Du ký của Quế Sơn
GENÈVE, THỤY SĨ
Một ngày cuối tháng bảy vừa qua, chúng tôi đặt chân xuống Genève[i]. Vào giữa buổi sáng. T. đến đón gia đình nhỏ của tôi ở phi trường Cointrin như đã hứa và hẹn trong cuộc điện thoại liên lục địa trước đó gần hai tháng, khi tôi đang ở Sài Gòn. T. là một trong những người bạn thân nhất của tôi thời hai đứa còn mài đũng quần trong giảng đường đại học rồi sau khi ra trường, vì mưu sinh mà mỗi đứa trôi dạt một nơi, hiếm khi có dịp gặp nhau. Nhưng tôi vẫn nhớ rõ là mình ở xa đã đến Genève, thành phố quê hương của T., để dự đám cưới của bạn, buổi sáng làm lễ trong một ngôi nhà thờ nhỏ ở vùng quê ngoại thành nhưng có đến hai tu sĩ chung nhau cử hành các nghi thức, một linh mục (vì T. theo đạo Thiên chúa) và một mục sư (vì cô dâu theo đạo Tin lành), rồi buổi tối thì tiệc tùng và khiêu vũ ở một nhà hàng nằm bên hồ Genève[ii], nó có bãi cỏ xanh, rộng ở mặt tiền chạy ra tận lối đi bộ dọc theo bờ hồ. Và tôi còn nhớ mãi lời ông mục sư đó, dù bây giờ không tài nào nhớ nổi mặt mũi ông: “Tôi mới là người có thẩm quyền để có thể đưa ra vài lời khuyên về cuộc sống hôn nhân cho cô dâu, chủ rể vì tôi có vợ và hai con…” đã làm cả cử tọa trong nhà thờ bật lên cười ồ, và hướng ánh mắt về ông linh mục vẫn còn đang đứng trên bục. Ông này lại không lộ vẻ bực dọc gì cả, cứ nhoẻn miệng cười cùng với mọi người, làm như quá quen với những lời chọc ghẹo kiểu đó.
Lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau, dễ chừng hơn hai mươi năm rồi, khi T. đến London (Luân Đôn) thăm và ở chơi với tôi một cuối tuần; tôi còn nhớ là đến tối chủ nhật đó, sau hai ngày rong chơi ở kinh đô nước Anh, hai đứa ngồi uống vài ly bia bitter có màu nâu sậm trong một quán pub gần nhà ga Victoria Station, nói dăm ba chuyện trên trời dưới đất cho vui miệng rồi T. nhìn đồng hồ, đứng dậy, đưa tay xách chiếc va-li nhỏ, và tôi đứng lên theo, đi cùng T. vào nhà ga. Chúng tôi bắt tay, vỗ vai nhau nói lời từ giã để T. lấy xe lửa xuống phi trường Gatwich cách đấy chừng bốn chục cây số leo lên máy bay về lại Genève còn tôi thì chui xuống trạm xe điện ngầm quay lại khách sạn. Rồi sau đó không hiểu vì lý do gì mà thư từ giữa chúng tôi lại thưa thớt dần và cuối cùng bặt tin nhau… trong khi dòng đời cứ mãi trôi, cho đến cách đây vài tháng, một người bạn khác tìm ra được địa chỉ e-mail và số điện thoại của T. để gởi cho tôi.
Tôi giới thiệu vợ con mình với T. rồi cùng nhau đẩy xe hành lý đi theo bạn ra bãi đậu xe hơi.
“Chuyện gì đã xảy ra cho mày vậy?”, T. nhìn cái đầu trọc của tôi, vừa cười vừa hỏi. Chúng tôi vẫn giữ thói quen mày tao chi tớ (tutoyer) với nhau như những ngày còn đi học. Tôi nhìn đầu T., tóc vẫn còn đầy tuy đã bạc nhiều, rồi nhún vai như muốn nói, biết làm sao được. T. quay sang vợ tôi, cũng vừa cười, vừa nói, “Ngày xưa hắn nhiều tóc lắm, dài tận vai.” Tôi dịch sang tiếng Việt cho vợ. Vợ tôi cười khi hiểu ra rồi lên tiếng, “Nhờ đó mà không tốn tiền mua lược, cả chục năm nay rồi đấy.” Tôi lại chép miệng chuyển sang tiếng Pháp cho bạn hiểu. Rõ khổ!
Trời bỗng hửng sáng khi chúng tôi ra khỏi khu vực phi trường. “Thế là mày hên lắm đó, trời còn u ám khi tao lái xe đến đây,” T. buột miệng. Genève ở độ cao gần 400 mét so với mặt biển nên không khí khá mát mẻ, dễ chịu, tuy đang giữa mùa hè. Nắng lấp lánh trên các mui xe trên đường và trải dài trên các bãi cỏ xanh ven đường. Ở một ngã tư chờ đèn xanh, T. ngoái đầu ra sau nhìn vợ con tôi, nói, “Các bạn có mệt lắm không? Có muốn tôi đưa đi một vòng thành phố trước khi về nhà không? — “Dạ, đi chứ, thằng con 13 tuổi của tôi trả lời, chúng tôi không mệt.” T. cười rồi cho xe chạy lại. — “Mày hỏi vợ con muốn xem cái gì hôm nay, Tia nước phụt[iii] hay Trụ sở Liên Hiệp Quốc?[iv]” — “Tùy mày, cái nào tiện đường thì đi, tôi trả lời, nhưng sao lại Trụ sở Liên Hiệp Quốc?” — “Tại sao à? Vì trong đó có cái Phòng Đông Dương[v], nơi hội họp và ký kết Hiệp định Genève năm 1954 đó, mà nhiều người Việt Nam đến Genève thường muốn đi xem.” — “Thật à?” — “Ừ, tao nghe đứa cháu gái làm hướng dẫn viên ở trong đó nói thế.” T. liếc nhìn đồng hồ, “Nhưng nếu mình đi tham quan nó giờ này thì tao nghĩ mình phải chịu khó xếp hàng cả tiếng đấy, mùa hè thì đông du khách lắm!” — “Vậy thì đi xem cái Tia nước phụt đi,” tôi nói. Trước đó vài tiếng đồng hồ gia đình nhỏ của tôi đã đứng chờ đợi cả giờ ở phi trường quốc tế Barcelona đông đúc để làm thủ tục check-in và qua cổng an ninh soi hành lý xách tay để lên máy bay nên bây giờ chẳng còn hứng thú gì mà chui vào đám đông để đứng sắp hàng lần nữa!
Ghi thêm ngoài lề:
Chúng tôi không có thì giờ đi xem Phòng Đông Dương trong những ngày ở Genève nhưng đây là hình ảnh của nó:
Phòng Đông Dương (nằm trong Palais des Nations) Ảnh trên internet
Xe đi qua nhiều khu phố để xuống hồ vì trung tâm thành phố được xây dựng hai bên hồ và hai bên bờ sông Rhône (hồ và sông thông nhau). T. lái xe chậm vừa phải để chúng tôi ngắm nhìn quang cảnh hai bên đường. Không thấy nhà chọc trời. Chỉ thấy nhà cửa không cao lắm, mỗi tòa nhà có độ 5 hay 6 tầng, phần lớn xưa cũ, có lẽ đã trăm năm. Cây xanh có mặt khắp nơi. Vỉa hè trông sạch sẽ, cột điện, bảng hiệu, thùng rác…được sắp đặt ngăn nắp. Người đi bộ ngược xuôi có trật tự và không có vẻ hối hả hay chen chúc nhau như ở Paris hay New York. Nói cho gọn, cảm tưởng chung: xanh, sạch, đẹp. Dù nhìn toàn cảnh hay cận cảnh.
Vào đến trung tâm thì thấy có nhiều bảng hiệu quảng cáo của các hãng đồng hồ cực kỳ xa hoa của Thụy Sĩ như: Hublot, Patek Philippe, Piaget, Vacheron Constantin[vi]… (cả ba hiệu sau đều có xưởng sản xuất đặt ở Genève từ khoảng 200 năm nay!). Tôi bỗng phì cười. T. đưa mắt nhìn tôi, “Có gì mà mày cười?”. — “Chẳng có gì cả. Tao chỉ chợt nhớ đến lời quảng cáo khá ấn tượng của hãng Patek Philippe trên một tờ tạp chí thời trang ở London, rất nhiều năm trước, “Có gì chung giữa Nữ hoàng Victoria và Stalin?” Trả lời: “Cả hai đều đeo đồng hồ Patek Philippe”. T. bật cười, “Không dở chút nào!”
Chúng tôi đến con đường chạy dọc theo bờ hồ và may mắn thay, không phải đi bộ xa vì T. tìm được một chỗ đậu xe cách cái Tia nước phụt nổi tiếng, ra đời từ 125 năm nay, và là biểu tượng quen thuộc của thành phố Genève, chừng vài trăm thước. Chúng tôi đứng ngắm nhìn quang cảnh một lúc, phải nói là đẹp mắt, và chụp chung với nhau vài bức ảnh kỷ niệm xong rồi đi lại gần nó trên cái cầu tàu dẫn từ bờ hồ ra, thấy rõ nước phụt lên cực mạnh, tạo thành một cột nước thường thường cao đến 140 mét, nổi bật giữa trời xanh, cùng với một màng nước mỏng lung linh dưới những tia nắng mặt trời. Khi có gió thổi hơi mạnh một chút thì màng nước căng rộng ra như cánh buồm trắng trên mặt hồ xanh biếc…
Le Jet d’Eau (Tia nước phụt) Ảnh trên internet
LA FONDUE SUISSE (MÓN “LẨU” PHÓ MÁT THỤY SĨ)
Ngay cuối chiều hôm đó trời lại đổ mưa. T. bỗng nảy ra ý mời gia đình nhỏ của tôi thưởng thức fondue suisse. Món này, do chính người Thụy Sĩ sáng chế vào giữa thế kỷ 19, có thể nói không ngoa là món ăn “quốc hồn, quốc túy” của nước này, vì trước hết họ dùng toàn những loại phó mát ngon nhất và nổi tiếng thế giới của họ như Gruyère, Emmental… cùng với rượu vang trắng do họ sản xuất lấy, và cũng vì hầu như người Thụy Sĩ nào cũng thích nó, như người Việt ta thích món phở vậy. “Món này thường ăn vào mùa đông hay cuối thu nhưng ta ăn tối nay cũng được, trời cũng mát lạnh rồi,” T. giải thích rồi bốc điện thoại gọi nhà hàng để giữ chỗ trước. Theo T., đó là một tiệm ăn có lẽ xưa nhất Thụy Sĩ vì nó có bề dày thời gian đến 400 năm, từng tiếp dón những thực khách đã là những nhân vật lịch sử như Voltaire[vii], như Jean-Jacques Rousseau[viii]… T.giới thiệu thêm: “Café du Soleil này là một trong những tiệm làm món fondue ngon nhất thành phố đấy.”
Thoạt đầu tôi nghĩ bụng nhà hàng này, từng tồn tại đến mấy trăm năm chắc là sang trọng lắm, với trần nhà cao, chùm đèn pha lê lộng lẫy, bàn phủ khăn vải trắng mút, giữa bàn có lọ hoa tươi, ghế nệm đẹp kiểu cổ, khăn ăn bằng vải trắng, rộng và dày (chứ không phải khăn giấy), bát đĩa bằng sứ, ly uống rượu bằng pha lê, dao nĩa bằng bạc hay mạ bạc, bồi mặc đồng phục sạch sẽ, thẳng thớm, với cung cách phục vụ điệu nghệ… nhưng tôi biết ngay mình lầm khi đặt chân vào bên trong. Nó trông đơn sơ, giản dị như một quán cà phê bình dân hay tiệm rượu nhỏ thường nằm ở góc phố mà người Pháp thường gọi là bistrot. Các ông bà chủ của nó xưa nay vẫn dùng từ café để gọi nó, thay vì dùng từ restaurant, dù nó là một nhà hàng chính hiệu với trên 30 món ăn nóng và nguội có trong thực đơn, chưa kể cả chục món tráng miệng. Họ chắc là muốn giữ gìn cái gốc gác bistrot genevois của nó, từ tên gọi đến bàn ghế, dao nĩa…, không cầu kỳ, không gây ấn tượng, đơn giản đến độ tầm thường. Nhưng như rất nhiều thứ khác ở Thụy Sĩ, họ giữ gìn nó cực kỳ tươm tất, sạch sẽ, từ phòng ăn cho đến phòng vệ sinh, khiến thực khách thấy dễ chịu ngay khi bước vào.
Bên trong tiệm ăn Café du Soleil Ảnh trên internet
Tiệm ăn trông đầy khách. Cô phục vụ chào hỏi T. có vẻ thân mật vì T. thường đến đây ăn. T. giới thiệu chúng tôi với cô, “Đây là các bạn tôi đến từ Việt Nam. Tôi mời họ thưởng thức món fondue của chúng ta.” Cô cười lịch sự, “Hân hạnh…Năm ngoái tôi có đi du lịch ở Việt Nam, tôi rất thích
le nem[ix].” Tôi cười nói, “Cám ơn”, rồi cùng mọi người ngồi vào cái bàn dành sẵn nằm ở cuối phòng. Chờ tất cả yên vị, cô nhìn T. hỏi, “St-Saphorin, như thường lệ chứ?”. T. cười, gật đầu. Con tôi bỗng buột miệng, “St-Saphorin là cái gì vậy bác?”— “Nó là một loại rượu vang trắng khá ngon của Canton de Vaud không xa đây lắm. Bác thường uống nó khi ăn fondue. Lát nữa cháu muốn nếm chút không?” Con tôi lắc đầu quầy quậy!
T mở tấm thực đơn, chỉ cho nó thấy chữ fondue, nói, “Cháu thấy không, ở đây người ta không gọi là fondue suisse đâu, gọi dài như thế chỉ để quảng bá món ăn này ra nước ngoài, để cho người nước ngoài dễ nhớ là món ăn này đến từ Thụy Sĩ, chứ ở đây chỉ gọi fondue là đủ rồi.” — “Đúng đó con,” tôi chen vào.
Một lát sau món “lẩu” phó mát được bày ra bàn: bánh mì, nĩa dài có hai răng để xiên bánh mì, dĩa rau xà-lách và đồ chua, một nồi sứ đặt trên lò lửa nhỏ… T. đưa tay chỉ vào nồi, giải thích, “Trong này là phó mát Gruyère nấu với rượu vang trắng cho tan chảy ra, nên mới gọi là fondue đó… rồi người ta còn rót thêm vào nồi một ly nhỏ Kirsch, một loại rượu mạnh chưng cất với quả anh đào (cerise) cho thơm.”
Món “lẩu” phó mát Thụy Sĩ Ảnh trên internet chỉ để minh họa
Cô phục vụ mang ra một chai St-Saphorin ướp lạnh, mở nút, rót một ít vào ly T. , kiên nhẫn nhìn T. nếm và gật đầu; cô đưa chai định rót vào ly vợ tôi nhưng vợ tôi lắc đầu, đưa vội bàn tay ra cản, nên cô quay sang rót vào ly tôi rồi vào ly T. Xong, cô nhoẻn miệng cười, nói to,”Bon appétit!” (Chúc mọi người ngon miệng) và đi sang bàn khác.
T bắt đầu bày vợ con tôi cách ăn: lấy nĩa dài xiên bánh mì đã bẻ nhỏ như nửa ngón tay cái, nhúng nó vào gần đáy nồi, xoay nĩa theo hình số 8 để phó mát dính đều và chặt vào bánh mì, rút nĩa lên thì phó mát kéo chảy thành dây nên ta phải tựa nĩa lên mép nồi rồi xoay tròn nó cho đến khi dây bị đứt thì mới đưa lên miệng ăn. Nếu thấy ớn thì ăn thêm đồ chua… Và tuyệt nhất là thỉnh thoảng hớp một ngụm rượu vang trắng!
Tiếc thay, vợ và con tôi chỉ đưa vào miệng mới được bốn lần thì than không thể ăn nổi nữa! T. không tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ nói nhỏ nhẹ với con tôi, “Được rồi, có món này dễ ăn lắm, ai ăn cũng được, chắc là cháu và mẹ cháu sẽ thích.” Rồi lịch sự gọi cho họ hai dĩa thịt bò nướng xốt tiêu xanh ăn chung với khoai tây chiên và rau xà-lách (Steak de bœuf grillé, sauce au poivre vert, frites et salade) có trong bảng thực đơn. Thế là tôi đành căng bụng ra, và tôi đoán T. cũng làm thế, ăn cho hết nồi fondue dành cho bốn người, vì tôi biết người Thụy Sĩ thường rất ghét để lại đồ ăn thừa trên bàn hay trên dĩa riêng của mình! (Vì dưới mắt họ, để lại đồ ăn thừa không phải là một dấu hiệu của sự sang trọng mà là dấu hiệu của sự thiếu giáo dục. Người Pháp, người Anh cũng nghĩ vậy, theo sự quan sát của tôi khi nghe họ dạy con nít). Bù lại, T. và tôi tì tì quất hết hai chai rượu trắng ướp lạnh khá ngon, thấy cái đầu cứ lâng lâng sảng khoái…
Trong bữa ăn, T. có lần đưa tay chỉ chai rượu, nói, “St-Saphorin đến từ vùng rượu Lavaux, nơi được Unesco chọn làm Di sản thế giới từ năm 2007 vì có những vườn nho bậc thang xưa cả ngàn năm dọc theo các sườn đồi nhìn xuống hồ Léman. Mày nên biết, đi bộ dạo chơi giữa các vườn nho, từ làng rượu này sang làng rượu khác, thỉnh thoảng dừng chân trong quán nếm thử vài thứ rượu làm tại chỗ… là một trải nghiệm khó quên trong đời đó.”
Vườn nho và ngôi làng Trung cổ St-Saphorin bên hồ Léman
Ảnh trên internet
Con tôi buột miệng hỏi, “Từ đây đến đó người ta thường đi bằng cách nào vậy bác?” — “Nếu không có xe hơi thì có xe lửa, chưa đầy một tiếng đồng hồ đã đến, sáng đi chiều về cũng được đó,” T. nói rồi quay sang tôi,
“Mày còn ở đây bao lâu, trước khi quay về Việt Nam?” — “Còn sáu ngày nữa… mày biết đó, tụi tao rời nhà đi chơi tính ra cũng gần bốn tuần nay, di chuyển suốt từ nước này sang nước khác, cũng thấy thấm mệt rồi,” tôi trả lời. — “Vậy tao có ý này… gia đình mày lưu lại Genève ngày mai nữa, rồi ngày mốt tao sẽ lấy xe đưa mọi người xuống chơi vùng rượu Lavaux đó, sẽ ở trong một ngôi nhà trên đồi, không khí trong lành lắm. Tao nghĩ gia đình mày nên nghỉ ngơi ở đó vài ngày cho khỏe rồi quay lại Genève lấy máy bay về Việt Nam. Thế có được không?” — “Còn gì hay hơn, cám ơn mày nhiều,” tôi chắc lưỡi, cảm thấy vui ra mặt.
Ghi thêm bên lề:
Đúng hẹn, T. lái xe đưa chúng tôi đi vùng Lavaux cách Genève khoảng 80 cây số. T. chọn “Route du lac” (Đường dọc theo hồ) mà đi, tuy chậm nhưng có quang cảnh đẹp, còn đi xa lộ tuy nhanh nhưng chán phèo, theo ý T.
Khi xe chạy xuyên qua thị trấn cổ Rolle nằm ven hồ, thấy một bảng chỉ đường ở ngã tư có chữ Aubonne, T. buột miệng hỏi tôi, — “Mày biết làng Aubonne là quê của ai không?” Cái tên làng này chẳng gợi được gì trong trí nhớ nên tôi lắc đầu nhẹ hai ba lần. — “Quê ông Yersin đấy.” — “Thật à?” tôi hỏi cho có lệ rồi quay đầu ra sau nói lại cho vợ con biết. Nhưng chúng tôi không đi qua làng đó vì nó nằm sâu về phía núi, không gần con đường ven hồ chúng tôi đang đi.
Aubonne, một làng quê Thụy Sĩ cách Genève chừng 40 cây số, nơi ra đời
và quê hương của bác sĩ Alexandre Yersin (1863-1943) Ảnh trên internet
Theo chỗ tôi biết thì Alexandre Yersin là một trong 4 người Pháp có đường phố mang tên mình ở trung tâm Sài Gòn. Ba người kia là Alexandre de Rhodes, Louis Pasteur và Albert Calmette[x]. Tuy là người Thụy Sĩ nhưng Yersin đã nhập quốc tịch Pháp năm 1888, khi 25 tuổi (để có thể hành nghề bác sĩ ở Pháp), nên nói ông là người Pháp cũng không sai.
RỜ VÚ NÀNG JULIET
Đây là e-mail tôi viết cho một người bạn văn vong niên ở Sài Gòn vào một ngày cuối tháng 7… Tôi có thêm vào một vài hình ảnh và chú thích khi dùng nó cho bài du ký này.
Chào anh Ph.,
Tôi định bụng sẽ đem chuyện “Rờ vú nàng Juliet” ra kể (như đã hứa trong mail trước) để anh và anh Nh. nghe cho vui khi có dịp cà phê, cà pháo cùng nhau, nhưng sáng sớm nay ngồi một mình trên ban công nhà trên đồi cao của một người bạn đã vui lòng cho gia đình nhỏ của tôi đến nghỉ ngơi vài hôm sau chuyến đi dài gần cả tháng, trước khi leo lên máy bay ở Genève để quay về Sài Gòn, tôi thấy thảnh thơi và khoẻ khoắn nên đem Ipad ra viết đây…
Trước mắt tôi, dưới chân đồi là hồ Léman xanh thăm thẳm và phẳng lặng như gương; bên kia hồ là dãy núi Alpes sừng sững, trông như một bức trường thành hùng vĩ, trên các đỉnh núi phía sau là tuyết vạn niên. Dưới chân núi (phía Pháp) là thành phố nhỏ Evian nổi tiếng toàn cầu nhờ mấy chai nước lấy từ các dòng suối chảy từ núi xuống.
Bên này hồ (phía Thuỵ Sĩ, nơi tôi đang ngổi), dưới chân đồi, chếch về phía trái là Vevey, một thị trấn ven hồ; từ đó ngược lên phía triền đồi là Corsier-sur-Vevey, một ngôi làng nhỏ, nơi “anh hề đau khổ” Charlie Chaplin[xi] đã sống 25 năm cuối đời. Chắc anh cũng biết là tuy đã sống ở Mỹ từ năm 1913 và đã nổi tiếng, được ngưỡng mộ khắp thế giới, ông vẫn bị cấm quay về Mỹ vì FBI, vào thời kỳ đầu của cuộc Chiến tranh Lạnh (The Cold War) và McCarthyism khống chế chính trị nội bộ nước Mỹ, đã nghi ông là thiên cộng, xem cá nhân ông là thù địch nguy hiểm cần loại ra khỏi nước Mỹ[xii]; ông là dân Anh… Mãi hơn hai chục năm sau, 1972, ông mới được đặt chân lên đất Mý lần nữa để đến Hollywood nhận Giải Oscar danh dự. Và chuyện chưa từng có trong lịch sử trao Giải Oscar đã xảy ra: toàn thể cử tọa cả ngàn người đã đứng lên vỗ tay hoan hô ông nồng nhiệt suốt 12 phút (một kỷ lục) ngay khi ông bước lên bục…Nhưng sau đó ông không muốn ở lại Mỹ mà quay về Corsier-sur-Vevey rồi được chôn cất ở đấy khi qua đời. Ngôi nhà ông ở trong làng, có tên là Manoir de Ban, nay đã thành một viện bảo tàng[xiii] ghi nhận cuộc đời nghệ thuật vĩ đại của ông.
Ngôi mộ đơn sơ của Charlie Chaplin nằm trong
nghĩa trang làng Corsier-sur-Vevey Ảnh trên internet
Cách Vevey chừng vài cây số là Montreux, cũng là một thị trấn nằm bên hồ Léman đã được nhà văn Ernest Hemingway dùng làm bối cảnh cho cặp tỉnh nhân là trung uý Mỹ Frederic Henry và cô y tá Anh Catherine Barkley sống những ngày hạnh phúc cuối cùng sau khi họ vượt biên từ Ý đang có chiến trận khốc liệt sang Thuỵ Sĩ, một nước trung lập, không dính líu đến Thế chiến Thứ nhất, ngõ hầu tìm cho mình “a separate peace” (một cõi thanh bình riêng rẽ) trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Giã từ vũ khí” (A farewell to arms), chắc anh chưa quên… Nhân nhắc đến danh tác này, tôi nhớ cách đây vài năm ở Mỹ, khi tái bản nó (2012) người ta đã in thêm phụ lục gồm những câu kết khác nhau mà ông cứ viết đi viết lại mãi đến 47 lần để chấm dứt cuốn truyện… và tôi có viết một bài báo nhỏ có tựa đề “Sự cầu toàn của nhà văn Hemingway”[xiv] về sự lao động sáng tạo nghiêm khắc (không lười biếng, không qua loa, không dễ dãi với chính mình) của ông.
Số là trong những ngày chờ xuống tàu thủy ở Venezia (Venice) để đi sang Hy Lạp vào đầu tháng 7, gia đình nhỏ của tôi đã dạt về Verona, một thành phố Ý cổ kính và thơ mộng nằm hai bên bờ sông Adige, cách Venice chừng 100 phút xe lửa. Lý do là Venice mùa hè tràn ngập du khách, và khách sạn thì khó còn chỗ và nếu còn thì quá đắt đỏ, ví dụ như một phòng có giá khoảng 100 euro 1 đêm thì trông như cái chuồng heo! Thành phố trên nước lạ lùng này, có một không hai trên thế giới với trên 400 cây cầu nhỏ bắc qua các dòng kênh, nổi tiếng từ mấy trăm năm nay, nhưng diện tích của nó thì khá nhỏ. Người ta có thể đi bộ từ Piazza San Marco (điểm tham quan không thể bỏ qua của mọi du khách) đến nhà ga xe lửa Santa Lucia, tức là xuyên suốt từ đầu này đến đầu kia của thành phố đó, bình thường chỉ mất khoảng 45-50 phút. Nhưng vừa rồi tôi đã phải mất gấp đôi thời gian trên để đi cùng một lộ trình vì phải “chen vai thích cánh” cùng hàng ngàn du khách khác ngược xuôi trên những con phố nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo. Dĩ nhiên nếu ta đi dạo vào sáng sớm hay buổi tối thì dễ chịu hơn nhiều vì một phần du khách chỉ thăm viếng Venice ban ngày đã “rút” đi vào cuối ngày.
Verona từ lâu được xem như thành phố quê hương của nàng Juliet và chàng Romeo, chính là nhờ ông cố nội William Shakespeare đã cao hứng chọn Verona làm bối cảnh cho cuộc tình tuổi “teen” (Juliet chưa đầy 14 tuổi khi câu chuyện bắt đầu và chấm dứt) bi thảm nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học thế giới. Vở kịch thơ “Romeo and Juliet” của ông ra đời vào cuối thế kỷ 16 ở nước Anh. Đây chỉ là hai nhân vật hư cấu nhưng người Ý lợi dụng làm họ như có thật: xây nhà, dựng tượng, xây mộ cho Juliet ( nhưng họ cố tình bỏ quên Romeo, tội nghiệp chàng!) để cuốn hút du khách bốn phương, nhất là Anh, Mỹ… tới Verona, và họ đã làm việc này từ năm 1937, dưới thời còn cực thịnh của ông trùm phát xít Benito Mussolini. Và cú marketing du lįch bậc thầy này đã thành công quá sức: hàng năm có cả triệu du khách lũ lượt kéo nhau đến Verona, và một trong những việc đầu tiên họ làm là đến thăm “La Casa di Giulietta” (Ngôi nhà của Juliet). Trong sân nhà có bức tượng đồng khá đẹp của nàng:
Tượng Juliet (1) Ảnh của Q.S.
Nhưng điều đáng để ý ở đây là vú phải của nàng sáng bóng khác thường.
Tượng Juliet (2) Ảnh của Q.S.
Đó là do hàng triệu bàn tay lông lá đến tử khắp nơi trên thế giới đã sờ mó, rờ rẫm, vuốt ve nó ( dĩ nhiên không thể bóp được vì nó quá cứng). Không biết từ đâu mà chư liệt vị quân tử bốn phương tin rằng hễ rờ mó được vú phải của nàng trinh nữ Juliet này thì sẽ được may mắn trong tình yêu và gia đạo, và còn hơn thế nữa: được cường dương.
Ông nội ơi, nếu đúng thế thật thì hãng bào chế Viagra chắc sẽ sớm sụp tiệm.
Thật ra Juliet đã không còn là trinh nữ khi tự sát theo người yêu Romeo. Shakespeare đã cho nàng trải qua một đêm “trăng mật” say đắm với Romeo trưởc khi chết. Trong cuốn phim nổi tiếng “Romeo and Juliet” của đạo diễn Ý Franco Zeffirelli phát hành năm 1968 (hình như có chiếu ờ Sài Gòn trước 1975), trường đoạn “love scene” này được quay khá đẹp. Nhạc phim (của ông Nino Rita, người Ý) cũng hay, bán được cả triệu dĩa:
anh có thể nghe lại bài hát trong phim “What is a Youth?”[xv] hay “A time for us“[xvi] (lời 2) trên youtube.com.
Điều trớ trêu (hay trò khỉ của người đời) là số lượng người đến thăm nhà Juliet ở Verona đông hơn bội lần số người đến thăm ngôi nhà thật của Shakespeare, người đã cho nàng một tên tuổi và tiếng nói để ở lại với thế gian. Nhà ở quê hương ông cố nội này là ờ Stradford-upon-Avon (Anh), một thị trấn nhỏ cách London khoảng 100 dặm, và cách Oxford không xa. Tôi nhớ có lần vào một ngày tháng tư, khí trời ấm áp, cây cỏ đồng quê nước Anh xanh mướt, có lẽ vì mưa nhiều, tôi đã thuê xe đạp ở Oxford rồi nhẩn nha đạp lên Stradford-upon-Avon thăm nhà ông, thỉnh thoảng tấp vào một quán pub ven đường, lau sạch mồ hôi mặt rồi hớp một ngụm bia đen tươi Guinness, thấy sướng chi lạ!
Trớ trêu thật nhưng nó cũng cho ta thấy sức mạnh của sự hư cấu (dĩ nhiên, phải cộng với tài năng nữa). Nên vẫn có nhiều người chia sẻ ý kiến là tiểu thuyết mà không có hư cấu (hoặc hư cấu quá ít) thì chỉ còn là một thiên phóng sự báo chí.
Có lẽ tương tự như cái “khẩu hiệu” bán rượu vang mà tôi thấy trong các nhà hàng trên chiếc tàu thủy tôi vừa đi: “Bữa ăn tối không có rượu vang thì chỉ là bữa ăn sáng”! Anh Nh. thường uống rượu vang có lẽ sẽ đồng ý không khó với câu nói đó, dù ai cũng biết là các món ăn Việt Nam nhiều gia vị (chua, cay, ngọt…) thì thường khó kết hợp với rượu vang đỏ hay trắng, nói chung…
(Hết trích mail)
CHIẾC GHẾ CỦA ÔNG CHAPLIN
Ngày cuối cùng ở vùng rượu Lavaux, buổi sáng trời nắng đẹp, chúng tôi đi đến Corsier-sur-Vevey, cách nơi tạm trú của chúng tôi vài cây số. Đó là một ngôi làng nhỏ xinh đẹp, yên bình nằm lưng chừng đồi nhưng từ đó ta có thể thấy hồ Léman và dãy núi Alpes một cách thoải mái vì không có một công trình xây dựng nào làm vướng mắt ta. Chúng tôi đi dạo loanh quanh trong làng một lúc rồi vào một công viên nhỏ có bãi cỏ xanh mướt và nhiều hoa đẹp, có vẻ được chăm chút chu đáo. Nó mang tên Charlie Chaplin.
Chúng tôi ngồi xuống chiếc ghế dài mà ông Chaplin thường ngồi nghỉ chân khi đi dạo hàng ngày trong làng. Bên cạnh ghế có dựng tấm bảng đen được cách điệu theo hình ảnh chú “tramp” (kẻ lang thang cơ nhỡ) quen thuộc với nhiều thế hệ khán giả toàn cầu trong các phim do ông thủ vai và tự mình đạo diễn. Từ chỗ ngồi này ta cũng ngắm được cảnh hồ và núi.
Chiếc ghế dài ông Chaplin thường ngồi nghỉ chân. Ảnh của Q.S.
Và chúng tôi cũng chụp vài tấm hình lưu niệm rồi đi sang làng khác … Đang đi bỗng dưng tôi nhớ ra là ông Chaplin có đến 11 người con, đông không thua gì nhiều gia đình Việt Nam cùng thời với ông ở thế kỷ trước. Tôi thực sự không hiểu vì sao mình lại bất chợt có ý nghĩ này, tôi đoán có lẽ là do tôi liên tưởng đến cô Geraldine Chaplin, người con duy nhất trong số các con ông đã theo đuổi nghiệp diễn viên điện ảnh như bố. Trong cuốn phim “Doctor Zhivago”[xvii] mà tôi xem lại bằng DVD, cô thủ vai Tonya, người vợ của bác sĩ Zhivago trong khi cô đào xinh đẹp người Anh, Julie Christie, giữ vai Lara, người tình của Zhivago. Nhưng dù đã đóng trong nhiều phim khá hay trong mấy chục năm, sự nghiệp điện ảnh của cô đã không đạt tới đỉnh cao, chắc là do cô thiếu sắc!
Tượng Chaplin trong công viên ở Vevey Ảnh trên internet
Về đến nhà ở Sài Gòn được hai hôm thì tôi nhận được điện thoại của T. từ Genève gọi sang. T. hỏi thăm chuyến về của chúng tôi có được suôn sẻ không, máy bay có bị trễ nãi gì không, hành lý lần này có bị thất lạc không… Vợ tôi lại xen vào trong cuộc nói chuyện giữa hai chúng tôi, nàng muốn cám ơn T. một lần nữa về sự tiếp đón thân tình và chu đáo mà T. đã dành cho gia đình nhỏ này trong những ngày ở Thụy Sĩ. Và nàng nói thêm là sau chuyến đi xa nay trở về nhà, được ngủ trong cái giường của mình, được ăn đồ ăn từ bếp mình, được uống các thức uống từ tủ lạnh mình, mọi người cảm thấy hạnh phúc gì đâu! T. cười nói, a, hạnh phúc đến từ những điều giản dị! Tôi phì cười, mày nói như ngài Đa Lai Lạt Ma từ khi nào vậy?…
9-2016
QUẾ SƠN
[i] Genève, một thành phổ nhỏ chưa tới 200 ngàn dân, là thủ phủ của bang Genève (khoảng nửa triệu dân, 2014), một trong 26 bang của nước Thụy Sĩ. Điều đặc biệt về phương diện ngôn ngữ là họ dùng từ “canton” để chỉ những tiểu bang của họ, ví dụ như Canton de Genève (dân nói tiếng Pháp), Canton de Zurich (dân nói tiếng Đức)… khác với nước Mỹ dùng từ “état” (state).
[ii] Hay còn gọi là hồ Léman. Chỉ một hồ nhưng có đến hai tên: phần hồ nằm trong địa phận Canton de Genève (trước đây thường được dịch sang tiếng Việt là Tổng Genève!) thì gọi là hồ Genève, phần hồ còn lại, lớn hơn nhiều, thì gọi là hồ Léman.
[iii] Le Jet d’eau
[iv] L’Office des Nations Unies
[v] Salle d’Indochine
[vi] Bạn đọc nào tò mò muốn biết giá cả các loại đồng hồ này thì vào trang web dưới đây đọc cho vui:
http://www.magmontres.fr/classement-des-montres-les-plus-cheres/
(Bảng sắp hạng các đồng hồ đắt nhất thế giới, có giá từ hai triệu đô la Mỹ trở lên một cái!)
[vii] 1694-1778, nhà văn, triết gia Pháp, sống gần đó 20 năm cuối đời. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Candide” (Candide là tên của nhân vật chính trong truyện)
[viii] 1712-1778, nhà văn, triết gia chính trị người Genève (genevois). Một trong những tác phẩm danh tiếng của ông là “Le contrat social” (1762, Khế ước xã hội).
Cả Voltaire và Rousseau đều có mộ phần trong Điện Panthéon (Paris), nơi chỉ dành cho các danh nhân nước Pháp..
[ix] le nem (tiếng Pháp) tức nem rán hay chả giò. Từ nem đã vào tự điển Larousse danh tiếng của Pháp. Xem: http://www.larousse.fr/dictionnaires/francais/nem/54110?q=nem#53753
[x] Albert Calmette (1863-1933), bác sĩ, đã lập ra (và là giám đốc đầu tiên) Viện Pasteur ở Sài Gòn năm 1891. Ông là người đã phát minh ra, cùng với bác sĩ thú y Camille Guérin (1872-1961), vắc-xin BCG (Bacillus Calmette Guérin) ngừa bệnh lao.
[xi] 1889-1977, tác giả và diễn viên chính các bộ phim đã thành kinh điển của nền điện ảnh thế giới như The Gold Rush (1925), City Lights (1931, Modern Times (1936), Limelight (1952)…
[xii] Charlie Chaplin từ nước Anh đến Hollywood từ năm 1913 để bắt đầu sự nghiệp điện ảnh của mình. Ông rời New York đi London bằng tàu thủy ngày 18-9-1952 và khi còn ở trên tàu ông nhận được tin mình chính thức bị cấm vào lại (re-entry) nước Mỹ…
[xiii] Mở cửa từ tháng 4-2016
[xiv] Đây là 1 đoạn trong bài báo:
“Sau khi đọc chúng (tức 47 câu kết khác nhau), bà Susan Moldow (Nhà xuất bản Scribner) nói là bà thấy vui mừng với câu kết mà Hemingway cuối cùng đã chọn – một thái độ trầm tĩnh và cõi lòng nguội lạnh sau một câu chuyện kể mang tính sử thi về chiến tranh và tình yêu.
Vì theo bà, hàng chữ cuối cùng đó, “Một lát sau, tôi ra khỏi phòng, rời nhà thương và đi bộ về lại khách sạn dưới mưa.” (“After a while I went out and left the hospital and walked back to the hotel in the rain.”) đã vượt qua được sự thử thách của thời gian.”
(Quế Sơn, Báo Phụ nữ, phunuonline.com.vn ngày 8-7-2012)
Xem thêm bài báo có nhiều chi tiết trên tờ The New York Times ngày 5-7-2012:
[xv] Nghe bài hát với một trường đoạn trong phim: https://www.youtube.com/watch?v=o_als6opMho
Hay nghe với lời ca: https://www.youtube.com/watch?v=ZBwAFPFXOGQ
[xvi] Nghe bài hát với hình ảnh trong phim: https://www.youtube.com/watch?v=4FHpmn-KYec
Hay nghe với lời ca: https://www.youtube.com/watch?v=o3oo2FRsbSY
[xvii] Phim do các hãng Anh và Ý hợp tác sản xuất. Ra mắt công chúng lần đầu vào cuối năm 1965. Dựa trên cuốn tiểu thuyết danh tiếng cùng tên của nhà văn Nga (thời Liên Xô) Boris Pasternak (Nobel văn học 1958)
Đọc lại lần nữa vẫn thấy hay anh à.
Cám ơn sự kiên nhẫn đọc và lời “com” ưu ái của anh Nguyễn Trọng Thi.
Viết hay quá
Cám ơn lời “com” thân tình của bạn đọc Tamle.
Đã có dịp đến nơi này nhưng qua cái nhìn của anh vẫn thấy dường như mình vẫn chưa từng đến. Cám ơn một góc nhìn đẹp và tinh tế của anh.
Bây giờ mới quay lại bài viết này vì có thêm tấm ảnh của Juliet trong phim
“Romeo and Juliet”.
Cám ơn anh Hiển về lời “còm” ưu ái.
Mong anh luôn được vui, khỏe.
Like like like…..
Cám ơn bạn Sơn Nguyễn.
Một du ký hay.
Cám ơn bạn Ca Dao. Nếu được thế thì tôi sẽ cố gắng tiếp tục viết…
Mình đã từng đến đây nhưng không có được cảm nhận sâu sắc như vậy. Đúng là cái nhìn nhà văn có khác người thường.
Cám ơn lời ưu ái của anh Sino.
Ngay cả ghi chú cũng đã quá cẩn thận , kì công. Cám ơn tác giả đã cung cấp một cái nhìn khác lạ về Thụy sỹ. Rất bổ ích.
Cám ơn bạn Dong Hoang.
Nếu tôi là công ty du lịch tôi sẽ mời anh Quế Sơn làm giám đốc truyền thông. Lí do duy nhất là anh viết du kí quá ok
Cám ơn bạn Xuân Thiện, nhưng tôi đâu biết viết quảng cáo.
Quế Sơn viết du ký là tuyệt rồi vì viết cẩn trọng với dẫn chứng mih bạch, rõ ràng. Bếp muốn viết về Torino mà dần dừ mãi chuyện thời gian, cứ mỗi lần muốn viết lại nhớ chuyện đi lục tìm dẫn chứng mà ớn quá vì không có thì giờ dù sách tài liệu, hình ảnh thật có đủ đầy.
Cám ơn chị Nga.
Em đã saved bài này để dành phòng khi có dịp đi một chuyến qua Châu Âu. cám ơn tác giả.
Được bạn đọc Hoa nguyễn quan tâm là vui rồi.
Viết độc quá. Hay .
Cám ơn bạn GMD.
Hu hu sống chết cũng ráng một lần đến rờ vú nàng Juliet nhà văn ơi. Viết hấp dẫn quá anh ơi.
Cám ơn bạn Savi.
Ước ao một lần được đến nơi này. Nhưng ước ao chỉ là ước ao.
Làm sao biết chắc trước được, bạn Minh Thanh?
Mình đã từng đến nơi này nhưng lại không thể có những cảm nhận sâu sắc như vậy. Chúc anh luôn vui khỏe và thêm nhiều sáng tác mới.
Cám ơn lời chúc của anh Nguyễn Trọng Thi.
Trời ! Dịch giả viết du kí hay hơn nhiều du kí gia nổi tiếng . Đọc thích lắm anh Quế Sơn ơi.
Vui vì biết bạn Anhuy đọc thích.
Hay quá bác Sơn ơi. Đọc xong muốn mua vé số vietlot để lỡ trúng thì bay đi Thụy Sỹ ăn fo mát ngay.
Nếu bạn trúng vietlot thì chắc có hàng chục việc hay ho để làm hơn là đi
Thụy Sĩ ăn “lẩu” phó mát.
Nghe chuyện vú vê thấy bắt mắt quá. Nhưng viết thì trong sạch quá. Tiếc cho tác giả đã bỏ qua cơ hội ngàn vàng.
Mình thích cách viết rất hay của anh Quế Sơn- cẩn trọng từng chi tiết một theo phong cách vốn có của một dịch giả nổi tiếng.
Không bỏ lỡ cái gì cả bạn Xuân Toàn à, vì còn sức phân biệt tượng đồng với
những gì không phải tượng đồng mà. Cám ơn lời ưu ái.
Viết dí dõm và hay . Đọc thú vị vô cùng tác giả ơi.
Được vậy thì vui rồi. Cám ơn Maimaiyeuthuong.
Em nghĩ anh nên tập hợp thành một tập kí sự đường xa vì cách viết hay quá. Viết mà người đọc cứ thấy hiển hiện như tường tận trước mắt cảnh và người là quá thành công.
Cám ơn lời gợi ý tích cực của bạn Nụ Tầm Xuân.
Mai mốt có cơ may đi châu Âu thì đã có cẩm nang du lịch do anh Quế Sơn cung cấp rồi. Xin cám ơn anh trước nha.
Đây không phải là “cẩm nang du lịch” bạn Khungcuahep à.
Trên mạng http://www.tripadvisor.com có rất nhiều thông tin chỉ dẫn cụ thể và chi tiết cho người du lịch. Ví dụ như anh muốn biết tiệm nào bán bánh mì “baguette” ngon nhất Paris, họ sẽ “cầm tay” chỉ cho anh đường đi tới tiệm
bánh đó.
Ấy dà dà hay quá. Du kí thì phải như vậy chứ.
Cám ơn cô Mai Hoa.
tuyệt vời anh Quế Sơn
Cám ơn nhà văn Từ Sâm.
Viết hay quá . Chỉ một món phô mát không đã là một câu chuyện văn hóa.
Đối với người mình cũng vậy, món phở cũng là một câu chuyện văn hóa, cô
Miên à. Cám ơn lời ưu ái.
Đến với Bạn CŨ ở THỤY SĨ…Vui buồn đọng lại sau chuyến ĐI….Biết nhiều điều ”Mắt thấy Tai nghe…”Để rồi có những DÒNG NGHĨ SUY…Trong Bữa Tiệc Cưới của Bạn THẤY:
…..1/”Thiên Chúa-Linh Mục,Tin Lành -Mục Sư Hai Mẫu Người”Ràng buộc-Tự do”-Người độc thân VÀ người có Vợ…ĐẠO-Giữ Tình cảm”Không hơn thua”?
…..2/Bạn Tâm giao vẫn Tốt-Bạn Cũ?”Quí Bạn đã bỏ chút thì giờ”DẪN đi Tham Quan Cảnh ĐẸP LẠ…”Bao nhiêu đó cũng ĐÃ LÀ QUÍ?
……3/Xem ”TIA NƯỚC PHỤT”chợt nghĩ ra”Thích-THIÊN NHIÊN dễ gần TỰ DO..PHÒNG ĐÔNG DƯƠNG-Ngại Tù Túng Chỗ?Nhưng đến SAU để THỎA TÒ MÒ…
……4/Chuyện Tượng Thần Juliet VÚ NHẴN BỊ SỜ…Do dị đoan do NHIỀU Tò Mò…Tượng nổi tiếng cũng ĐÓ nguyên do”MAY được DÀI LÂU nhờ CHÚT SỜ…”Ít CHÚ ÝTượng Chapin Hề Saclo…ĐƠN GIẢN”Tượng Nữ thường QUYẾN RỦ?HẤP LỰC”Vẫn như đó TRỜI CHO?”
……..Đọc DU KÝ ĐI -Biết-Sánh So…Thấy LÝ THÚ Nghiệm ra Cuộc Sống”TƯỢNG THẦN Thần Tượng Phô trương…Không TRỌNG không BẰNG Thần Tượng ẨN TRONG!”???
Cám ơn bạn lê ngọc duyên hằng, lúc nào cũng có lời comment đầy đủ và nhiều vần điệu.
Phải nói tác giả viết rất cặn kẻ, hấp dẫn
Cám ơn bạn Đông Hải.
Tác giả có thử…. rờ ..nang Juliet không ta.?
Thằng con trai 13 tuổi của tôi tỏ ý muốn rờ lắm nhưng mẹ nó không cho, bắt nó cầm Ipad đi loanh quanh chụp hình để khỏi… lôi thôi. Tôi làm bố, trong hoàn cảnh cụ thể vào ngay lúc đó, cảm thấy (khó chịu) phải làm gương cho con trước mặt vợ, nên đành… bó tay. Mong anh hiểu cho. Cám ơn.
Tiếc quá anh Quế Sơn ơi.
Sáng chúa nhựt, ngủ dậy được đọc một bài thật hay. Hoan hô anh Quế Son chia sẻ. Đọc bài của anh, không học được cái nầy cũng cái nọ nên thích lắm. Lần nầy học được món lẫu Thụy sĩ. Thế nào cũng thử nấu cho mấy thằng rễ ăn. Bản thân chắc không dám ăn. Ăn thứ nầy mau lên cân lắm. Đã có qua Thụy sĩ nhiều lần, nhưng không có người bạn nhà giàu nào dẫn đi ăn tiệm 400 năm nên đâu được biết món nầy đâu….
Món “fondue suisse” ăn ở tiệm không đắt lắm đâu chị Phương Linh à.
Mà mình làm ở nhà cũng không khó đâu, miễn là mình tìm đủ các thứ cần thiết, khó nhất là tìm được rượu Kirsch và rượu vang trắng của Thụy Sĩ ở ngoài Thụy Sĩ… Và nhất là không quên là ăn càng đông người thì càng vui.
Công nhận ở cái xứ khỉ ho cò gáy Danmark nầy thì sẽ kiếm không ra rượu Thụy sĩ, fromage Thụy Sĩ. Nhưng siêu thị lớn của Đức có không thiếu cái giống gì hết. Mà tôi thì làm việc ngay biên giới nên toàn đi chợ bên Đức không anh ơi, cho rẽ. (Vật giá Đức thấp hơn Danmark) Đợi dịp nào mấy đứa con gái dẫn mấy thằng rể về, nhà đông rần rần, tôi sẽ làm fondue suisse của bác Quế Sơn cho chúng nó ăn, và chắc chắn là sẽ nhắc tới anh.
Cám ơn những lời ưu ái của chị Linh. Xin chúc trước cả đại gia đình ta ngon miệng với món fondue phó mát này.
Cái đề mắc cười quá.
Bài viết hay , bổ ích.
Bạn Hoa Cải thấy cái mà, thú thật, tôi không thấy khi viết: cái đề mắc cười quá. Đúng vậy! Lỡ rồi, biết làm sao đây.
Một kí sự vô cùng thú vị. Cám ơn tác giả Quế Sơn
Cám ơn lời bình của bạn Tamle.
Chào anh Hiển,Cám ơn anh đã post lên bài du ký của tôi.Có chi tiết này mà tôi mới thấy, xin anh vui lòng sửa, để độc giả thấy dễ chịu: Ở đoạn “Fondue suisse” (Món lẩu phó mát Thụy Sĩ),chữ T. (tên nhân vật, bạn của tác giả) bị biến thành số 1, ở 2 chỗ: 1) T. mở tấm thực đơn, chỉ cho nó thấy chữ fondue…. 2) T. bắt đầu bày vợ con tôi cách ăn…
Xin cám ơn anh Hiển trước.QS