đi theo vụng về cũng bắt hơn chục con, chủ yếu là nhái. Chừng hơi hai tiếng, nhắm chừng giỏ đã nằng nặng, hai cậu cháu trở về nhà. Chừa một ít rộng trong lu, còn lại, cậu làm sạch và nấu cháo ngay trong đêm. Tôi cầm đèn pin đi ra bên hông nhà, nhổ vài củ nghệ, cắt mấy bụi hẹ, bẻ thêm hai ba trái ớt hiểm. Cậu làm nhái, tôi bắc xoong vo gạo nấu trên bếp lửa cháy bập bùng. Thịt nhái làm sạch, sấy mỡ tỏi đổ vô xào chung với nghệ tươi đâm nhuyễn vắt lấy nước, bỏ thêm vài lát nghệ vô đảo cho thơm. Khi gạo nở bung như bông mai trắng bay là đà thì cho thịt nhái vô, nêm nếm thêm, chừng năm phút thì cho hẹ, tiêu, ớt rồi bắc xuống bếp.
Nhà cậu tôi bên bến sông, một nửa trên bờ, một nửa bắc sàn lãn leo ra mé sông. Cháo nhái ăn mùa mưa, mà phải ăn ngay giữa đồng, giữa sông mới thấm. Tô cháo nóng hổi, ăn tới đâu ngon run người tới đó. Thịt nhái ngọt, cháo hoa bùi, tiêu thơm, ớt cay, mùi của nghệ, của hẹ không trộn vào nhau mà như lần lượt thẩm thấu vào vòm miệng người ăn. “Ăn đi con, thịt thà cá mú ở đâu cũng không ngon hơn chén cháo này. Đừng tủi hờn gì nữa, nghèo mà vui…”. Tôi im lặng, hít một hơi dài, nuốt thật sâu nỗi cô đơn của một tuổi trẻ tẻ nhạt vào lòng. Chén cháo nhái, ngon như chưa bao giờ ngon hơn thế!
Tôi mê đắm những bữa ăn nơi cửa biển Cái Đôi, xóm tôi vào độ cuối năm hay chung tay làm một bữa tất niên tập thể. Chọn một ngôi nhà rộng rãi nào đó, ai có gì thì hùn đó, không quy định món trước: Người mang đến con gà, con vịt; có người xách lủng lẳng mớ cá biển, có người đem tới mớ cá đồng, rau củ đủ loại; và, tất nhiên không thể quên góp vào vài chai rượu cho người lớn, nước ngọt cho tụi nhỏ. Nhà nào sẵn món gì thì đem đến món ấy, không ai đi xét nét từng món hay so đo chuyện “phần hùn” nhiều hay ít. Đem đồ đạc đến thì cũng tự động xắn tay áo vào bếp để chế biến, nấu nướng, nhờ nhiệt tình góp sức nên chỉ trong thoáng chốc đã bày biện ra mâm, ngó cũng ê hề không thua bất cứ đám tiệc nào thời ấy: Từ các món để “lai rai” như gà xé phay trộn gỏi chuối, cá khô trộn gỏi xoài, cá lóc nướng trui… cho đến các món ăn cho “chắc bụng” là cá khoai tươi nấu cháo, cá lạt phi lê nhúng dấm ăn với bún, bánh xèo… Khi xong xuôi các món chính, còn dư lại mớ cá hủn hỉn (gồm nhiều loại cá nhỏ) với mấy quả chuối chín muồi, dì Sáu đem kho ớt, nấu canh chuối và “tiên đoán”: “Dám chắc, lát nữa món này sẽ được ưa nhứt, hết nhanh nhứt cho coi!”.
Bữa tất niên tập thể đó, mọi người tới để vui nên tất cả mệt nhọc của cả năm đều gác lại hết, để rộng chỗ cho tinh thần “chơi tới bến” của bà con. Người ta ăn nhiệt tình, ca hát nhảy múa hăng say, rồi kể chuyện mình như bày cả ruột gan ra cho người khác thấy. Tới giữa bữa, khi nhiều món khác vẫn còn chưa hết thì món cá hủn hỉn của bà Sáu đã được vét sạch trơn. Mớ cá vụn kho ớt thiệt cay, có thêm tóp mỡ, mấy củ hành tím cắt đôi ba lại trở hấp dẫn vô cùng, dẫu ăn với chén cơm trắng hay với bún hoặc dùng làm thức nhắm khi uống rượu đều tương hợp lạ lùng. Còn chén canh chuối chín kia lại giống như món canh giã rượu, giúp người say cầm cự qua nhiều bận rót xoay vòng.
Tôi xa Cái Đôi Vàm ngót nghét mười năm. Tiệc tất niên tập thể sau khi tôi rời đi chỉ diễn ra thêm một lần nữa rồi ngưng hẳn. Có lần tình cờ gặp người Cái Đôi ở Cà Mau, mới hay bà Sáu và nhiều người hồi đó đã lần lượt nối nhau về miền xa thẳm. Ừ thì… Chừng đó năm, thời gian đời người ai cũng ngắn dần rồi hết. Riêng hương vị cũ tôi vẫn nhớ y thinh, nhiều khi lật đật đi mua đồ nấu, nhưng vị chỉ nhang nhác giống. Có lẽ thiếu đi nhiều thứ “hồi đó” quá nên không sao giống như nguyên bản. Mãi sau này, về nhà anh Đô ở Cái Nước Biển, anh hỏi ăn gì để chị Hòa – vợ anh nấu cho. Tôi nói, đổ lú có nhiêu cá vụn vặt nho nhỏ đem kho ớt với nấu canh chuối chín. Anh cười ha hả nói, tôm sú, cá đối trứng đầy bụng không ăn đi ăn những món ngộ. Vậy mà tới lúc chị Hoà làm xong, mấy món ngon ế hơn món “ngộ” mà tôi thèm… Chỉ khi ấy, nỗi nhớ xóm Ba Khía nhỏ với những người dân đi biển của tôi mới dễ chịu hơn; sự an ủi mà những món ăn mang lại thật khó có thể so sánh được, có chăng là chỉ thua kém những lúc bạn được ở bên những người thân yêu.
Với tôi, món ăn do mẹ tôi nấu người khác khó thể ngon hơn, nhất là món canh chua trái cóc. Không phải mẹ tôi là “đầu bếp cừ khôi” của xóm mà vì nhờ có tình thương của người nấu được nêm nếm vào trong món ăn. Ngày đó, mỗi khi tôi đi học có chuyện căng thẳng, khi về ăn cơm mẹ nấu, mọi thứ đều nhẹ hẳn đi. Có lẽ đồ ăn được làm từ đôi tay mẹ là nguồn ấm áp dịu dàng chiếu rọi cuộc đời trần trụi tầm thường của tôi. Sau này tôi đi làm xa, đối mặt với bao nhiêu chuyện buồn vui trong đời, tinh thần xuống dốc, tôi trở về với mẹ, được mẹ nuông chiều nấu cho những món tôi nhớ để lên “dây cót” tinh thần cho tôi, tiếp thêm nguồn năng lượng để tiếp tục chinh phục thử thách phía trước.
Việt Nam đa dạng thổ nhưỡng, nguyên liệu chế biến các món ăn cũng rất phong phú. Món ngon Việt Nam ít giống với bất kỳ món ăn phương Đông nào bởi nét riêng ở cách nêm nếm gia vị, thành phần và phương pháp chế biến. Ngay cả trong một nước, cách nấu và nêm nếm gia vị ba miền Bắc – Trung – Nam cũng hoàn toàn khác nhau với điểm chung là tôn trọng hương vị nguyên bản của nguyên liệu. Sức hấp dẫn của nền ẩm thực còn đến từ sự mộc mạc, dung dị mà đậm đà bởi cách chế biến và văn hóa kế thừa – sáng tạo qua các thời kỳ. Món ăn không chỉ để no bụng, còn để chữa bệnh và an ủi tâm hồn. Có người xa xứ, định cư nước ngoài mấy mươi năm, Tết đến vẫn làm mâm cơm thuần Việt cúng tổ tiên ông bà với thức món đều phần lớn là những món ăn nơi quê nhà. Để rồi mỗi năm trở về Tổ quốc lại tìm dưa cà mắm muối khi xưa để không quên hương vị cũ.
Một ngày như bao ngày, đi qua một góc phố phảng phất hương canh chua của bữa trưa đầy nắng, bước chân khựng lại vì bắt gặp hương vị cũ, mắt bỗng cay xè bởi quá nhớ cơm mẹ nấu, thời gian không cho phép ai quay lại, tôi đã xa lắm những ngày còn nhỏ. Từng chi tiết trong quá vãng hiện về rất rõ, cả ngôi nhà đã thuộc về người khác, cả quê nhà đã rời đi lâu lắm, cả mẹ tôi đã về miền thiên cổ… ký ức lách qua trầm mặc đời người mà nhắc tôi nhớ đủ đầy.
Ăn uống đâu chỉ là chuyện…ăn uống, đó còn là “cách ăn, nết ở”, nếp nhà, phong tục tập quán; là linh hồn của hạnh phúc yêu thương, nơi nuôi dưỡng tình cảm của biết bao thế hệ. Không phải là mâm cao cỗ đầy mà chính là hình ảnh cha ta, mẹ ta nấu từng món ăn trong gian bếp nhỏ mang lên cho con cái với tất cả sự chăm chút, chu đáo chất chứa trong ấy sẽ theo ta cả cuộc đời.
Bình luận về bài viết này