Nhật Chiêu
Nhà văn mang nhiều tố chất “Mỹ” nhất trong văn học Mỹ có lẽ là William Faulkner (1897-1962) và là một trong những cây bút hàng đầu của văn học thế giới, chiếm giải Nobel năm 1949.
Sáng tạo của Faulkner gây ảnh hưởng sâu rộng lên văn chương Châu Mỹ La Tinh, Pháp, Nga… nếu không muốn nói là toàn cầu.
Ông ra đời ngày 25 tháng 9 năm 1897 ở bang Mississippi.
Mississippi của miền Nam đi vào tác phẩm của ông, được hư cấu thành Yoknapatawpha, một trong những lãnh địa văn chương sống động nhất, u ẩn nhất từng được tạo dựng.
Yoknapatawpha. Đó là một lãnh địa huyền thoại nằm giữa những đồi cát và dòng sông đáy đen. Nó xuất hiện trong hầu hết tiểu thuyết và truyện ngắn của Faulkner, đặc biệt trong tứ đại Kỳ thư.
- Âm thanh và cuồng nộ (The Sound and the Fury – 1924)
- Khi tôi nằm chết (As I lay Dying – 1930)
- Nắng tháng tám (Light in August – 1932)
- Absalom, Absalom! (1936)
Tất cả tiểu thuyết ấy đều thể hiện một thế giới bi thảm, đầy bóng tối cay đắng và tội lỗi, đầy đoạn trường, những tan nát của thiên nhiên và xã hội. Nhưng cũng đầy nghị lực và lòng bao dung.
Tất cả tiểu thuyết ấy đều được dựng theo một nghệ thuật tự sự tân kỳ, biểu hiện hơn là kể, xoá nhoà thời gian, khơi gợi tiềm thức, độc thoại nội tâm, đa bội giọng điệu, đa bội điểm nhìn… Do vậy, Khi tôi nằm chết không có người kể chuyện bao quát. Chỉ nghe những độc thoại nội tâm qua chừng 60 phiến đoạn với 15 nhân vật trên những cấp độ ý thức khác nhau.
*
* *
Có thể nói Khi tôi nằm chết là lịch sử nội tâm của gia đình Bundren, bắt đầu bằng cuộc hấp hối của bà Addie, rồi cuộc hành trình đầy phiêu lưu qua nước lũ và lửa thiêu trên những con đường uẩn khúc của Yoknapatawpha để đưa xác bà về nghĩa trang gia đình ở Jefferson thể theo di ngôn người chết.
Tác phẩm miêu tả cuộc hành trình thể lý diễn ra trên đường cũng như cuộc hành trình tâm lý diễn ra trong hồn, quay cuồng giữa bóng tối và ánh sáng mà mà các vai diễn là bà Addie, ông Anse cùng các con trai Cash, Darl, Jewel, Vardaman và cô con gái duy nhất là Dewey Dell.
Trong khi nằm hấp hối, bà Addie buộc chồng là Anse hứa đưa xác mình về Jefferson chôn cất. Để báo thù chồng về cuộc sống chung bất hạnh. Và bà đã từng cắm sừng chồng.
Cuộc hành trình đưa đám ấy phải trải qua bốn mươi dặm đường. Mỗi người đưa đám trong gia đình đều có tâm tư và ý nguyện riêng. Đến Jefferson là thực hiện ý người chết mà cũng là thực hiện những niềm riêng ấy.
Anse toan tính sẽ làm bộ răng giả nhằm lấy lại phong độ của mình. Ông và bà Addie đồng sàng dị mộng. Và không chỉ là răng giả…
Cash là trưởng nam, người đóng quan tài cho mẹ. Anh bị gãy chân khi vượt dòng sông lũ. Cam chịu đau đớn, anh nằm trên nắp quan tài cho đến cuối cuộc hành trình với ống chân bó ximăng!
Darl là người con thứ, rất nhạy cảm. Anh biết cuộc hành trình này là vô lý và tai họa, có thể làm tan rã gia đình. Nên anh nổi lửa định hỏa thiêu xác mẹ và chấm dứt chuyến đi. Thất bại, Darl bị đưa vào viện tâm thần vì Anse sợ phải gánh lấy trách nhiệm.
Jewel là con ngoại hôn của bà Addie. Tình nhân của bà là mục sư Whitfield. Jewel luôn liều mình cứu quan tài của mẹ qua những cơn nước lửa…
Vardaman là con trai út. Cậu được hứa hẹn sẽ có chuối ăn và đồ chơi tàu hỏa khi nào đến nơi. Cậu đục quan tài cho mẹ thở và tin mẹ là một con cá. Dù rất ngây thơ, cậu cũng cảm thấy đau khổ vì những mất mát gia đình.
Dewey Dell là cô con gái bất hạnh của gia đình. Cô chỉ mong tới được Jefferson để mua thuốc phá thai với số tiền mà người tình đã cho. Cô gái khờ dại này sẽ làm chúng ta sửng sốt ở cuối truyện, khi cô ta hung hãn lao vào Darl, hé cho ta thấy những chỗ khuất tăm tối trong hồn người.
Cuối cùng, cuộc hành trình cũng kết thúc. Xác bà Addie nặng mùi cũng được chôn cất ở Jefferson.
Nhưng hầu như chỉ có một mình ông Anse là thỏa mãn, hăng hái giới thiệu người vợ mới trước những đứa con tan nát tâm hồn. “Đây là bà Bundren”, ông nói ở cuối tác phẩm.
*
* *
Con đường mà gia đình Bundren dấn bước dưới bóng của cái chết là hình ảnh thu nhỏ của Đường Đời. Con người bước đi trong cái bóng của đời sống và cái chết. Qua bi và hài. Qua nước và lửa. Qua mê và tỉnh. Qua dục vọng và đớn đau. Qua hợp và tan. Qua ước ao và thất vọng. Qua ngôn từ và hành động. Qua phi lý và nhân quả. Qua bất nhân và tình người. Qua hèn mọn và cao cả…
“Cuộc đời thúc ta như con ong huyền bí”, theo nhà thơ Emily Dickinson.
Và cái chết cũng thúc ta như con ong huyền bí, chứ gì?
Là một tiểu thuyết ngắn, Khi tôi nằm chết vẫn đạt đến tầm mức một kiệt tác lớn lao, sâu thẳm, dung hợp được những tố chất tương phản trong đời sống và văn chương với một nghệ thuật hư cấu đầy cách tân, táo bạo của một bậc thầy ngôn ngữ.
N.C.
+++++++++++++++++++++++++++++++++
ADDIE
Bản dịch Hiếu Tân
Trong buổi chiều cuối cùng khi tan trường và thằng bé cuối cùng ra khỏi lớp với cái mũi xanh thò lò của nó, tôi không về nhà mà đi xuống chân đồi đến chỗ con suối nơi tôi có thể yên lặng mà căm ghét chúng. Lúc này tôi có thể yên lặng ở đó, với dòng nưóc sôi sục chảy đến rồi đi, và ánh nắng xiên trên các ngọn cây, và cái mùi ẩm ướt của lá mục và của đất mới xông lên lặng lẽ; đặc biệt vào buổi đầu xuân, vì lúc đó là nó tệ nhất.
Tôi chỉ có thể nhớ lại cha tôi thường nói rằng lý do sống là để sẵn sàng chịu đựng một cái chết kéo dài. Và khi tôi phải nhìn chúng ngày này qua ngày khác, mỗi ý nghĩ của từng đứa ích kỷ và bí mật, và máu của chúng xa lạ với máu của nhau và máu của tôi, và nghĩ rằng dường như đây là cách duy nhất để tôi sẵn sàng chịu đựng cái chết, tôi đã ghét cha tôi vì đã làm nảy ra tôi. Tôi đã trông ngóng đến cái lúc chúng mắc lỗi để tôi có thể đánh đòn chúng. Khi cái roi vụt xuống tôi cảm thấy như nó quất trên da thịt tôi; khi nó lằn lên và rớm máu thì đó chính là máu tôi chảy ra, và tôi đã nghĩ với từng nhát roi quất: này bây giờ thì mày đã biết tao. Bây giờ tao đã là cái gì đó trong cuộc đời ích kỷ và bí mật của mày, tao đã ghi dấu trong máu của mày bằng chính máu của tao mãi mãi và mãi mãi.
Và thế rồi tôi lấy Anse. Tôi thấy lão đi qua trước ngôi nhà của trường ba hay bốn lần trước khi tôi biết rằng để đi qua như thế lão đã đi vòng khỏi đường chính của lão bốn dặm. Tôi nhận ra lão – một người cao và còn trẻ – đã bắt đầu gù như thế nào cho nên lão trông đã giống một con chim cao kều khom mình trong tiết trời giá lạnh, trên ghế của chiếc xe. Lão đi qua nhà trường, chiếc xe chậm chạp kêu kẽo kẹt, đầu lão chậm chạp quay sang nhìn cửa nhà trường khi chiếc xe đi qua, cho đến khi lão đi qua khúc cong và ra khỏi tầm mắt. Một hôm tôi ra cửa và đứng đó vào lúc xe lão đi qua. Khi trông thấy tôi lão vội vàng nhìn đi hướng khác và không nhìn lại nữa.
Trong những ngày đầu xuân thời tiết tệ nhất. Đôi khi tôi nghĩ rằng tôi không thể chịu được, ban đêm tôi nằm trên giường nghe những con ngỗng trời bay lên hướng bắc, tiếng kêu của chúng nghe cao, yếu ớt và hoang dại vọng từ bóng tối hoang dã, và ban ngày thì dường như tôi không thể chờ đợi cho con cuối cùng bay đi để tôi có thể đi xuống suối. Và ngày hôm đó khi tôi nhìn lên tôi thấy Anse đứng đó trong bộ quần áo mặc ngày chủ nhật của lão, xoay tròn chiếc mũ trên tay lão, tôi nói:
“Nếu ông có cô nào trong đám phụ nữ, thế quái nào mà họ không bảo ông cắt tóc đi nhỉ?”
“Tôi chẳng có một ai,” lão nói. Rồi bỗng nhiên lão nói, hai con mắt của lão xộc nhìn tôi như hai con chó săn trong một cái sân lạ: “Đó là lý do tôi đến gặp cô.”
“Và như người ta nói để lưng ông khỏi gù phải không?” tôi nói. “Thế là không có cô nào? Nhưng ông đã có một cái nhà. Người ta bảo tôi ông đã có một cái nhà và một cái trại tốt. Và ông sống ở đó một mình, mình làm mình ăn phải không?” Lão nhìn tôi, xoay xoay cái mũ trong tay. “Một cái nhà mới,” tôi nói. “Ông sắp cưới vợ phải không?”
Và lão lại nói, mắt dán vào mắt tôi: “Đó là lý do tôi đến gặp cô.”
Sau đó lão bảo tôi: “Tôi không có ai. Cho nên cô không phải lo. Tôi nghĩ có lẽ hoàn cảnh cô không giống như thế.”
“Không. Tôi có gia đình, bà con. Ở Jefferson.”
Mặt lão hơi xịu xuống. “À, tôi có một ít của cải. Tôi lại là người tiết kiệm, biết lo xa; tôi có một cái tên lương thiện. Tôi biết người thành phố như thế nào, nhưng có lẽ khi họ nói với tôi…”
“Họ có thể nghe,” tôi nói. “Nhưng nói với họ thì khó đấy.” Lão nhìn mặt tôi. “Họ ở ngoài nghĩa địa.”
“Nhưng những họ hàng còn sống của cô,” lão nói. “Họ sẽ khác.”
“Thế ư?” tôi nói. “Tôi không biết. Tôi chưa bao giơ có bất kỳ loại bà con nào khác.”
Thế là tôi lấy Anse. Và khi tôi biết tôi có thai thằng Cash, thì tôi biết rằng sống là khủng khiếp và đó là câu trả lời cho nó. Đó là khi tôi hiểu rằng lời nói chẳng có tác dụng gì; lời nói không hợp với những gì muốn nói. Khi nó sanh ra tôi biết rằng tình mẫu tử do một ai đó bịa đặt ra vì người ta cần có một từ để chỉ nó, bởi vì những người có con không quan tâm có từ nào để chỉ nó hay không. Tôi biết rằng từ sợ hãi là do một người chưa bao giờ sợ hãi nghĩ ra; tự hào, do một người không bao giờ có lòng tự hào. Tôi biết rằng nó đã là, không phải là họ có những cái mũi bẩn, mà là chúng ta đã phải lợi dụng nhau bằng những từ giống như những con nhện đu mình bằng mồm từ một tia trong cái mạng nhện, lúc lắc và xoắn nhưng không bao giờ chạm đến nhau, rằng chỉ có nhờ những nhát roi mà máu tôi và máu chúng mới chảy như một dòng. Tôi biết rằng nó đã là, không phải là sự cô độc của tôi mỗi ngày phải bị phá vỡ hết lần này đến lần khác, mà là nó chưa bao giờ bị phá vỡ cho đến khi thằng Cash sinh ra. Thậm chí không phải bởi Anse trong đêm.
Và lão ta cũng có từ ngữ của lão. Yêu, lão gọi thế. Nhưng tôi đã quen với từ này từ lâu rồi. Tôi biết từ đó có nghĩa là thích người khác: chỉ là một kiểu lấp đầy chỗ thiếu hụt; tôi biết rằng khi đến đúng lúc, người ta chẳng cần đến một từ để nói đến nó, cũng như chẳng cần những từ để nói nỗi sợ hãi hay tự hào. Cash không cần nói từ đó với tôi hay cần tôi nói từ đó với nó, và tôi có thể nói rằng, hãy để Anse dùng từ đó, nếu lão muốn. Vậy nó là Anse hay yêu, yêu hay Anse: không có gì quan trọng.
Tôi đã nghĩ điều này ngay trong lúc tôi nằm với lão trong bóng tối và thằng Cash nằm ngủ trong nôi mà tay tôi vẫn đu đưa. Tôi đã nghĩ điều này ngay cả nếu nó thức dậy và khóc, tôi cho nó bú nữa. Anse hay yêu: không có gì quan trọng. Sự cô độc của tôi đã bị phá vỡ và sau đó nguyên lành trở lại bởi sự phá vỡ: thời gian, Anse, yêu, anh muốn gì, bên ngoài cái vòng này.
Rồi tôi thấy rằng tôi có thằng Darl. Lúc đầu tôi không tin. Sau đó tôi tin rằng tôi có thể giết Anse. Dường như lão đã lừa tôi, dấu trong một từ giống như trong một màng giấy và qua đó đánh vào lưng tôi. Nhưng sau đó tôi nhận ra rằng tôi đã bị lừa bởi những từ ngữ hơn là bởi Anse hay tình yêu, và cũng chính những từ này đã lừa cả Anse nữa, và rằng sự trả thù của tôi phải là lão không bao giờ biết tôi đang trả thù. Và khi sinh thằng Darl tôi bắt lão hứa khi tôi chết lão phải đưa tôi về Jefferson: bây giờ tôi biết rằng cha tôi đã nói đúng, vào lúc mà ông không thể biết là ông đã đúng, cũng như tôi không thể biết rằng tôi đã sai.
“Vớ vẩn,” Anse nói; “Bà với tôi mới có hai đứa, còn lâu mới thôi đẻ được.”
Lão không biết rằng lúc đó lão đã chết. Đôi khi tôi nằm bên lão trong bóng tối, lắng nghe đất bây giờ đã là máu thịt tôi, và tôi nghĩ: Anse. Sao lại là Anse. Tại sao ông là Anse. Tôi đã nghĩ về cái tên của lão hồi lâu cho đến khi tôi có thể thấy cái từ ấy như một hình dáng, một cái chậu và tôi thấy lão biến thành nước chảy vào đó giống như mật đường lạnh từ bóng tối chảy vào cái chậu ấy, cho đến khi chiếc bình đầy và đứng yên: một hình dạng có ý nghĩa sâu mà không có sự sống giống như một khung cửa trống không; và lúc đó tôi thấy rằng tôi đã quên tên chiếc bình. Tôi nghĩ: hình dạng của thân thể tôi khi tôi còn là con gái trinh là hình dạng của một [1] và tôi không thể nghĩ Anse, không thể nhớ Anse. Không phải tôi có thể nghĩ về bản thân tôi như không còn trinh, bởi vì tôi còn đây. Và khi tôi nghĩ Cash và Darl theo cách đó cho đến khi tên của chúng chết đi và hóa cứng thành một hình dạng và sau đó mờ đi, tôi nói, Thôi được. Điều đó không quan trọng. Người ta gọi chúng là gì không quan trọng.
Và như vậy khi Cora Tull bảo tôi không phải là một người mẹ thật sự, tôi đã nghĩ làm thế nào mà những lời nói có thể đi thẳng theo một con đường nhỏ hẹp, nhanh và vô hại, còn việc làm thì đi một cách nặng nề khủng khiếp như thế nào trên mặt đất, bám chặt vào nó, sao cho sau một thời gian hai đường thẳng đó cách nhau quá xa để cùng một người không thể đứng giạng chân từ bên này sang bên kia; và những từ như tội lỗi và tình yêu và nỗi sợ chỉ là những âm thanh mà một người không bao giờ có tội hay từng yêu hay từng sợ dùng để nói những gì họ chưa bao giờ có và họ không thể hiểu những từ ngữ ấy cho đến khi họ quên chúng đi. Giống như Cora, người thậm chí không bao giờ biết nấu ăn.
Bà ấy nói với tôi rằng tôi nợ các con tôi, nợ Anse và nợ Chúa. Tôi cho Anse những đứa con. Tôi không xin chúng. Tôi thậm chí không xin lão những gì lẽ ra lão có thể cho tôi: một người không-phải-Anse. Đó là bổn phận của tôi đối với lão, không cầu xin điều đó, và bổn phận đó tôi đã thực hiện. Tôi đã là chính tôi, và tôi đã để cho lão là cái bóng và tiếng vang của những lời của lão. Điều đó còn nhiều hơn những gì lão xin, bởi vì lão đã không thể xin điều đó và là Anse, sử dụng từ đó cho chính lão.
Và sau đó lão chết. Lão không biết rằng lão chết. Tôi nằm bên lão trong bóng tối, nghe mặt đất tối tăm nói về tình yêu của Chúa và cái đẹp của Người và tội lỗi của Người, lắng nghe cái im lặng tối tăm trong đó có những lời nói là việc làm và những lời khác không phải là việc làm, đó chỉ là những khe hở trong sự thiếu hụt của con người, trầm xuống như tíêng kêu của đàn ngỗng từ trong bóng tối hoang dã của những đêm xưa khủng khiếp dò dẫm trong những việc làm như những đứa trẻ mồ côi mà trong đám đông người ta chỉ ra hai khuôn mặt và bảo đây là cha mày và đây là mẹ mày.
Tôi tin rằng tôi đã tìm ra nó. Tôi tin rằng lý do của nó là bổn phận trước sự sống, trước dòng máu khủng khiếp, dòng máu đỏ khổ đau sôi sục trên mặt đất. Tôi nghĩ về tội lỗi như nghĩ về quần áo mà cả hai chúng tôi trưng ra trước mặt thiên hạ, về sự thận trọng cần thiết để ông ấy là ông ấy và tôi là tôi, cái tội lỗi rõ ràng và khủng khiếp hơn vì ông ấy là công cụ mà Chúa – người tạo ra tội lỗi – ban ra để thánh hóa cái tội mà Người đã tạo ra. Trong khi tôi đợi ông ấy trong rừng, đợi ông ấy trước khi ông ấy thấy tôi, tôi nghĩ ông ấy đã phục trang bằng tội lỗi. Tôi đã nghĩ về ông ấy như tôi nghĩ về tôi cũng ăn mặc bằng tội lỗi, ông ấy trông đẹp hơn vì quần áo mà ông ấy đổi lấy tội lỗi đã được thánh hóa. Tôi đã nghĩ về tội lỗi như quần áo mà chúng tôi cởi bỏ ra để nặn và ép dòng máu khủng khiếp thành tiếng vọng đau khổ của cái từ chết chóc cao trên không trung. Rồi tôi lại nằm với Anse – tôi không nói dối lão: tôi chỉ từ chối như tôi đã từ chối bầu sữa với Cash và Darl, khi chúng đã lớn – nghe mặt đất tối tăm nói những lời vô thanh.
Tôi đã không giấu giếm gì. Tôi đã cố gắng để không lừa dối ai. Với tôi sao cũng được. Tôi chỉ cẩn thận những gì ông ấy nghĩ cần cho ông ấy, không phải cho sự an toàn của tôi, mà chỉ như tôi ăn mặc tề chỉnh trước mặt mọi người. Và trong lúc Cora nói với tôi, tôi nghĩ rằng với thời gian, những từ ngữ chết cao cả dường như còn vô nghĩa hơn cả những âm thanh chết của chúng.
Rồi tất cả kết thúc. Kết thúc theo nghĩa ông ấy ra đi và tôi biết điều đó, lại gặp ông mặc dầu không bao giờ còn thấy ông vội vã và bí mật đến với tôi trong rừng, trang phục bằng tội lỗi giống như áo quần lịch sự đã bị thổi bay đi bởi tốc độ đi đến bí mật của ông.
Nhưng với tôi đó không phải là hết. Tôi muốn nói hết theo cái nghĩa bắt đầu và kết thúc, bởi vì đối với tôi lúc đó chẳng có cái gì bắt đầu mà cũng chẳng có cái gì kết thúc. Tôi thậm chí còn giữ cho Anse nín nhịn không gần gũi tôi, không phải là chỉ gián đoạn một thời gian dài, mà như thể chưa từng có chuyện gì khác xảy ra. Các con tôi chỉ là của riêng mình tôi, của dòng máu hoang dã sôi sục trên mặt đất, của tôi và tất cả những người đã sống, không của ai và của tất cả. Rồi tôi thấy tôi có Jewel. Khi tôi tỉnh dậy và nhớ được và phát hiện ra nó, nó đã hai tháng tuổi.
Cha tôi nói rằng lý do sống là để sẵn sàng cho một cái chết kéo dài. Cuối cùng tôi đã biết ông muốn nói gì, và rằng bản thân ông đã không thể biết ông muốn nói gì, bởi vì một người đàn ông thì biết gì về việc dọn dẹp nhà cửa. Và bởi vậy tôi đã dọn dẹp nhà tôi. Với Jewel – tôi nằm bên cây đèn, ngẩng đầu, nhìn nó và khâu cho nó cái mũ khi nó còn chưa thở – dòng máu hoang dã sôi sục và âm thanh của nó lặng đi. Rồi chỉ có sữa, hơi ấm và sự yên tĩnh, và tôi nằm trong im lặng chậm rãi, sẵn sàng để lau dọn nhà.
Tôi sinh cho Anse con Dewey Dell để bù vào thằng Jewel. Rồi tôi sinh thằng Vardaman để thay cho đứa con trai mà tôi đã cướp mất của lão. Bây giờ lão có ba đứa con của lão mà không phải của tôi. Và sau đó tôi đã có thể sẵn sàng để chết.
Một hôm tôi nói chuyện với Cora. Bà ấy cầu nguyện cho tôi bởi vì bà ấy tin rằng tôi mù quáng trước tội lỗi, muốn tôi cũng quì và cầu nguyện, bởi vì với những người mà tội lỗi chẳng qua chỉ là từ ngữ, thì sự cứu rỗi đối với họ cũng chỉ là từ ngữ mà thôi.
WHITFIELD
Bản dịch Hiếu Tân
Khi họ nói với tôi rằng bà ấy đã chết, suốt đêm ấy tôi vật vã với quỉ Satan, và rõ ràng tôi đã chiến thắng. Tôi thức dậy với sự tàn ác của tội lỗi của tôi, cuối cùng tôi đã nhìn thấy ánh sáng thực, và tôi khuỵu xuống thú nhận với Chúa và cầu xin Người hướng dẫn và nhận nó. “Đứng dậy,” Người nói, “Hãy tới cái ngôi nhà mà ngươi đã đặt điều nói dối, giữa những người mà cùng với họ ngươi đã xúc phạm Lời Ta, lớn tiếng thú tội của ngươi. Chính họ, người chồng bị ngươi lừa dối, sẽ tha tội cho ngươi, không phải Ta!”
Vậy là tôi đến. Tôi nghe nói cây cầu của Tull đã sập. Tôi nói, “Tạ ơn Chúa, Người Cai trị hùng mạnh, vì trong những nguy hiểm và khó khăn mà con sắp phải vượt qua con đã thấy Người đã không bỏ con, rằng việc lại thu nhận con vào trong cõi bình an thiêng liêng của Người sẽ còn ngọt ngào hơn. Xin hãy đừng cho con chết trước khi con xin được sự tha thứ của con người mà con đã lừa dối,” tôi cầu nguyện “đừng để con quá muộn, đừng để câu chuyện phạm tội của con với nàng thốt ra từ miệng nàng chứ không phải miệng con. Khi đó nàng đã thề rằng không bao giờ nàng kể nó ra, nhưng cõi vĩnh hằng là nỗi khiếp sợ phải đối mặt: tự bản thân con đã chẳng đùi kề đùi vật lộn suốt đêm với Satan đó sao? Xin đừng để con cũng mang tội của nàng phá vỡ lời thề trên linh hồn con. Xin đừng để dòng nước của cơn thịnh nộ mãnh liệt của Ngài nhấn chìm con cho trước khi con tẩy rửa được linh hồn con trước mặt những người mà con đã làm tổn thương.
Chính bàn tay của Người đã đưa tôi an toàn đi qua tên đỉnh lũ, đã chặn những hiểm nguy của dòng nước khỏi tôi. Con ngựa của tôi khiếp sợ, và trái tim của chính tôi yếu ớt run rẩy khi những cây gỗ và những thân cây bật rễ quật vào con người nhỏ bé của tôi. Nhưng linh hồn tôi: hết lần này đến lần khác tôi thấy chúng quay đi trong khoảnh khắc hủy hoại cuối cùng, và tôi cao giọng át cả tiếng dòng nước lụt, “xin Đức Chúa hùng cường, Vua của chúng con, cầu nguyện cho nàng. Bằng dấu hiệu này con xin tẩy sạch linh hồn con và một lần nữa trở về dưới sự che chở của tình yêu bất diệt của Người.”
Khi đó tôi hiểu rằng tôi đã được tha tội. Cơn lụt, những nguy hiểm đã ở phía sau, và khi tôi phi ngựa đi qua trên nền đất cứng và quang cảnh vườn Gethsemane[2] của tôi càng lúc càng gần hơn, và tôi nhẩm những lời mà tôi nên nói. Tôi đi vào nhà; tôi ngăn nàng trước khi nàng định nói; và tôi nói với chồng nàng: “Ông Anse, tôi có tội. Ông muốn làm gì tôi thì làm.”
Dường như điều ấy đã xảy ra. Linh hồn tôi cảm thấy tự do, bình yên hơn cả nhiều năm qua, dường như tôi đã trở lại trú ngụ trong hòa bình vĩnh cửu khi tôi phi ngựa đi. Ở cả hai bên tôi thấy bàn tay của Người, trong trái tim tôi tôi nghe thấy giọng nói của Người: “Can đảm lên, Ta ở bên con.”
Rồi tôi vào nhà Tull. Đứa con gái út của ông ta đi ra và gọi tôi khi tôi đi qua. Nó bảo rằng bà ấy đã chết.
Con có tội, ôi lạy Chúa. Người biết rõ nhất mức độ ăn năn của con và ý chí của linh hồn con. Nhưng Người nhân từ, Người chấp nhận ý định hành động của con, người biết rằng khi con nhẩm những lời thú tội ấy là con định nói với Anse, mặc dầu ông ta không có đó. Chỉ có Người, Đức Chúa toàn năng, đã giữ lại câu chuyện không cho thốt ra từ đôi môi đang hấp hối của nàng, trong khi nàng nằm xung quanh là những người yêu quí và tin tưởng nàng, thì con vật lộn với dòng nước và được cứu sống nhờ sức mạnh của bàn tay của Người. Con đội ơn Chúa, ôi Chúa toàn năng, con ngợi ca sự hào phóng và tình yêu cao cả của Người.
Tôi lại vào ngôi nhà của người vừa ra đi, nơi ở tồi tàn của người có tội nằm đó trong khi linh hồn bà đang đối diện với sự phán xử uy nghiêm và không thể thoái thác, xin hãy yên giấc ngàn thu.
“Chúa phù hộ cho nhà này,” tôi nói.

Bài giới thiệu của anh Nhật Chiêu hay quá
Có thể nói Khi tôi nằm chết là lịch sử nội tâm của gia đình Bundren, bắt đầu bằng cuộc hấp hối của bà Addie, rồi cuộc hành trình đầy phiêu lưu qua nước lũ và lửa thiêu trên những con đường uẩn khúc của Yoknapatawpha để đưa xác bà về nghĩa trang gia đình ở Jefferson thể theo di ngôn người chết.
________
Chi mot bai phe binh ngan ma Nhat chieu da dua vao nhieu thuat ngu moi doc dao nhu lich si noi tam. Nhung thuat ngu nay toi tin chac se ngay cang duoc nhieu nguoi su dung
Rất cảm kích là Sông Hà Thanh đã quan tâm đến cụm từ “lịch sử nội tâm”. Các bài điểm sách “Khi tôi nằm chết ” trên báo chí vừa rồi cũng đã dùng lại cách gọi ấy Sông Hà Thanh à
Con đường mà gia đình Bundren dấn bước dưới bóng của cái chết là hình ảnh thu nhỏ của Đường Đời. Con người bước đi trong cái bóng của đời sống và cái chết. Qua bi và hài. Qua nước và lửa. Qua mê và tỉnh. Qua dục vọng và đớn đau. Qua hợp và tan. Qua ước ao và thất vọng. Qua ngôn từ và hành động. Qua phi lý và nhân quả. Qua bất nhân và tình người. Qua hèn mọn và cao cả…
__________
Anh Nhật Chiêu viết phê bình hay quá
Nguyen Thi Mai ơi,mình cố gắng làm sao để độc giả tìm đến với Faulkner,Mai ạ. Rất cảm ơn Mai đã thích bài viết
Faulkner là tác gia mà tôi rất thích. Ông đào xới tận cùng cái gọi là con – người
Doc rat kho hieu nhung khong phai khong hay
Số lượng người vào đọc và để lại comt ở đây chứng tỏ Faulkner đúng là Faulkner!
Bài giới thiệu của anh Nhật Chiêu thật hay. Mỗi lần đọc W. Faulkner là mỗi lần có cảm nhận khác nhau.
“Mỗi lần đọc W. Faulkner là mỗi lần có cảm nhận khác nhau.”
Mình cũng như vậy Võ Xuân Đào ơi !
Những tác phẩm như thế này rất khó đọc,nhưng khi đã cảm thì nó như một thế giới ,mở toang ra với biết bao nhiêu điều thẩm sâu bên trong
Thế mới là “thế giới ” của W. Faulkner Diephoa nhĩ !
Dịch hay mà giới thiệu cũng hay
Cam on Hieu Tan da giup hieu them ve W. Faulkner!
Hai trích đoạn ,Hiếu Tân dịch rất có nghề
Tui là HT không phải là Hiếu Tân đâu nghen bà con
Bạn kí tên thế ngừ ta lại tưởng tui tự .. he he. Bạn là ai vậy, sao ẩn mình kĩ thế?
Thú thật trước đây tôi có đọc Âm thanh và cuồng nộ của Faulkner ,nhưng khó hiểu quá
Cung khong den noi kho doc lam
Nghệ thuật đọc Faulkner,chính là đọc lại nhiều lần ,phải không BNgan ?
Khó hiểu? đó chính là W. Faulkner!
… về thiên tài sáng tạo, về khả năng tạo dựng một thế giới tưởng tượng, trong đó thực tại dễ tiếp cận hơn thực tại thường ngày của đời sống, William Faulkner có ít người ngang hàng trong văn học hiện đại.
..văn ông khó hiểu, tối tăm và nghiêm trọng, và thường rất khó chịu đến nỗi nhiều tác phẩm của ông không được đọc rộng rãi, và chỉ mãi về sau tài năng siêu việt của ông mới được công nhận…(His writing is so difficult, obscure, serious and often disagreeable that many of his works were not widely read, the recognition of his highest powers was attainable only in perspective)
[ Sculley Bradley, ‘The American Tradition in Literature’]