Hồi ký của nhà thơ Yến Lan
Dường như tất cả những cuộc gặp gỡ trên thế gian đều do trời sắp đặt? Có cuộc gặp lảng mạn, sau đó trở thành một nửa của nhau, và có những cuộc gặp thú vị để rồi thành băng, nhóm v.v…. Xin giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của nhà thơ Yến Lan về buổi gặp mặt đầu tiên với Hàn Mặc Tử, và những liên quan giữa họ sau này..:
Vào khoảng giữa những năm 1930, tôi sống với cha tôi trong lòng thị trấn Bình Định. cha tôi là người có lưng vốn chữ nho kha khá, nguyên do một thời xa trước đó, Bình Định có trường thi hương, cha đã theo nghiệp sách đèn, nhưng ông đã không gặp vận may, hoài công tập tễnh công danh giữa lúc tàn cuộc bút nghiên.
Từ khi lấy mẹ tôi, cha theo học nghề của mẹ, làm thợ may. Ông thuê một cửa hàng nhỏ ở một góc ngã ba thị trấn, ngày ngày còng lưng dệt từng đường chỉ mủi kim. Rồi đến một thời, giữa thị trấn vang lên tiếng cạch cạch rè rè của đôi cổ máy may mang nhản hiệu Sin-ger thì nghề cầm kim của cha tôi bị chết hẳn. Cha trả cửa hàng lại cho chủ và xin vào làm từ thừa ngôi đền thờ Quan Thánh. Ông chăm bón, sửa sang các mảnh sân và vườn đền thành một nơi có vườn cảnh tốt tươi, không ngờ dần về sau thu hút được nhiều du khách.
Bình Định ngày đó không đông đúc như bây giờ. Tỉnh lỵ đã dời xuống Qui Nhơn, việc buôn bán giao lưu cơ hồ như co thắc lại, không khí buồn tênh, sinh hoạt chìm sâu trong im lặng. Phố chính nằm dọc theo quốc lộ, gồm hai dãy nhà lợp tranh, thỉnh thoảng nổi lên vài mái ngói trệt và lêu nghêu mấy căn nhà gác như ngẩn ngơ nhớ tiếc những gì. Phía Tây là thành Bình Định rộng lớn, trầm mặc với bốn dải tường đá ong rêu phong., tĩnh mịch, lác đác những ngôi nhà nhỏ thường ngày hé mở cửa ra, không biết tìm đâu một chân trời để ngóng. Những trưa im ắng vọng lên tiếng chim rời rạc trên những cành gòn…
Chùa Ông-nơi cha con tôi cư ngụ – là một ngôi đền lớn bị ngăn cách quốc lộ một bờ thành cao. Mặt tiền đền bên hai góc là cây đa, cây bàng cổ thụ tỏa bóng rợp một khoảng sân, lũ chim thường về làm tổ mỗi sớm, mỗi chiều. Vườn đền không rộng nhưng kín đáo. Ông cụ cất một ngôi nhà nhỏ riêng trong một góc vườn. Bên cạnh ngôi nhà tranh của gia đình tôi là dãy nhà lợp ngói âm dương, gọi là nhà nghĩa tự thuộc cơ ngơi của đền, làm nơi hội họp của các chức sắc mỗi khi có việc lễ bái. Trong phòng có một bộ ván gõ kê ở một góc. Ngay chính giữa phòng đặt bộ tràng kỷ: hai chiếc ghế đặt hai bên chếc bàn. Đó chính là nơi tôi được phép hàng ngày mở cửa tự do ra vào sinh hoạt theo sở thích riêng của một thời tuổi trẻ. Hằng ngày ghi chép, tiếp bạn trao đổi tâm tình, và có khi ngã lưng xuống tràng kỷ ngủ những giấc ngon lành trong cái im ắng dạt dào đầy nắng trưa và hương hoa phảng phất.
– Một sáng chủ nhật, khoảng giữa năm 1930, tôi đang chép lại bài thơ mới làm hôm qua, thì nghe tiếng gọi ngoài cổng chính. Tôi nghĩ: chắc là có khách lạ muốn đến thăm đền (vì người quen tất phải biết ngõ phụ luôn mở rộng ở phía Bắc của góc tường thành)
Tôi bước ra, nghe tiếng của hai trang nam tử. Biết là người xa đến vãn cảnh, tôi chào, rồi chỉ hướng cho họ vào đền. Khách mặc âu phục sang trọng: Một, hơi lớn tuổi, nói giọng Bắc, rất chỉnh tề trong bộ Tropical, một là thanh niên mặc nguyên bộ tơ De-ligaon, đội mũ Panama. Đang đi, người trẻ tuổi bỗng ngoặc sang phải, lối hàng rào chè, rẽ sang một góc sân. Ở đó có cây lựu lớn đang nở hoa đỏ rực. Anh níu bẻ một nụ rồi tặng cho người bạn đồng hành, miệng đọc câu Kiều:
Ngoài hiên quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lè đơm bông
Rõ ràng là những vị khách thuộc loại hào hoa, ít gặp ở đây. Vừa lúc ấy cha tôi bước ra, hướng dẫn họ đến bên tấm bia đá và mở cửa mời vào chính điện. Tôi trở lại tràng kỷ, làm tiếp công việc bỏ dở. Được một chốc hai người đi xuống. Cha tôi đưa họ vào nghĩa tự, mời ngồi trên tràng kỷ và đưa mắt bảo tôi xuống nhà lấy bộ bình trà bằng sứ chuyên dùng tiếp khách quí. Có lẽ tờ giấy mà tôi còn bỏ ngỏ trên bàn có những dòng chữ và cách trình bày giống dạng một bài thơ đã làm cho người trẻ tuổi chú ý. Anh hỏi tôi:
– Cậu đang chép thơ à? Tôi bẽn lẽn gật đầu:
– Dạ, vâng.
– Thơ của bác hay thơ của cậu đấy?
– Dạ thơ của tôi. Im lặng một chốc, anh lại hỏi:
– Cậu làm thơ lâu chưa? Đã đăng ở đâu chưa?
– Tôi mới võ vẽ, cũng có bài được đăng báo.
– Cậu lấy bút danh là gì?
– Tôi ký Xuân Khai. Người trẻ tuổi vui hẳn lên, anh cười:- Vậy tôi với cậu là đồng nghiệp với nhau. Xin tự giới thiệu, tôi là Phong Trần, là Hàn Mặc Tử. Anh quay sang người trung niên, vẻ quí trọng:
– Vị này là nhà văn, tác giả “Kép Tư Bền”, tập truyện ngắn vừa mới xuất bản đang được cả nước hoan nghênh. Tôi thốt lên một tiếng “À” vui vẻ:
– Hóa ra ông là nhà văn Nguyễn Công Hoan. Tôi đã đọc và đã biết nhiều về ông, nhất là trong cuộc bút chiến với báo Phong Hóa, Ngày Nay về tập chuyện dài “Lá ngọc cành vàng “của ông
Lúc ấy nhà văn Nguyễn Công Hoan như tự nhiên có thêm những cảm xúc không ngờ. Ông nhìn tôi một cách triều mến. Hàn Mặc Tử thì gật đầu thích thú, anh tiếp lời:
– Trong cuộc bút chiến ây, nhà văn thắng lợi. Nhân đây ông làm một cuộc viễn du từ Bắc vào Nam để tạ lòng ủng hộ của tác giả mà mình hâm mộ. Hôm nay tôi đưa ông lên thăm một vài cảnh đẹp ở đây, rồi sẽ lên Phú Phong, mảnh đất lịch sử của quê ta. Nhân dịp này ta làm quen với nhau vậy. Tôi đang sống với gia đình tại 20 đường Khải Định-Qui Nhơn. Có đi Qui Nhơn mời cậu ghé chơi, chúng ta là đồng nghiệp với nhau mà.
Chúng tôi gắn bó với nhau từ buổi ấy. Tôi kể chuyện này với Chế. Chế cho biết đã quen với Tử rồi và cũng muốn có dịp nào đó sẽ giới thiệu tôi với anh.
Thỉnh thoảng có dịp đi Qui NHơn, tôi và Chế Lan Viên thường ghé thăm anh. Tử ở trong một ngôi nhà gạch-kiểu nhà của công chức, có gia đình bề thế cũ, thường là có bỗng lộc. Buồng, chái bố trí kín đáo và có ngăn nắp. Mặt tiền mở ra một cánh cổng nhỏ để vào mảnh sân con thoáng rộng , có tường hoa ngăn với bên hàng xóm.
Mỗi khi chúng tôi đến, Tử từ căn phòng con ở sau phòng khách đi ra đón, vẻ vui mừng. Tử đưa hai đứa tôi vào nhà, mời ngồi vào bộ Salon đan bằng mây, lòng ghế to bè được quét qua một lớp sơn màu ngọc thạch đã cũ. Chúng tôi trò chuyện đủ thứ rồi đọc thơ cho nhau nghe. Riêng tôi chưa được anh kể cho nghe đầy đủ về một chuyện tình nào của riêng anh. Mỗi khi cao hứng, Tử thường ngồi xếp bằng theo kiểu kiết già , người lọt thỏm vào lòng ghế, hai tay chống trên hai gối, đôi mắt lim dim vời vợi, xa xăm, rồi đọc thơ. Giọng anh ngâm nga như người lên đồng.
Những phú im lặng, nhìn nhau, chúng tôi nghe rõ tiếng tích tắc thời gian của chiếc đồng hồ treo trên tường như đã quên theo một nhịp hàng ngày cố hữu.
Cũng có khi tôi đến thăm anh một mình, nhưng thường thì người nhà ra dấu anh đang mệt, tôi lẳng lặng ra về, lần sau gặp lại anh, và xem như đã mất đi một dịp trút bớt đi nỗi cô quạnh nặng nề đang đè xuống tâm tư
Có một lần, ấy là lần đầu tiên Qui Nhơn chiếu phim màu có quãng cáo tận trên Bình Định. Tôi còn nhớ đó là các phim «Vogue 38» (Thời thượng 38), Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, Báo động ở Ấn Độ (Alerte aux Indes). Phim chiếu hàng mấy tuần rồi mà vẫn đông khách. Tôi cũng cố gắng đi xem một lần cho biết, và đã xuống Qui Nhơn. Vì đến sớm, rạp chưa chiếu, tôi ghé nhà Hàn Mặc Tử chơi. Tử biết tâm tư tôi đang bận phim ảnh nên rất tế nhị không gợi chuyện về thi ca. Anh chỉ giục tôi và cũng tự nhiên tỏ ý : Cậu có công quá nhỉ ? cậu thích cái thứ nghệ thuật đó à ? Mình ở gần rạp Morin mà chưa biết cái phim màu nó ra sao, ngay cả phim thường cũng không ham lắm.
Qua giọng anh, tôi biết Tử ít hâm mộ điện ảnh và dường như cái chính là sức khỏe đang hạn chế anh với các cuộc tiếp xúc bên ngoài. Tử bắt đầu chớm bệnh và tất cả tháng ngày sau đó, anh hòa nhịp tâm hồn vào thi ca để làm phương thuốc chửa dịu nỗi đau thể xác.
Sống giữa lòng Bình Định, những chiều hiu hiu nắng quái, tôi và Chế Lan Viên thường lên lầu cửa Đông mà hai đứa tôi gọi là lầu tư tưởng, phóng tầm mắt nhìn bao quát thị trấn, rồi vọng đến những chân trời xa tắp, lòng ngậm ngùi cho mảnh đất quê hương đã trải qua lắm cuộc đổi thay. Có lúc chúng tôi nghĩ xa hơn đến các triều đại của quá khứ, từng nối tiếp nhau đến sự thăng trầm biến thiên của lịch sử, rồi bàn nhau cùng viết về cảnh điêu tàn, những cuộc đời dâu bể. Hoan đi sâu vào sự đau thương, tàn tạ, thịnh vượng, làm sống lại những lễ hội, sinh ca của các hệ tộc quyền quí, rồi binh biến máu lửa thay cho một thuở thanh bình. Tập thơ của Chế, tên “Điêu tàn”.
Thành Đồ Bàn cũng thôi không nức nở
Trong sương mờ huyền ảo lắng tai nghe
Từ một làng xa xôi bao tiếng mõ
Tan dần trong im lặng của đồng quê..
Tập thơ của tôi là “Giếng loạn”. Nghe tôi đôi lần đề cập đến “Giếng loạn” Tử rất muốn xem (lúc này anh đang bệnh). Tôi mang xuống cho anh. Khoảng một tuần sau, Tử đưa trả bản thảo và nói:- Tôi đã xem hết tập thơ rồi. Có một số xúc cảm nên cố làm một bài riêng tặng cậu. Anh lấy ở túi áo ra trao cho tôi và trân trọng nói:
– Đây cứ coi như một bài bạt sơ khảo; mà tôi thấy cái nhan đề không ổn. Sao cậu không viết là “Giếng lạng” lại viết là “Giếng loạn”? Tôi đáp: “Có vấn đề về ngôn ngữ tôi muốn thảo luận với anh đấy.”
Rồi tôi và Tử bàn nhau hồi lâu, sau cùng thống nhất là “Giếng loạn”. Loạn ở đây là loạn lạc, đầy đủ ý nghĩa hơn, lạng là bỏ hoang. Bài thơ Tử tặng tôi chính là bài “Trăng tự tử” mang dáng dấp của một bài bạt cho cả tập thơ. Tôi đã có chủ ý sẽ in nó vào tập “Giếng loạn” khi xuất bản. Nhưng bản chép tay ấy với cả tập thơ bị thất lạc, lúc đi sơ tán, ngày Pháp mở chiến dịch Át-lăng đánh vào Qui Nhơn. Bản in trên các sách hiện nay là bản lưu từ trong xấp di cảo do anh Quách Tấn giữ.
Buổi sáng hôm ấy, tôi nhớ dường như sáng 28 Tết âm lịch, năm 1938. Tôi và Chế Lan Viên đến thăm anh. Khi ấy bệnh Tử đã nặng! Mới bước vào cổng nhà, tự dưng tôi có cảm giác căn nhà hiu quạnh quá. Thấy chúng tôi, mẹ Tử bước ra thềm hè, rơm rớm nước mắt:
-Trí đi rồi các anh à! Cò bót không cho nó ở nhà nữa, vì sợ lây bệnh, bắt phải đưa vào Qui Hòa, Tết nhất đến nơi rồi, nếu đưa nó vào trong ấy thì tội lắm. Nhà cập rập quá, nên lén gửi tạm nó vào trong xóm Động. Các anh có đi thăm thì em Hành đưa đi. Nó vừa chạy đâu đó.
Đợi lâu không gặp Hành, hai đứa tôi hỏi thăm vào xóm Động. Đấy là cái xóm nhỏ của những người lao động nghèo, nằm trên một bãi cát rộng mênh mông, thuộc khu VI Qui Nhơn bây giờ. Nhà ở chỉ là những túp lều dựng tạm bợ trên cát, không có nền. Đồ đạc, giường, tủ, bàn, ghế cứ đặt nguyên trên cát. Đường đi vào cũng quanh quất cơ hồ khó tìm ra.
Chúng tôi vào một cái chòi lợp tranh nhỏ hơn một cái chái bếp. Nóc chòi được chống lên bằng hai cây cột tre. Một tấm phên ngắn dọc theo chiều dài của nóc, ngăn chòi làm hai: nửa trước sinh hoạt bình thường, nửa sau hình như có đặt một chiếc chõng tre với lỉnh kỉnh những thúng mủng..
Trước tấm phên là cái bàn ọp ẹp, chỉ còn lại một chân trước nối với một khúc củi đẻo từ chảng ba, hai chân sau cột vào hai cọc tre chống mái nhà, Tử đang ở trong ấy (đây là nhà của một phu kéo xe). Nghe tiếng chúng tôi, Tử chậm rãi bước ra, vẻ mệt nhọc:
– Hai cậu vào tới đây sao…?
Hoan và tôi ngồi trên ngạch cửa làm bằng một khúc tre, xoay lưng ra ngoài, trò chuyện với anh. Tử gầy, trông hốc hác lắm. Anh không vui như mọi khi.
Đang nói chuyện thì có bà cụ đem cho anh hai quả keo chín, Tử nhìn hai đứa tôi:- Thứ này mình thích lắm. Mấy năm còn khỏe, mình thường xách ná cao su đi bắn. Có khi đạn rớt vào nhà Tây, mình ba chân bốn cẳng chạy nhanh như sóc. Thế mà bây giờ .!.Anh thở dài.
Chúng tôi nói chuyện cho tới giờ tan tầm, thì có một em bé trai xách làn cơm vào (chắc là em Hành) Khi cái xách cơm đặt nghiêng nghiêng trên bàn, em bé lẫn ra phía sau. Tử vẫn giữ cái vẻ thản nhiên, gợi thêm một vài ý nhỏ về thi ca sách vở. Sợ anh mệt và cũng quá giờ chúng tôi đứng lên tạm biệt. Tử nhìn, đôi mắt anh buồn vời vợi
Sau này, mới biết sau cái Tết ấy, gia đình còn cố giấu anh ở mấy nơi nữa rồi mới vào Qui Hòa.
Khi Tử mất, mỗi lần nhớ tới anh, tôi lại ngậm ngùi đọc “Những giọt lệ” của anh
Trời hởi! Bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tựa si?
Họ đã xa rồi khôn níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa
Người đi, một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ xuống trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuông lòng tôi những giọt châu!
Tôi không biết anh viết bài thơ này để nói đến một tình huống nào. Có người bảo là anh viết để than thở về một mối tình trong bao nhiêu mối tình dang dở của mình. Nhưng tôi cứ nghĩ cảm xúc đó bắt nguồn từ buổi sáng hôm ấy, buổi sáng mà tôi và Hoan còn ngồi bên Tử, trong túp lều đơn sơ ở xóm Động…
Quả thật tôi không ngờ, lần chia tay ấy là lần vĩnh biệt.
Lâm Bích Thủy sưu tầm, giới thiệu
Anh Trương Đình Ngộ hãy gửi địa chỉ mail để T gửi bài nhé. Địa chỉ này ko được.
Anh Trương Đình Ngộ kính mến, đọc những phản hồi của anh, trong tôi có một cảm giác thân thiết lạ thường. Anh và một số văn sĩ xa tổ quốc nhưng luôn hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình bởi những tâm huyết rất con người. Trong cái tâm huyết ấy, tôi nhận ra ở anh có một tình cảm sâu sắc, nể trọng về ba tôi, vì tình cảm ấy buộc tôi phải làm gì đó để đáp lại tấm thịnh tình của anh. Vì thế, tôi muốn biết anh đã đọc “Bóng ngày qua” của bác Quách Tấn, do anh Quách Giao sưu tầm và biên sọan, nơi ấy đầy đủ bốn nhân vật trong Bàn Thành. Nếu anh chưa đọc thì tôi sẽ cố gắng đáp ứng cho anh về Hàn Mặc Tử.
Thân kính chào anh.
Cám ơn Chị Lâm Bích Thủy.
Làm banker, nghề nghiệp tôi khô khan với các thông số và cấu trúc chứng khoán. Tôi chỉ là người viết và phiên dịch nghiệp dư, chạy theo “xách nước, pha trà” những khi nhà tôi (Camille Huyền) lưu diễn hay cùng các đồng nghiệp, Thầy Cô quốc tế thao thức, thảo luận từng câu thơ, giai điệu nhịp điệu màu sắc trong nhạc khi phổ từng tứ thơ, ngữ cảnh, tâm thế Hàn trong những lúc:
“Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
Cho bay lên hí hửng với ngàn khơi”
Đọc tư liệu thêm để hiểu và truyền đạt sự hiểu của mình về văn thơ Việt Nam đến các bạn nước ngoài, để chuyển tải cảm hứng về thơ Hàn, để các bạn ấy truyền được vào loại ngôn ngữ đại chúng (universal) nhất – ÂM NHẠC – để làm chính mình vui với việc mình làm được là điều chính.
Rât mong nhận được các tư liệu Chị đã nhắc đến. Xin Chị gửi về ngo.truongdinh@yahoo.com
Thân mến
Kính chào anh Trương Đình Ngộ. Vô cùng cảm ơn anh về góp ý chân tình và quí báu này. Ông cha ta đã đúc kết “đi một ngày đàng học một sàn khôn”, nếu không có những người như anh, anh Mang Viên Long, bạn Đăng Trình mỗi người góp ý một chút thì tôi dốt lắm về học thuật…, bởi nói thật với anh tôi không được học cách viết và cách bảo vệ những di sản của cha mình. Sở dĩ thỉnh thoảng có bài đăng trên báo viết và báo mạng là vì thương cha quá thiệt thòi…!
Hàng tháng, tạp chí VHNT Qui nhơn có trích đăng Hồi ký của tôi “về người cha thi sĩ” có thể có những điều anh cần biết .
Một lần nữa cảm ơn tấm chân tình của anh đối với cụ nhà.
Chào Chị Lâm Bích Thủy,
Cám ơn Chị đã đón nhận đóng góp xây dựng của chúng tôi với sự cởi mở chân thành.
Hiện chúng tôi, một nhóm bạn Thụy Sỹ, Đức, Mỹ, Việt Nam gồm nhạc sĩ, biên kịch (play writer), người hát, phiên dịch, đang viết và dựng vỡ nhạc kịch (musical) Hàn Mạc Tử: Nhạc kịch phải được phổ trung thực tâm thế Hàn như có thể. Để thể hiện cách ngâm thơ, hát tâm trạng vai Hàn và vai Trăng, chúng tôi ước ao có càng nhiều càng tốt tư liệu của những chứng nhân thời đại, trước nhất và bảo đảm nhất từ những bạn thơ thân thiết, trung hậu mà thật thà như nhà thơ Yến Lan, những người đã nghe Tử ngâm từ những ngày còn ở 20 Khải Định đến những ngày trong túp lều xóm Động.
Rất mong được đọc thêm tư liệu từ các nguồn Chị sẽ tìm ra thêm.
Trân trọng cảm ơn.
Chào Chị Lâm Bích Thủy,
Cảm ơn Chị lưu tâm.
Phần trong ngoặc “” và bản dịch tiếng Anh bài Những Giọt Lệ được trích từ tập sách nhỏ trong Album Say Trăng, nhà sách Phương Nam xuất bản 2010.
Một điểm chúng tôi thành tâm mong Chị lưu ý trong vấn đề học thuật, dù rằng điểm này có thể làm mất lòng Chị, nhưng với tất cả trân trọng với di sản của nhà thơ Yến Lan nói riêng và di sản văn học Việt Nam nói chung, rằng sự thêm bớt tùy tiện “mình chỉ thêm có 4 câu thơ của chú CLV “Thành Đồ Bàn…) cho mằn mặn thôi”, đã có thể làm thành một di chứng “tam sao thất bổn” trong việc tìm kiếm tư liệu cho nền văn học Việt Nam. Chúng tôi và hậu thế muốn được đọc Yến Lan như Yến Lan đã là. Vài hàng về một điểm tưởng như rất nhỏ nhưng không hề nhỏ với sự nghiệp của Yến Lan (văn xuôi của Yến Lan rất hiếm vì thế càng quý) và của nền học thuật Việt Nam, nhất là khi Yến Lan không còn cơ hội nào để đính chính về văn bản của mình.
Một dịp khác chúng tôi sẽ trở lại những nghi vấn văn học và do đó mất mát rất lớn qua “nhuận sắc” của nhà thơ Quách Tấn trong di sản mà Hàn đã gửi gấm người bạn thơ mình tin tưởng. Việc Quách Tấn giữ kín thơ Hàn rồi đánh mất các tập thơ Hàn đã phó thác, nhưng lại kiện Trần Thanh Mại khi xuất bản thơ Hàn Mạc Tử, đã là những nghi án văn học.
Với tất cả yêu thương và trân trọng sự nghiệp nhà thơ Yến Lan chúng tôi trân trọng gửi đến Chị những lưu ý này và sẽ rất vui được đọc thêm những tư liệu khác của nhà thơ.
Trân trọng
Trương Đình Ngộ
Chính xác
Cảm ơn anh Trương Đình Ngộ đã sẻ chia cảm giác về bài viết của cụ nhà. Rất tiếc là tôi không biết tiếng Pháp để đọc bài hát của anh. Giá đó là tiếng Việt thì hay biết mấy.
Chúc anh vui khỏe và viết nhiều.
Đúng là khi chúng tôi diễn dịch và phổ nhạc “Những Giọt Lệ”, chúng tôi đã nghĩ Hàn đã ghi khắc hình ảnh Yến Lan, Chế Lan Viên sau khi các bạn đến thăm Hàn trong túp lều bên Ghềnh Ráng rồi ra về. Tư liệu này “Nhưng tôi cứ nghĩ cảm xúc đó bắt nguồn từ buổi sáng hôm ấy, buổi sáng mà tôi và Hoan còn ngồi bên Tử, trong túp lều đơn sơ ở xóm Động…” của Yến Lan xác định cảm giác khi chúng tôi diễn dịch và phổ nhạc.
“Hàn bước qua giai đoạn đau thương. Sống vất vưởng một mình trong bóng tối tuyệt vọng, trong hoảng loạn, trong khổ đau cô đơn cùng cực. Tất cả đã bỏ Hàn lại trong hiu quạnh. Hàn ngụp lặn, gào khóc dưới trời sâu, thơ Hàn nhỏ xuống thành những giọt huyết lệ. Ôi! Những Giọt Lệ (sostenuto) não nuột nằm chực trong cổ họng, ứ đọng, nay bật ra. Từng lời nứt ra là từng mảnh đau đớn cô liêu trào ra. Đau đớn càng trào ra thì khóc than càng nức nở, trút cuồng điên phẫn nộ cho số kiếp bất hạnh của mình. Nhịp khóc được nhạc diễn tả kín đáo rỉ ra từng nốt, từng âm khắc khoải. Rồi cõi lòng như được mở ra, nhanh dần, rộng hơn. Đau thương dồn cao tột cùng để cuối cùng, vỡ òa ra thành ngàn vạn giọt châu.”
Teardrops (Những Giọt Lệ)
Oh Heaven, when shall I die?
When shall I cease to love?
When will the sun dissolve in blood?
When will my heart turn into stone?
They are gone; I could not hold them back
My feelings towards them never sated
You are gone; half of my soul gets lost
Other half gets blunt and numb
I am still here or elsewhere
Who set me in this deep hole under the open sky?
Why do flame-trees blossom in blood-red?
Outpouring pearls of tears on my soul
Poem Hàn Mạc Tử, translated by Truong Dinh Ngo(2010)
Chào bạn Cao Quãng Văn, đúng là lời giới thiệu của mình cũng có ý nghĩ như vậy. Có những cuộc gặp để lập thành băng đảng thành trộm cướp, song cũng có những cuộc gặp như các cụ Hàn, Yến, Quách, Chế để rồi thành nhóm Tứ Hữu Bàn Thành huyền thoại của xứ Nẫu. Vì không muốn dài dòng nên mình tóm lại như vậy.
Bạn có nói là ” Thực ra, văn của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử thì mình chẳng lạ gì, song văn của Yến Lan thì thật it có dịp được thưởng thức lắm!) Sao bạn nói đúng thực tế quá vậy! Nhà thơ Yến Lan viết nhiều nhưng được ấn hành rất íít. Ông cụ bị thiệt thòi về nhiều mặt so với nạn cùng thời. Nếu bảo ko nên so sánh thì làm sao biết được ông thiệt thòi như thế nào. Bạn nói câu ấy củng đã nêu lên một trong cái thiệt thòi của cụ rồi bạn CQV ạ.
Mới đây, vào ngày giỗ thứ 15 của nhà thơ Yến Lan, Nhà Văn Hóa Lao Động và HVHNT Qui Nhơn có T/C đêm thơ “Nhớ Bến My Lăng của YL” Tuy là vào ngày rằm Trung thu, quê Nẫu thường T/C cho các cháu thiếu nhi vui chơi múa lân, song cũng không ít ngườ tới dự. Trong buổi lễ, trong bài phát biểu của chú Vũ Ngọc Liễn, nhà thơ Lê Hoài Lương và Nhà báo Mai Thìn cùng Chủ tịch HVHNT- anh An Pha. . cũng đã nêu được cái ý ấy và hứa sẽ cố gắng giảm bớt thiệt thòi cho nhà thơ…
Mình hy vọng lắm
Cảm ơn tác giả Lâm Bích Thủy, ái nữ của nhà thơ Yến Lan, đã sưu tầm và giới thiệu đến bạn đọc yêu văn chương đoạn hồi ký rất hay và xúc động của nhà thơ Yến Lan , về những chuyện xưa nay chưa mấy người hay biết! Lại xin lỗi chị, về câu hỏi thêm… chỉ vì chút tò mò và hơi ” méo mó nghề nghiệp, bởi tính” cầu toàn” cố hữu của riêng mình. Thực ra, văn của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử thì mình chẳng lạ gì, song văn của Yến Lan thì thật it có dịp được thưởng thức lắm!
Phần ” chapeau” đề dẫn , khái quát dẫn vào … do chị viết, tiếc là có tí tẹo chữ nghĩa có thể gây liên tưởng không hay: ” và có những cuộc gặp thú vị ĐỂ RỒI THÀNH BĂNG, NHÓM v.v…, dễ khiến người ta nghĩ tới một nội hàm khác(!), như băng nhóm giang hồ sông nước, băng nhóm xã hội đen… chăng? Chữ nghĩa giản đơn thôi nhưng lắm khi cũng nhiêu khê, rắc rối lắm, phải không chị?
Có gì hơi linh tinh lang tang xin chị cảm phiền , lượng thứ cho nghe. Cám ơn chị, và chúc vui khỏe…
Chị Thủy ơi! em biết chị đùa về cái cảm giác sởn da gà của em – chị cố tình lái sang một cảm giác khác để ca ngợi tình bạn thơ của các cụ Tiền bối ngày ấy. Thực tế, bài viết của ba chị hay đến nổi làm cho em sởn da gà, một cảm giác hết sức tự nhiên về sinh học khi con người ta đang thưởng thức một điều gì đó hết sức tuyệt vời, phải ko chị?
Thân mến chào hai bạn HKThach và Cao Quãng Văn. Trả lời cho bạn Q.Văn trước nhé. Đoạn văn mở đầu là của mình, chắc có gì đó ko hay nên bạn hỏi chăng???
Còn trả lời cho HKThach: khi xem phản hồi của các bạn xứ Nẫu, hầu hết đều khen hay, xúc động…riêng bạn thì hỏi (Có lẽ chị Lâm Bích Thủy cũng là người chấp bút cho ông cụ ?) mình bỗng dưng suy ngẫm rằng-bạn đánh giá mình quá cao, bởi viết hay…và như vậy có nghĩa mình hư cấu. Thành thật với bạn đây là bài viết của ba mình-nhà thơ Yến Lan; mình chỉ thêm có 4 câu thơ của chú CLV “Thành Đồ Bàn…) cho mằn mặn thôi.
Ba mình là nhà thơ nhưng thời trẻ ông cũng viết chuyện ngắn, ngăn ngắn… trên các tạp chí Tiểu thuyết Thứ Bảy…Ông có truyện ngắn kể về mối tình của mình với cô gái câm nhưng bị mất, sau này mình mới chấp bút . Đời văn của ông bị thất thoát nhiều lắm các bạn ạ. Ba mình suốt cả đời sống vì con chữ và tình yêu quê, song đời ít nhìn thấy, bởi vậy vừa rồi trên truyền hình trong chương trình Ai là triệu phú, có câu hỏi về ba mình ở nhóm thơ nổi tiếng của Bình Định mà chẳng ai trả lời được, ngay cả sự trợ giúp của khán giả.
Lần đầu tiên được đọc văn xuôi / hồi ký của nhà thơ Yến Lan, trong Bàn thành tứ hữu. Bài viết thật cảm động, và súc tích, về những ” giai thoại” của một thời… Cảm ơn chị Lâm Bích Thủy đã có công sưu tầm và giới thiệu ( Lời giới thiệu ở đầu bài có phải là của chị hay là của một ai khác?).
Có lẽ chị Lâm Bích Thủy cũng là người chấp bút cho ông cụ ?
Hi Kim Liên, vào đọc phản hồi của Bếp, Ngọc Nga, aitrinhngoctran… chị thấy em và đồng hương Nẫu của chị đều thương tiếc người tài hoa mà mệnh bạc của HMT, nhưng làm sao em lại sởn da gà; có phải em nghĩ rằng vì ông Hàn bị bệnh phong lỡ loét mà ba chị và chú CLV vẫn đến thăm, động viên để ông bớt đi mặc cảm và cô đơn khi mang căn bệnh một trong hai bệnh (lao và cùi) mà thời bấy giờ bị xã hội xa lánh, ruồng bỏ.
Mình nói để Liên và đồng hương Nẫu biết, các bác, các chú trong Tứ Hữu BÀn Thành đều đối tốt với HMT, không ai chê và xa lánh ông cả, bác Quách Tấn đã tìm mọi cách, tìm thầy thuốc giỏi chửa trị cho HMT, song vì uống nhiều loại thuốc độc hại để diệt vi trùng sen mà lục ngũ phủ tạng của ông bị hư hoại và ông đã ra đi vì bệnh kiết lỵ chứ ko phải chết do bệnh phong này. Nhà thơ Bích Khê không ở trong nhóm nhưng cũng rất thương HMT; mỗi lần đến thăm ông Hàn, ông Khê còn ôm ghì bạn, hành động này khiến ông Tử rất cảm động, bởi vì ngay cả người thân trong gia đình ông không ai làm được như vậy. Thời ấy, tình bạn thật tuyệt vời phải ko các bạn.
Cảm ơn chị Bích Thủy đã làm sống lại hồi ký của cố nhà thơ Yến Lan về những ngày tháng cuối cùng của tình bạn của một trong bốn thi hữu đất Bàn Thành. Giọng văn của nhà thơ Yến Lan rất bình dị và chan chứa tình người, thử hỏi thời @ bây giờ lo kiếm tiền mà vẫn có một tình bạn gắn bó và vô tư như thế không (?) Tình cảm của nhà thơ Yến Lan đối với HMT làm cho tôi sởn hết da gà vì xúc động-cái cảm giác thật khó tả và đầy ngưỡng mộ!
Một trong những bài viết hay về HMT
Cảm ơn tác giả và chủ trang web đã post một hồi ký của một người trong Bàn Thành Tứ Hữu là nhân chứng rất trung thực. Chuyện thật cảm động, viết hay xúc tích, đúng là một nhà thơ tiền bối.
[…] http://xunau.org/2013/11/26/nhung-ky-niem-voi-han-mac-tu/ […]
Bnnnn Chao Vu Thien Kieu,lau roi moi xuat hien
Bài viết thú vị vô cùng
Chào Lâm Bích Thủy!Mặc Tử trốn đời tránh thế nhân!-Thơ ca mượn đó giải cơn sầu!-Phận đời đau khổ như ”giếng loạn!”-”Điêu tàn” thể xác trăng ngổn ngang….Cảm ơn công sưu tầm tư liệu, về nhà thơ Hàn Mặc Tử ,cho các đọc giả biết thêm vế Ông…
Đọc xong tự nhiên muốn khóc, thương cho người tài hoa bạc phận. Dù Bếp đã đọc nhiều về Hàn Mặc Tử nhưng đọc thêm hồi ký nầy của tác giả lòng vẫn thấy ngậm ngùi. Biết nói gì hơnn ngoài hai tiếng “Than ôi”!!!!
cảm ơn các bạn đã xem và chia sẻ cảm nhận về bài viết của cụ nhà. Trả lời bạn Lyka là chưa xuất bản thành sách, song cũng đã post trên trang nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo. Vì biết Xứ Nẫu còn nhiều người chưa xem nên mình gửi cho Sáu Hiển giới thiệu đến các bạn.
Ông Hàn lúc còn sống thật bất hạnh, nhưng hiện nay, theo nhận xét của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn thì ông là người may mắn nhất trong nhóm thi hữu Tứ Linh đó bạn ạ.
Thưa hồi ký này đã xuất bản chưa ?
Viết hay,cảm động
Bai viet hay,nhieu tu lieu moi