Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Mười Một, 2011


Quách Tấn

 

 

Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc–nhất là âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa, thầm kín, những cái tế nhị, u ẩn của một tâm hồn.

Nhiều khi Tử phải bỏ nghĩa thông thường của chữ, bỏ cả văn phạm của câu, để cho thanh âm tiết tấu phù hợp với những biến chuyển, những rung động, những xao xuyến của tâm hồn–một tâm hồn mênh mông và đối với chúng ta có phần xa lạ–mà văn tự chính xác nhiều khi không diễn tả được thấu đáo, không diễn đạt đúng ý muốn của người thơ. Cho nên xem thơ Hàn Mặc Tử, nhiều khi không nên chấp ở chữ mà hại lời, không nên chấp ở lời mà hại ý. Và muốn nhận thức tình ý trong thơ được đầy đủ, thì phải thưởng thức nhạc thơ trước nhất, vì trong thơ Tử, nhạc đi trước mà ý theo sau, và có khi ý không ở trong lời mà ở trong nhạc.

Trong tâm hồn Tử, không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật giáo. Vì không có những bức thành kiên cố ngăn cách giữa tôn giáo mình và tôn giáo người, nên Tử đã đi tìm nguồn cảm hứng trong Đạo Bồ Đề. Và mặc dù tự xưng mình là “Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”, Tử vẫn không ngần ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật giáo và dùng trong văn thơ mình, dùng cả vào trong những bài có tinh thần Thiên Chúa giáo nhiều nhất. Như bài Thánh Nữ Đồng Trinh là một.

Bài này Là những lời Tử dâng lên Đức Maria để ca ngợi “ơn phước cả”, mà Thánh Nữ đã ban cho Tử trong “cơn lâm lụy”. Trong bài có những chữ “Từ Bi”, “ba ngàn thế giới”, là chữ của nhà Phật, dùng một cách sướng khoái:

Lạy Bà là Đấng tinh truyền thánh vẹn

Giàu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi

Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh

Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới

 

Hai chữ “Từ bi”, còn thấy dùng trong nhiều bài khác:

Thơ tôi thường huyền diệu

Mọc lên đạo từ bi

(Cao Hứng)

Trời từ bi cảm động ứa sương mờ

Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá

(Hãy Nhập Hồn Em)

Nhiều từ ngữ khác của Phật giáo, như “hằng hà sa số” “mười phương” cũng thường gặp trong thơ Tử:

Mây vẽ hằng hà sa số lệ

Là nguồn ly biệt giữa cô đơn

(Cuối Thu)

Đóng cửa mười phương lại

Dồn ánh sáng vào đây

(Điềm lạ)

Trời như hớp phải hơi men ngan ngát

Đắm muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương

(Nguồn thơm)

Nhưng đó chỉ là những dấu tích bên ngoài. Trong thơ Hàn Mặc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo:

Bay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất,

Và lùa theo không biết mấy là hương.

(Phan Thiết)

Trở lại trời tu luyện với muôn đêm,

Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả.

(Phan Thiết)

Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật, như “thành chánh quả”, “sông Hằng”, Tử vãi tung thơ lên tận sông Hằng (Phan Thiết). Ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời “Đao Lỵ”, trời “Đâu Suất” – những cõi Phật xa xăm, đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh trăng–chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình: con chim Phụng Hoàng vì Sân Si mà phải đoạn, và khi trở lại trời tu luyện thành chánh quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn vẹn, nên phải trở xuống trần gian, “nơi đã khóc đã yêu đương da diết” để mà “chôn hận nghìn thu” và “sầu muộn ngất ngư”.

Trong bài Phan Thiết, chúng ta còn nhận thấy rằng Hàn Mặc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ: những hiện tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hóa:

Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,

Trăng tan tành rơi xuống một cù lao

Hoá đại điện đã rất nên tráng lệ

(Phan Thiết)

Và cõi đời này–mà Phan Thiết là tượng trưng–là nơi đau khổ, là nơi “chôn hận nghìn thu”, là nơi “sầu muộn ngất ngư”. Vì nhận biết cõi đời là giả tạo, là nơi khổ lụy, Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà.

Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền

(Ngoài vũ trụ)

Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc

Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác

Rất phương phi trên hết cả anh hoa

(Ra đời)

Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,

Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo

(Đêm xuân cầu nguyện)

Những “ánh sáng vô cùng” “sáng láng cả mọi miền”, những tiếng “nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”, những điệu nhạc “rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác” những “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc”, ở trong Tử là vang bóng của “vô lượng quang” của “thiên nhạc”, của “hoa sen đủ màu sắc và đủ hào quang mọc trong ao Thất bảo” trên thế giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua kinh A Di Đà.

Tinh thần Phật giáo còn ảnh hưởng trong nhiều văn thơ của Tử, nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh thơ lấn đi, nên chúng ta không thấy nếu chúng ta không chú ý, không lưu tâm. “Ôi trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao? Lòng vô lượng đây không phải do phép màu nhiệm của Đấng Vô Thỉ Vô Chung?” (bài tựa Xuân Như Ý). Đó chẳng phải là chữ Tâm được thi vị hóa bằng những hình ảnh tượng trưng? Hàn Mặc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của Tâm (lòng vô lượng), mà biểu hiện mầu nhiệm là Mùa xuân thơm tho, trong đẹp, tràn lan khắp không gian (trời muôn trời) chen lấn vô tận hồn tạo vật, và tồn tại cùng thời gian (năm muôn năm). Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa Giáo, Tử đã quan niệm cái Tâm bất sanh bất diệt là Đấng Vô Thỉ Vô chung, và coi những hiện tượng do “lòng vô lượng” đã “đưa ra” kia là “công trình châu báu” của Đức Chúa Trời, nên Tử “cao rao danh Cha cả sáng”. Như thế Hàn Mặc Tử có phải là một nhà thơ của đạo Thiên Chúa? Nghĩa là Tử phải có một tín đồ dùng thơ để phụng sự tôn giáo mình? Thưa không phải. Tử tìm vào Đạo – Đạo Thiên Chúa cũng như Đạo Phật chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là Thơ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào để làm cho thơ thêm giầu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi cuốn, Tử đã thốt ra những lời có thể gọi là “phạm thượng” đối với những Đấng Thiêng Liêng mà Tử phụng thờ. Ví dụ đương quỳ trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi ơn cứu nạn, mà Tử dám nói:

Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ;

Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ

Bút tôi reo như châu ngọc đền vua

Thật chẳng khác nào đứng nói cùng một người ngang hàng ngang lứa hoặc Nàng Thơ! Thậm chí trong khi cầu nguyện lúc đêm xuân, mà chàng vẫn để tứ thơ ngang tàng theo hứng:

Ta chắp tay lạy quỳ hoan hảo,

Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian,

Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân

Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế

(Đêm xuân cầu nguyện).

Nghĩ đến những gì “giàu sang hơn Thượng Đế”, Tử biết là một tội lỗi lớn, nên tiếp đó chàng van lơn thầm nguyện:

Tôi van lơn, thánh nguyện Chúa Giêsu

Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối

Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi

Lời xưng tội vẫn không thật nghiêm trang thành kính! Trong khi viết những lời tạ tội, Tử đã nghĩ đến thơ nhiều hơn nghĩ đến Chúa, mặc dù Tử luôn luôn thờ Chúa trên thơ.

Còn đối với Đạo Phật? Hàn Mặc Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu, mà cũng không phải để tìm hiểu những gì cao siêu huyền diệu. Tử vào Đạo Từ Bi cũng như một lãng nhân vào vườn hoa nghìn hương muôn sắc. Vào không phải với mục đích của nhà vạn vật học hay nhà làm vườn, mà vào với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng thức những cái Đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu hương giống, cũng không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều hương lạ, nhiều sắc lạ, và chỉ biết trải lòng mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm khảm thỉnh thoảng trào ra ngọn bút những lúc Thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển hiện, khi thì ẩn tàng và tràn ra một cách tự nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ rưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng,

Và tất cả những gì đã thâu nhập được trong tôn giáo, trong Phật giáo, cũng như trong Thiên Chúa Giáo – một khi đã vào thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến thể, pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình. Tử thường nói cùng bạn rằng: “Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi dung hòa cả hai thể văn và tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chính là muốn làm giầu cho nền văn chương chung.”

Bởi vậy, khi đọc Hàn Mặc Tử, chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm động cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh.

(Nha Trang, mùa xuân Tân Sửu, 1961)

Read Full Post »

Cảm xúc thu về

    Nguyễn Thị Tiết

Thu đã về rồi phải không anh

Phố Thu xao xác lá trên cành

Sương Thu giăng nhẹ như hơi thở

Phảng phất hương nồng nụ hôn xanh

.

Đêm Thu man mác em nhớ anh

Trăng Thu bàng bạc chiếu qua mành

Em nghe tiếng gió ngoài song cửa

Ru giọt sương buồn rơi long lanh

.

Vọng tiếng ve sầu đón gió Thu

Lao xao mặt nước dưới sương mù

Thuyền tình neo bến chờ lữ khách

Đêm tàn vẳng tiếng nhạc vi vu

.

Thu về lòng em chợt ngẩn ngơ

Mưa Thu giăng mắc – dáng Thu chờ

Bóng anh theo gió- hồn Thu nhớ

Dệt mộng Thu vàng- những đường tơ.

8 – 2011

Read Full Post »

Ấm lạnh xứ người

Sương Nguyễn

Sáng nào bà Năm cũng dậy thật sớm , lo cho các con ăn sáng . Khi thì một chảo cơm chiên lạp xưởng, khi thì nồi bún riêu . Bà được con bảo lãnh qua hơn một năm rồi . Lúc mới qua , bà buồn lắm , con cái đi làm hết , bà mở cửa lớn nhìn hai bên hàng xóm , nhà nào nhà nấy cửa đóng im ỉm, không một bóng người đi qua đi lại . Con bà trước khi đi làm có dặn bà là không được mở cửa cho người lạ vào nhà , không được chạy qua nhà hàng xóm để nói chuyện . Ở bên nầy nhà người nào ngừơi nấy ở , tuyệt đối không được chạy qua chạy lại nhà họ như ở VN . Con bà có dặn bà cũng dư thừa , có biết tiếng Anh ,tiếng u gì đâu mà nói chuyện với người ta .Riết rồi cũng quen, bà ra sức trổ tài nấu nướng cho các con ăn , thì giờ còn lại bà làm bạn với những cuộn phim bộ Đại Hàn , cười cười, khóc khóc với những nhân vật trong phim .

Năm 1980 bà bán cái nhà cho thuê ở gần chợ Tân Định , gom được một số vàng cho bốn đứa con đi vượt biên . Nhờ ơn trời Phật phù hộ và phước đức ông bà để lại , chuyến đi trót lọt và hai năm sau đó ,các con bà được định cư ở Mỹ . Khi thằng Hai đã yên bề gia thất , các em nó đã ra trường, có việc làm ổn định , chúng nó hùn tiền lại mua một căn nhà lớn , 5 phòng ngũ , lúc đó chúng mới nghĩ đến chuyện bảo lãnh cho bà qua sum họp một nhà . Cũng may là bốn đứa con đều có công ăn việc làm ở gần nhà , không thôi bà phải khăn gói nay ở với đứa này vài bữa, mai ở với đứa khác vài bữa . Khổ lắm !

Xem xong một tập phim, khóc gần hết nước mắt vì mũi lòng với tình cảnh người cha trong phim . Thấy hai cô con gái khổ sở vì nghèo túng phải đi cầu cứu sự giúp đỡ của người cha giàu có của mình , bị cha đuổi ra khỏi nhà và rốt cuộc bị tai nạn chết dọc đường, bỏ lại hai cô con gái còn nhỏ bơ vơ, không nơi nương tựa . Bà xem đồng hồ , đã quá hai giờ , đến giờ nấu cơm cho các con . Bà lấy cá thịt, rau, trái cây bỏ trên quầy nhà bếp , chuẩn bị nấu cơm tối và làm bánh trái cây tráng miệng cho chúng .

Thằng Hai về trước tiên, kế đến con vợ nó . Chúng nó chun mũi lại, hít lấy hít đễ :

– Mẹ nấu cái gì mà thơm quá vậy mẹ ? Bữa nay mẹ cho chúng con ăn món gì vậy ?

-Mẹ đang làm bánh trái cây , bữa nay mẹ um lươn với bắp chuối, thịt sườn kho rim và canh chua cá bông lau .

Con Đào với thằng Kiên , Tuyền cũng vừa bước vào :

-Nhất mẹ rồi ! không ai nấu nướng ngon bằng mẹ của con .Từ ngày mẹ qua đến giờ con không có tốn tiền ăn vặt ở ngoài đường nữa .

Bà ngồi nhìn các con ăn mà thương chúng vô cùng . Đã lớn đầu mà còn ăn uống ham hố như hồi còn nhỏ . Gặp món gì ngon là chúng chỉa ngay món đó ăn trước và ăn ràu ràu như tầm ăn dâu . Không ai nuôi con dễ như bà , đồ ăn vừa nấu xong để trên bếp , quay qua quay lại là hết sạch, không đợi dọn lên mâm lên bàn . Con bà lúc nào đi học về cũng kêu vang đói bụng và lấy tô ăn ngay trên bếp . Bởi vậy, chúng cao lớn , dềnh dàng như người ngoại quốc , chúng nó bảo với bà nhờ vóc dáng như vậy vào làm việc chung đụng với người ngoại quốc , không bị họ ăn hiếp . Bà tuy buồn vì xa quê hương đất tổ, xa bà con hàng xóm láng giềng nhưng bù lại được sống gần gũi con cái là bà vui rồi . Ngày ngày chỉ mong chúng tan sở sớm về nhà để thưởng thức những món ăn mà bà đã bỏ cả ba bốn giờ để sửa soạn và nấu nướng công phu bằng lửa riu riu để cho đồ gia vị thấm vào thịt hay cá.

Nấu những món ăn thuần túy quê hương và có một hương vị độc đáo là sở trường của bà , bà muốn truyền nghề lại cho con Đào, nhưng con gái bà chả muốn học , nó dành hết thì giờ của nó để o bế cái vóc dáng bên ngoài . Bà thở dài , sang bên này,cái gì cũng ngược lại quê nhà , con gái chỉ chú trọng đến sắc đẹp và quần áo, tụi nó không chú trọng gì đến cái nết na thùy mị , đoan trang hay học nấu ăn ,làm bánh để chuẩn bị làm vợ , làm mẹ như thế hệ bà ngày xưa .

Bà cảm thấy mệt mỏi sau khi coi xong hai tập phim bộ liên tiếp, bà đứng dậy hé màn nhìn ra bên ngoài . Đường sá vắng ngắt, không một bóng người . Xứ sở gì kỳ cục ! Lạnh lùng như nước đá , giá như nhà hàng xóm có người chết trong nhà , nhà sát bên cạnh cũng không hề hay biết gì . Nếu không có đám con nít sau giờ học, chạy nhảy la hét rân bần ở sân trước , khu nhà tĩnh mịch trông giống như một khu nhà hoang vào buổi sáng .

Bà vào phòng lấy quần áo, chuẩn bị tắm rửa trước khi sửa soạn nấu bữa cơm tối cho các con . Bận quần áo xong , bà bước trệch ra ngoài miếng thảm lót, chân dẫm lên vũng nước ở ngoài bồn tắm, bà mất thăng bằng ,trợt té xuống, đầu đập mạnh lên thành bồn . Bà hôn mê bất tĩnh, không còn biết chi nữa .

Khi vợ chồng Lâm , Đào , Kiên và Tuyền về đến nhà , thấy bếp núc lạnh ngắt . Biết có chuyện chẳng lành, họ hốt hoảng chạy tuôn vào phòng tìm mẹ . Thấy mẹ nằm dài trong buồng tắm còn thở thoi thóp , Lâm gọi xe cứu thương nhưng đã trễ ,bà Năm đã biến thành người bán thân bất toại , nằm một chỗ, không tự lo cho mình được .

Sau khi xuất viện về nhà, bà Năm trở thành một gánh nặng cho các con bà . Chúng xin đổi ca làm , thay phiên nhau ở nhà để săn sóc cho bà . Khổ nhất là vấn đề làm vệ sinh cho mẹ , thật là khó khăn khi phải tắm rửa, gội đầu hay thay tả cho mẹ . Cuối cùng chúng đi đến quyết định là đem bà vào viện Dưỡng Lão . Dù nói không được, bà nhìn các con van lơn , nước mắt chảy dài , muốn nói

-Mẹ không muốn! Mẹ không muốn ! mẹ là người quê mùa, chất phát người ta sẽ khinh mẹ . Mẹ không ăn được đồ Mỹ ,các con hãy tìm người về nhà săn sóc cho mẹ .

Nhìn nước mắt mẹ chảy dài , các con bà Năm hiểu bà Năm muốn gì , nhưng chúng giả vờ như không hiểu vì chúng nó còn trẻ, còn yêu đời . Chúng không muốn mỗi ngày đi ra đi vào thấy một xác chết chưa tắt thở, nằm hiu hắt trên giường bệnh . Đưa bà vào viện Dưỡng Lão là xong chuyện

Đêm đầu tiên ở Viện Dưỡng Lão , bà Năm ngủ không được . Đèn mở suốt đêm ở ngoài hành lang, người bạn già người Mỹ ở chung phòng,khuôn mặt nhăn nhúm , đôi mắt buồn da diết , chốc chốc lại khóc nấc lên :

– Michael ơi ! sao con không vào thăm mẹ ? Michael ơi !

Bà cũng nhớ con nhưng bà khóc trong âm thầm lặng lẽ . Bà oán trách trời xanh cay nghiệt đã làm cho bà thân tàn ma dại , không cho bà cùng với các con đi trọn suốt đường trần .

Đến sáng họ dọn trước mặt bà một tô cereals với sữa và một ly nước cam . Bà thều thào ra dấu với người nữ y tá : cháo ! cháo ! nhưng cô ta không hiểu ý bà muốn nói gì . Bà uống cạn ly nước cam trong khi bụng đói làm cho bao tử bà cồn cào, khó chịu thêm lên .

Giữa trưa , cô y tá bưng một khay thức ăn đặt trên giường bà với một ly sữa . Bà ngồi nhỏm dậy nhìn mâm thức ăn , rồi lại nằm xuống . Đói lả người mà ăn những thứ đó ăn cũng không vô . Ai đời mà cho người già cả và bệnh nhân ăn đồ sống sít : rau dền Mỹ sống , nấm trắng cắt mỏng sống, một lát meatloaf ăn xảm lơ . Ít nhất họ cũng phải biết cuống họng người già không được bình thường, dễ bị sặc , chỉ ăn được những đồ mềm như cháo , cá, yogurt , soup hay khoai tây tán nhỏ . Bà vói tay lấy ly sữa uống sạch thay cho bữa trưa . Một giờ sau cô y tá quay trở lại , thấy mâm đồ ăn còn y nguyên, nghiêm khắc nhìn bà lắc đầu rồi đem đổ mâm đồ ăn vào thùng rác .

Ngày qua ngày , bà càng ngày càng tiều tụy . Tháng đầu tiên con bà vô thăm thường xuyên , mỗi lần thấy con , bà nắm lấy tay nó mà hai hàng nước mắt lăn dài . Bà ra dấu với nó là bà muốn về nhà . Chúng vỗ về .

-Má cứ ở đây ! người ta săn sóc cho má chu đáo . Họ có những dụng cụ y khoa đặc biệt có thể tắm rửa cho má dễ dàng . Về nhà tụi con bận phải đi làm , làm sao các con có thì giờ lo cho má được .

Họ lo cho má chu đáo lắm với những khuôn mặt lạnh lùng , không cảm xúc . Không dỗ , mớm đút mỗi khi người già trở chứng , không chịu ăn . Bỏ người già trần truồng trên xe lăn, cột chặt lại. rồi quây tròn dưới vòi nước , dùng bàn chải lớn thoa xà phòng , kỳ cọ khắp người họ , mặc cho mấy bà già la chói lói vì sợ nước , vì tia nước ra đầu tiên bao giờ cũng lạnh cóng , làm cho họ run lẩy bẩy . Đa số người Mỹ không thương hại người già yếu , họ chỉ quan tâm đến con cái hay con mèo, con chó nuôi trong nhà mà quên đi mất mình còn cha hay còn mẹ đang chờ chết trong viện Dưỡng Lão .

Trường hợp bà Năm không ngoại lệ . Đến tháng thứ hai , thỉnh thoảng chúng nó mới vô thăm bà mặc cho bà buồn tủi vì nhớ nhung các con . Bà gầy ốm thấy rõ vì không ăn được đồ ăn Mỹ . Ăn được hay không được , con bà chẳng quan tâm vì chúng đang hò hẹn, chuẩn bị xây tổ ấm mới và dọn ra ở riêng .

Liên gọi cho Đào : Cuối tuần nầy mình không làm thêm giờ phụ trội . Đào dẫn mình đi thăm bác gái đi .Từ ngày nghe tin bác bệnh tới giờ, mình không rảnh được một ngày để đi thăm bác .

-Mình có hẹn sáng mai đi biển với anh Luân rồi . Hay là bồ đi một mình đi, dễ tìm lắm . Từ Freeway 10 đi đường North Gessner qua khỏi Kempwood thì viện Dưỡng Lão nằm bên trái , phòng số 42 .

Thấy Liên bước vào phòng, bà Năm nhìn ngóng ra cửa, tưởng Đào đưa Liên vào thăm bà . Hiểu ý, Liên nói dối với bà .

-Đào bận làm thêm giờ cuối tuần, không đi với con được , con đi một mình .

Nghe tôi nói xong, bà rơm rớm nước mắt , không biết là vì tủi thân hay là vì biết tôi nói dối . Tôi lấy khăn lau nước mắt cho bà , xót xa nhìn bà gầy còm , da bọc xương . Tôi lột vỏ nho, lấy hột , đút cho bác ăn .

-Sao bác xuống cân nhanh quá như vậy ? Bác sĩ bảo bác chỉ bị tê liệt nửa người, cơ thể bác rất khỏe mạnh, không có bệnh gì khác .

Bác thều thào ra dấu : Đói ! không ăn được đồ Mỹ . Bác thèm canh chua , cá kho tộ, thịt kho .

Tôi hứa với bác ,lần sau vào thăm sẽ đem lén cho bác một ít và nấu thật mềm . Lời hứa của tôi đã không thực hiện được . Hai tuần sau đó tôi được tin bác mất trong viện Dưỡng Lão .

Tôi bước chân vào nhà quàn Thiện Tâm , trầm hương nghi ngút. Có các vị thượng tọa và các ni cô đang tụng kinh cho hồn bác được siêu thoát .Bác nằm thật an bình ,chung quang bác là những vòng hoa huệ ,cúc và hoa hồng trắng thơm ngát . Các con bác trong bộ đồ tang, nước mắt lưng tròng , sì sụp lạy trả những người khách đến thăm viếng . Khách thầm thì to nhỏ . Bác thật có phúc ! được con cái lo chu đáo như thế kia . Lần đầu tiên tôi thấy một đám tang có nhiều hoa như vậy ! Chắc cái hòm đó mắc tiền lắm thì phải ? Không một ai trong đám khách biết là người nằm trong hòm chết vì đói .

SƯƠNG NGUYỄN

Read Full Post »

Phận bạc


Truyện ngắn của Nguyễn Quang Quân

 

          Ở vùng Sông Tình, có người con gái họ Nguyễn xinh đẹp và nết na. Sinh ra trong một gia đình nho giáo, nàng cũng theo đòi đèn sách. Cha là một học sanh, học rất giỏi, lúc mười bảy tuổi đã vào trường Giáo phủ Tuy Viễn, mỗi năm hai kỳ sát hạch, văn tài của ông thường được các giáo thụ khoa bảng xếp hạng ưu. Nhưng học tài thi phận, dự hai khóa thi hương cũng chỉ vào được trường nhì. Tự nghĩ mình không có số khoa bảng, ông về nhà mở trường dạy học. Vì là người học rộng, tuy không đỗ đạt gì, nhưng được kẻ sĩ hàng phủ huyện nể vì, học trò thụ giáo rất đông. Người anh cả cũng được tiếng thông minh học giỏi, năm hai mươi tuổi trúng tuyển làm học sanh trường Đốc tỉnh, được các thầy ngợi khen và tin tưởng tương lai sẽ là ông Cống, ông Nghè của tỉnh, tiếc thay ông thất lộc sớm vì bạo bệnh, trong lúc tiền đồ đang rộng mở. Chỉ ba hôm sau, vợ ông cũng đi theo để lại trên đời một đứa con trai mà ngay lúc còn thơ ấu đã bộc lộ tư chất thông minh dĩnh ngộ.

          Tuy là thân con gái, nhưng từ nhỏ nàng lộ rõ vẻ thông minh, sáng láng, đã theo học chữ Nho từ cha, rồi anh cả mình trực tiếp chỉ dạy. Học đâu nhớ đó, tuy không đọ sức nơi trường thi, nhưng chữ nghĩa đủ hiểu sách vở thánh hiền, đối đáp văn chương linh lợi.

          Một hôm, nàng qua nhà anh cạnh đó để nghe lóm giảng sách. Thấy nhà còn đóng cửa, mà đám học trò thì đang bàn tán xôn xao. Nàng hỏi qua mới biết, học trò đến học, thấy nhà đóng cửa mà bên trong thì nghe có tiếng rúc rích và tiếng giường kêu ọt ẹt, các trò bấm nhau cười. Thầy nghe thế liền ra câu đối, bảo nếu đối được thì mới mở cửa cho vào học :
” Sĩ đáo ngoại gia, thầm bất thầm, thì bất thì, thầm thì thầm thì”.

          Các anh học trò trên tuổi nàng bí quá không biết đối sao. Nghe thế, nàng mỉm cười, hồn nhiên bảo: Thầy thương các anh nên chỉ ra một câu đối quen thuộc của dân gian. Thế thì các anh dùng câu này đối lại :

        ” Sư ngọa trung phòng, ọt bất ọt, ẹt bất ẹt, ọt ẹt ọt ẹt!”

          Quả nhiên, câu đối vừa đọc lên, đã nghe tiếng khen của thầy: “Được lắm!” và hai cánh cửa rộng mở, học trò mừng rỡ ùa vào phòng học.

          Đến tuổi cài trâm, nàng như một bông hoa đồng nội thơm nức sắc hương, bao nhiêu chàng trai nhìn ngó quanh nhà, bao đôi mắt dõi nhìn khi nàng bước chân ra khỏi cổng. Nhiều công tử nhà giàu trong phủ, ngoài huyện đánh tiếng mối mai, nhưng nàng vẫn thờ ơ, từ chối.

          Hôm đó, có công tử con nhà thế gia trong huyện, bạn học của anh nàng đến thăm. Hai người ngồi nhà trên luận bàn thi phú. Anh nàng muốn giới thiệu cô em gái giỏi giang của mình cho bạn, nên đã dặn trước vợ mình nhờ em lo trà nước tiếp khách. Nàng vừa bưng nước lên, rót trà mời anh và khách, thì khách đã sỗ sàng cất tiếng:

– Này, nghe tiếng cô em hay chữ, nhờ cô giải giúp chữ này nhé!

Nói xong, anh ngâm nga:     

Lưỡng Nhật, bình đầu nhật.
Tứ Sơn, điên đảo sơn.
Lưỡng Vương, tranh nhất quốc.
Tứ Khẩu, tung hoành gian.

          Đó là chữ gì vậy cô?

          Nàng lễ phép thưa:

         – Các anh là người tài cao, học rộng, hà cớ hỏi em chi? Nhưng thầy đã hỏi thì em xin đáp: Đó là chữ Điền.

         – Cô giải thích rõ xem sao!

         – Có gì khó hiểu đâu! Đó là chuyện cụ Trạng Mạc Đĩnh Chi đối đáp sứ Tàu. Câu đố có thể diễn giải như sau: Hai hình chữ nhất để bằng đầu, sóng hàng nhau – các cạnh của nó tạo ra chữ Điền. Bốn trái núi, điên đảo. Bốn chữ Sơn sắp ghép theo hai chiều, dọc – ngang, cũng tạo thành chữ Điền. Hai ông vua tranh nhau một nước. Hai chữ Vương ghép lại trên, dưới – cũng thành chữ Điền. Bốn cái miệng ở trong khoảng dọc, ngang – bốn chữ Khẩu ghép lại cũng tạo thành chữ Điền.

          Thì ra cô đọc sách nhiều, kiến văn rộng, biết được giai thoại này, nên có thể giải ngay một câu đố khó đã làm cả vua tôi nước Nam lúng túng.

          Chàng công tử ngẩn người ra nhìn cô gái, một mối xúc cảm dậy lên trong lòng: Cô ấy thật xinh đẹp và tài hoa, tiếng đồn quả chẳng sai! Sau lần gặp, chàng đã phải lòng cô gái, mấy tháng sau, chàng thưa chuyện với cha mẹ, xin hai thân hỏi cưới cô gái ấy cho mình. Hai nhà đều là thế gia trong huyện, môn đăng hộ đối, kết sui gia với nhau cũng tốt. Nhưng rồi….

          Lúc ấy gia đình nàng rơi vào cơn quẫn bách. Vợ chồng anh cả qua đời, để lại đứa con côi mà cha mẹ nàng phải nuôi dưỡng. Rồi cha buồn cảnh nhà cũng mất sớm. Gia đình trong cơn khủng hoảng, lâm vào hòan cảnh khó khăn, túng thiếu. Là thân con gái lớn, nàng phải trực tiếp săn sóc mẹ già, đứa cháu côi và đàn em bốn đứa sau mình.

          Bao nhiêu việc nhà, ruộng nương, vườn tược, một tay nàng quán xuyến. Thế là tuổi cập kê qua đi nhanh chóng. Quanh năm suốt tháng đầu tắt, mặt tối lo toan công việc gia đình, không làm dung nhan tàn phai, ngược lại nhan sắc nàng ngày càng ngời ngợi, rực rỡ như ánh trăng rằm, mười sáu sáng rỡ. Ba, bốn năm sau, nhờ đôi tay thu vén của nàng, cảnh nhà đã trở lại phong lưu, thóc lúa đầy kho, của ăn của để sung túc. Mẹ già nhìn đứa con gái lớn mỉm cười tự hào, nhưng lòng vẫn đau đáu niềm riêng. Sao con lại phải muộn chồng?

         Năm nàng mười chín tuổi, vâng lời mẹ và anh, nàng nhận lời kết duyên với một chàng thư sinh tân học, làm thư ký công sở, con ông Chánh làng bên. Ngày thành hôn, chú rể đau nặng phải võng đến nhà gái run rẩy làm lễ. Về nhà chồng, nàng một thân cáng đáng mọi việc, chăm sóc cha mẹ tuổi già và nuôi chồng đau yếu. Bệnh ông mỗi ngày một nặng, bao nhiêu thuốc thang cũng không chữa khỏi. Mấy tháng sau ông qua đời, chưa kịp động phòng với người vợ mới cưới!

         Cha mẹ chồng khóc thương con trai đầu xanh ra đi, thôi đành phận số. Nhìn đứa con dâu hiếu nghĩa đủ đường, lại càng áo não hơn. Ông bà vẫn khuyên nàng quên đi đau buồn, đi thêm bước nữa.

         Sau ba năm, nàng tái duyên với một ông học vấn tầm thường, nhưng tốt tính. Từ trước, ông vẫn mến mộ nàng, nhưng không dám hỏi. Lần này, trớ trêu thay, ngày cưới nàng đau liệt giường. Võng hoa cô dâu là võng đưa người bệnh, người nhà cố gắng dìu đỡ nàng làm lễ. Từ đó, ông chăm sóc người vợ đau yếu của mình hết lòng, cho đến ngày bà mất. Duyên số trêu phận má hồng đến cay nghiệt!

         Nghe đâu, đến phút lâm chung, nàng vẫn gượng cầm lấy tay ông, mắt nhòa lệ mà như mỉm cười, đọc câu thơ tuyệt mệnh:

                  Hai chồng, em vẫn còn trinh

          Phận sao bạc đến duyên tình trống không!

 

12.3.2011

 

 

 

 

 

 

Read Full Post »

Những đêm trắng

Trần Hoa Khá

Ảo ảnh trắng – ảnh: Hoa Khá

Đêm trắng trụi trần

Câu thơ hóa thân thức dậy

Chập chùng buồn vui không thể bất ngờ.

 

Đêm trắng mênh mông

Chảy dọc triền sông thao thức

Tiếng vạc nào loang lạnh sóng trăng sương.

 

Đêm trắng lặng thinh

Ai chong cuộc tình tự ngẫm

Vẽ nét phù hoa trên số phận đời mình.

 

Đêm trắng bờ vai

Tiếng rao khản dài góc phố

Ai bán giọt mồ hôi mua cuộc mưu sinh.

 

Những đêm trắng

Những đêm trắng nghìn trùng ký ức

Giây phút thiêng về nhóm lửa hồi sinh.

 T.H.K

Read Full Post »

Cứ đêm đêm hòn đá lại lăn lông lốc từ cửa kinh thành đến đập vào cửa nhà từng viên quan có chức sắc, từ hòn đá phát ra lời đòi mạng thống thiết
Để trở thành một địa điểm được nhiều người dân coi là linh thiêng, “hòn đá oán hờn” trong ngôi chùa Thập Tháp Di Đà (Thường gọi là chùa Thập Tháp) ở Bình Định có lẽ đã “góp công lớn” vì những truyền thuyết nửa thực nửa hư về nó được người trong vùng truyền tụng đời này qua đời khác. 200 năm đã trôi qua, hòn đá trắng lạ kỳ vẫn trơ trơ giữa sân chùa, vừa như một điểm nhấn cho cảnh quan, vừa như một chứng tích lịch sử.Chứng tích lịch sử

Ngôi chùa nằm ở phía Bắc thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận thôn Vạn Thuận (xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, cách TP.Quy Nhơn gần 30km và cách quốc lộ 1A khoảng 100m). Du khách đến vãn cảnh chùa nếu hỏi chuyện sẽ được các nhà sư ở chùa Thập Tháp kể cho nghe những câu chuyện ly kỳ, huyền bí liên quan đến những dấu tích lịch sử còn sót lại trong ngôi chùa cổ tự này.

Chuyện kể rằng, hơn 200 năm trước đây, khi chúa Nguyễn Ánh chiếm được thành Hoàng Đế, liền sau đó ông ta đã mở cuộc trả thù tàn khốc, nơi đổ máu đầu rơi nhiều nhất chính là chốn kinh đô xưa. Lúc ấy, Nguyễn Ánh chiêu dụ những người trong hoàng tộc nhà Tây Sơn ra đầu thú với lời hứa hẹn sẽ không trả thù; ai bị trọng tội thì hình phạt cao nhất là đày vào miền Nam khai khẩn đất mới; ai có tài sẽ được trọng dụng.

Để tránh phải sống chui lủi “ngoài vòng pháp luật”, rất đông người có quan hệ dòng tộc với nhà Tây Sơn ra trình diện. Nhưng ngay sau đó, Nguyễn Ánh trở mặt nuốt lời, mang ra chém đầu bất kể già trẻ lớn bé “những kẻ thù xưa” rồi chôn tập thể.

Đao phủ của Nguyễn Ánh kỳ công đi khắp các vùng, rồi tìm được một hòn đá lớn màu trắng tinh khôi mang về dùng để kê đầu các nạn nhân. Tảng đá ấy được đặt ngay cổng thành Hoàng Đế, quân lính và đao phủ đưa nạn nhân lên đó mà chém. Hàng trăm kiếp người đã từ giã cõi đời trên hòn đá này, nỗi oán hờn của người dân với bạo chúa chất cao như núi.

Nỗi oan khất, đau đớn của hàng trăm người như lặn vào tảng đá kia khiến sau đó, khi đã xong nhiệm vụ hành hình, dù bao nhiêu quân lính cũng không thể nhích hòn đá ấy rời khỏi chỗ đã giết những người vô tội. Truyền thuyết kể lại rằng, hàng đêm người ta nghe trong tảng đá vẳng ra tiếng than khóc ai oán, người dân và cả quan quân nhà Nguyễn Ánh không ai dám đi ngang nơi cổng thành.

Hòn đá kỳ lạ chất chứa căm hờn của hàng trăm người dân đối với bạo chúa Nguyễn Ánh

Dân gian thêu dệt nên câu chuyện, cứ đêm đêm hòn đá lại lăn lông lốc từ cửa kinh thành đến đập vào cửa nhà từng viên quan có chức sắc, từ hòn đá phát ra lời đòi mạng thống thiết. Cả vùng bất ổn, không chỉ những quan lại trong triều mà người dân sống quanh thành (nay thuộc xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn) cũng sống không yên. Quan lại sợ hãi, lập đàn cầu siêu giải oan nhưng đâu lại vào đấy.

Một ngày nọ, vị cao tăng trụ trì chùa Thập Tháp đến thành xin được lập đàn cầu siêu để giải nỗi oan khuất tày trời, lấy lại sự yên bình cho người dân trong vùng. Mừng như bắt được vàng, quan quân trong triều đón tiếp vị sư rất long trọng. Sau 3 ngày đêm kinh kệ, vị sư xin được mang hòn đá kia về chùa Thập Tháp. Kỳ lạ thay, lúc này chỉ cần 4 người khiêng nhưng hòn đá được chuyển đi nhẹ tênh, khác với việc trước đó cả trăm quân lính hè nhau di chuyển đi mà đá không nhúc nhích.

Hòn đá oán hờn

Các vị sư trong chùa kể lại, hòn đá được mang về đặt cạnh cây thị cổ thụ 300 năm tuổi nằm phía Nam tường thành của nhà chùa và được đặt tên là Hòn Đá Chém. Thế nhưng đã về đến cửa Phật mà nỗi oan khiên trong Hòn Đá Chém vẫn còn vất vưởng.

Nhà sư Mật Hạnh, người đã nhiều thập kỷ gắn bó với ngôi chùa kể lại, ngày xưa khi ông mới đôi mươi, vào những đêm mùa đông, trong thời tiết âm u, có lúc ông loáng thoáng nhìn thấy một phụ nữ mặc áo cụt trắng, quần đen bước ra từ hòn đá kia rồi đi đến chỗ đặt tấm bia di tích của nhà chùa. Khi chó trong chùa sủa ran là bóng người phụ nữ kia biến mất.

Nhà sư Mật Hạnh cười: “Thực sự thì cũng không dám khẳng định đó là ma hay chỉ là ảo ảnh. Cũng có khi do nghe nhiều truyền thuyết về hòn đá quá nên tưởng tượng ra ma quái mà thôi”.

Thời gian sau, vị cao tăng trong chùa có tên Phước Huệ một lần nữa chuyển Hòn Đá Chém vào để ngay bậc tam cấp bước vào khu Phương Trượng của chùa. Đêm đầu tiên chuyển hòn đá vào chùa, nhà sư Phước Huệ đang ngon giấc thì thấy có một vị mặc trang phục võ tướng hiện hình nói rằng: “Ông ỷ là đệ tử nhà Phật nên phá nhà tôi hả?”.

Nhà sư Phước Huệ hét to một tiếng khiến tất cả sư đệ trong chùa đều nghe thấy lao đến, mới biết sư phụ mình nằm mơ. Cũng có thể đó chỉ là nội dung những truyền thuyết được nghe trong ngày, đêm đến ám ảnh cả vào trong giấc mơ.

Người trong chùa còn lưu truyền lại những câu chuyện ngày xưa, những đêm nhà chùa tổ chức cúng hành binh, hành khiến hàng năm vào lúc nửa đêm 30 tháng Chạp, rạng sáng ngày mùng 1 Tết Nguyên Đán. Bàn thờ cúng được đặt ngay chánh điện, nơi đặt Hòn Đá Chém bên dưới. Trong mỗi lần cúng, đến khi đổ 3 hồi trống chiến là tự nhiên có một dải lụa trắng, tỏa ra ánh hào quang sáng rực xuất hiện bay lượn ngang chánh điện một lần rồi biến mất.

200 năm đã trôi qua, Hòn Đá Chém vẫn còn yên vị ngay cửa khu Phương Trượng của chùa Thập Tháp, cao khoảng 40cm, dài 1,5m, rộng 1,3m, 4 góc được đẽo 4 nét hoa văn đơn giản nhưng trải qua bao nhiêu vết bụi của thời gian, những hòn đá vẫn giữ được màu trắng sáng tuyệt đẹp của loại đá trắng không tì vết. Nếu không được kể chuyện về nó, thoạt trông không ai có thể ngờ trong hòn đá hiền hậu kia đã chứa biết bao nỗi oan khuất của hàng trăm mạng người là nạn nhân của bạo chúa Nguyễn Ánh ngày xưa.

Hòn đá chứng nhân lịch sử, lại gắn liền với nhiều truyền thuyết như thế nhưng không được thờ cúng, nay giản dị làm một bậc tam cấp cho người ta bước chân qua. Những nhà sư trong triều cho biết, oan khuất rồi cũng đã đi qua.

Ngày xưa khi dời hòn đá từ cổng kinh thành về chùa, người ta cũng chỉ có mục đích mong mỏi lớn nhất là làm dịu đi những oán hờn của người oan trái chứ không có mục đích dời hòn đá về đây làm vật thờ cúng. Đá lại trở về với công dụng của đá, ngày ngày du khách bước chân qua để nhớ lại bài học ngày xưa bạo chúa Nguyễn Ánh vì nuốt lời tàn độc nên cuối cùng đã phải trả giá đắt khi vương triều lụn bại, phải nhận một cái chết tức tưởi và bị lịch sử muôn đời coi như đối tượng “rước voi về giày mả tổ”.

Hòn đá oán hờn ngày xưa nay thành hòn đá hiền hòa, thành hòn đá xinh đẹp, thành hòn đá nâng niu bước chân du khách.

Trong tất cả những ngôi chùa ở miền Trung được xây cất từ thời các chúa Nguyễn, thì chùa Thập Tháp là chùa cổ nhất thuộc phái Lâm Tế. Chùa Thập Tháp là một trong 5 ngôi chùa của tỉnh Bình Định được chép vào sách Đại Nam Nhất Thống Chí với lời đánh giá: “Chùa này cùng chùa Linh Phong đều nổi tiếng là danh thắng”.Chùa được xây dựng trên một gò tương đối rộng hình mai rùa có chu vi gần 1km gọi là Gò Thập Tháp. Tên gọi này bắt nguồn từ chỗ nơi đây xưa kia có 10 ngọn tháp do người Chàm xây để “yểm hậu” cho thành Vijaya. Vào năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 nhà Lê (1683), một ngôi chùa khang trang được hưng công xây dựng mà vật liệu chính là gạch đá lấy từ mười ngôi tháp Chàm đã bị đổ.

Cho đến ngày nay, trải qua nhiều lần trùng tu, tái tạo, cái cũ và cái mới đan xen nhưng chùa vẫn giữ được tổng thể hài hòa, tôn nghiêm cổ kính. Năm 1990, Chùa Thập Tháp được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia.

Theo Pháp luật & Thời đại

Read Full Post »

Nhiếp ảnh gia Thụy Điển Lennart Nilsson đã dành 12 năm để chụp những
 bức ảnh về việc phát triển thai nhi trong tử cung. Những bức ảnh đáng
kinh ngạc được chụp với máy ảnh thông thường với ống kính macro, nội
 soi và kính hiển vi điện tử . Nilsson đã sử dụng mức độ phóng đại hàng
trăm ngàn lần vàphải”thao tác” ngay trong bụng người mẹ. Bức ảnh đầu
tiên của bào thai
của con người đã được thực hiện vào năm 1965.

1Incredible Photos: A Child is Born

Tinh trùng xâm nhập vào vòi Fallop
Incredible Photos: A Child is Born
Trứng của người mẹ
Incredible Photos: A Child is BornChúng có hẹn với nhau chăng ?

Incredible Photos: A Child is Born

Vòi Fallop
Incredible Photos: A Child is Born
Hai tinh trùng đang tiếp cận với trứng

Incredible Photos: A Child is Born

Con tinh trùng thắng trận
Incredible Photos: A Child is Born
Tinh trùng
Incredible Photos: A Child is Born
5-6 ngày sau.
Sự kết hợp đã phát triển thành một túi phôi, có chứa nhiều tế bào hơn,
và đang bước vào tử cung
Incredible Photos: A Child is Born8 ngày tuổi.
Phôi bào đang bám vào thành tử cung 
Incredible Photos: A Child is Born
Bộ não đang phát triểnIncredible Photos: A Child is Born
24 ngày tuổi.
Lúc này bào thai chưa hình thành bộ xương.
Chỉ có trái tim đang thoi thóp lúc 18 ngày tuổiIncredible Photos: A Child is Born4 tuần tuổiIncredible Photos: A Child is Born
4.5 tuần tuổi
5 tuần tuổi: Đã dài cỡ 9 mm.
Đã phân biệt được các lỗ trên gương mặt dành cho đôi mắt , lỗ miệng và lỗ mũiIncredible Photos: A Child is Born
40 ngày tuổi.
Hình thành lá nhau.
Cơ quan này kết nối phôi vào thành tử cung cho phép hấp thu dinh dưỡng,
loại bỏ chất thải và trao đổi khí thông qua nguồn cung cấp máu của người mẹIncredible Photos: A Child is Born
8 tuần tuổi.
Phôi thai phát triển nhanh được bảo vệ trong túi nước ốiIncredible Photos: A Child is Born10 tuần tuổi.
Mí mắt khép hờ. Trong một vài ngày tới nó sẽ nhắm hoàn toàn .Incredible Photos: A Child is Born
16 tuần tuổi.
Thai nhi sử dụng bàn tay của mình để khám phá cơ thể của mình và môi trường xung quanhIncredible Photos: A Child is Born
Bộ xương bao gồm chủ yếu là các mãnh sụn mềm dẻo
Mạng lưới các mạch máu có thể nhìn thấy qua làn da mỏngIncredible Photos: A Child is Born
18 tuần tuổi: Dài khoảng 14 cm.
Thai nhi đã có thể cảm nhận được âm thanh từ thế giới bên ngoàiIncredible Photos: A Child is Born
19 tuần tuổiIncredible Photos: A Child is Born
20 tuần tuổi: Dài khoảng 20 cm.
Lớp lông tơ , bao phủ toàn bộ đầuIncredible Photos: A Child is Born
24 tuần tuổiIncredible Photos: A Child is Born26 tuần tuổiIncredible Photos: A Child is Born6 tháng.
Vẫn còn 8-10 tuần nữa, do đó bào thai đang được chuẩn bị sẵn sàng để rời khỏi tử cung.
Nó trở lộn đầu bởi vì sẽ dễ dàng sanh ra trong tư thế nàyIncredible Photos: A Child is Born
36 tuần tuổi.

Còn 4 tuần nữa, em bé sẽ thấy được thế giới bên ngoài

Read Full Post »

Nếu anh biết một điều

Phương Phương

Anh ơi! Nếu anh biết một điều

Có một người yêu em hơn anh nữa

Người ấy nhớ em như anh từng nhớ

Cũng lo đến thắt lòng khi em buồn đau

 

Em sợ chúng mình phải mất nhau

Bởi những phút giây không kìm lòng thổn thức

Cố nén con tim thôi rạo rực

Để đừng chìm vào ánh mắt dịu dàng kia…

 

Nếu anh biết rằng người ấy cũng đam mê

Dẫu biết yêu em là điều không thể

Vẫn  đớn đau ghen hờn lặng lẽ

Với khát khao muốn hái cả sao  trời

 

Em yếu mềm – em mãi là em thôi

Em vẫn về với anh – bếp lửa hồng ấm áp

Đừng để em cô đơn nguội tàn lạnh nhạt

Dửng dưng lạc mất đường về.

 

Đừng đẩy em về với bờ bến xa kia

Em sợ phía sau em sẽ là vực thẳm

Để em được nhớ anh như ngày đầu nồng ấm

Để mình mãi là cơn khát của nhau.

 

Read Full Post »

Itala Elena Pucillo Trương

Cesare Pavese- cuộc đời và tác phẩm

Sự chọn lựa  tiểu thuyết “Mùa hè tươi đẹp ” của tác giả Cesare Pavese để dịch sang tiếng Việt trước hết  do giá trị văn học[1]  của tác phẩm và sau đó là tầm quan trọng  của tác giả trong nền văn học Ý trong thế kỷ XX .

Được viết từ 1949, bối cảnh là lối sống của lớp trẻ tại miền Bắc Ý sau thế chiến II, nhưng tính đương thời (contemporaneita’) của tiểu thuyết vẫn còn đậm nét vì phản ảnh sâu sắc hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong thời hội nhập : Cùng với tăng trưởng kinh tế là lối sống buông thả,  khởi đầu  cho sự đánh mất những giá trị đạo đức. Tính hiện thực và khả năng khai thác tâm lý nhân vật cũng được  tác giả  thể hiện qua cách viết và sử dụng ngôn ngữ khác lạ, đến nay vẫn còn giữ nguyên phong cách hiện đại.

*

Đến với các tác phẩm của Cesare Pavese chúng ta sẽ liên tục khám phá: Ngoài tiểu thuyết người đọc còn gặp nhiều bản dịch của các tác giả Anh, Mỹ và  trong cùng  thể loại  cũng luôn có  rất nhiều sự khác biệt. Sự  khác biệt này đã được tác giả tái tạo, bắt đầu từ  văn phong đa dạng, cách  xếp đặt các bối cảnh liên quan đến cách sử dụng ngôn ngữ phong phú… để người đọc khỏi nhàm chán  rồi dẫn họ nhận thức về những quan điểm khác bằng sự tế nhị và nhạy cảm của mình. Ngoài ra, có lẽ không phải là một sự tình cờ mà một trong những tác phẩm cuối cùng của ông lại là một tập thơ mang tựa đề “ Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em”, như một dự báo cho việc tự sát, một thông điệp mà cũng là lời từ biệt… đã làm tác giả nổi tiếng, và trở thành một trong những tác giả Ý được đọc nhiều nhất trong thế kỷ XX.

Trong những trang viết cũng như qua thư từ, rất nhiều lần Pavese nói về ước muốn được nổi tiếng, không chỉ riêng mình mà  còn cho  nơi ông ra đời, một ngôi làng chỉ có những túp nhà nho nhỏ và sình lầy.

Ông đã viết như thế này :

Quê  tôi  chỉ có những túp nhà nho nhỏ và bùn lầy, nhưng nó  nằm kề con đường liên tỉnh mà ngày nhỏ tôi hay chơi đùa. Xin nhắc lại, tôi là một kẻ có nhiều tham vọng, tôi muốn đi khắp  thế giới, đặt chân đến những miền đất thật xa  rồi quay lưng  và nói với người hiện diện:“ Các bạn chưa bao giờ nghe nói đến một ngôi làng chỉ có bốn mái nhà phải không? Đây, tôi đã  đến đây từ đó”.

Ngôi làng nhỏ đó có tên là Santo Stefano Belbo, thuộc vùng Langhe của tỉnh Cuneo, nơi Pavese đã chào đời vào ngày 9/9/1908. Nhưng ông đã sớm rời gia đình để sinh sống ở thành phố Torino, và trong lòng chưa bao giờ khuây khoả nỗi nhớ quê xưa.

Cha chết khi ông còn rất nhỏ và sự mất mát này đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của cậu bé, vốn nhút nhát nhưng cộc cằn và khép kín, tuy yêu sách vở và thiên nhiên nhưng luôn tìm cách cô lập mình với người khác. Sau khi chồng mất, với bản tính lạnh lùng và cẩn trọng, mẹ ông đã giáo dục con như một người cha khô khan và nghiêm khắc chứ không như một người mẹ ngọt ngào và  trìu mến.

Khi sống  và tiếp cận với  thực tại điên cuồng của một thành phố kỹ nghệ lớn và đầy sương mù như Torino, Pavese  càng biểu hiện tất cả những bất an sâu sắc về sự hiện sinh, những ám ảnh tâm lý và bắt đầu đi tìm kiếm sự chân thực.

Như tất cả những chàng trai trẻ, Pavese cũng mang trong lòng đầy mâu thuẫn và nhiều xung đột, với một sự nhạy cảm mà không giúp được gì nên ông hành động theo ý nghĩa tiêu cực và tự làm hao mòn những xác tín lên số phận của mình. Trong các bức thư của ông thường nhắc đến một thói tật vô lý, như một mời gọi cho sự tự sát, báo trước cho số phận bi thảm của mình. Có lẽ  chính vì nỗi bất an đó mà ông phải đi tìm một biện pháp khắc phục bằng cách thực hiện các thành tựu nghệ thuật, nhất là qua các tác phẩm văn học, giống như kẻ  “ Đi tìm thời gian đánh mất” của Marcel Proust.

Thiếu khả năng đối phó với cuộc sống,  ông đã gặp vô vàn khó khăn trong quan hệ giữa người và người; Sống, đối với Pavese đã trở thành một “nghề” cần phải học trong đau đớn và trong tình huống đó, nghệ thuật với ông đã trở thành một sự cần thiết nhằm thay thế sự sống. “Tôi đã học viết  nhưng chưa học sống” nên viết lách đã trở thành biện pháp duy nhất, khả năng duy nhất để ông biết mình đang sống và cảm thấy mình hạnh phúc dù chỉ trong chốc lát. Pavese viết : “ Chỉ khi viết tôi mới là người bình thường, quân bình và bình an”. Đối với văn học trong thế kỷ XX tính xác thực của thi ca được xác định bởi tầm nhìn phiền muộn của con người, được nuôi dưỡng  trong số phận đầy âu lo. Tính xác thực và cái chết với ông như đã trở thành đồng nghĩa, vì sống là “Chuẩn bị cho cái chết”.

Cùng với nhu cầu tuyệt vọng về tình yêu, khởi nguồn từ sự cô đơn và ý muốn vượt thoát sự cô độc, tự mâu thuẫn giữa những lời tuyên bố đầy kiêu hãnh về mình và ý thức về sự thiếu khả năng vui sống, Pavese  đã chọn văn học như một giải pháp nhằm giải quyết  các xung đột  nội tâm.

Tuy vậy trong các tác phẩm của ông cũng có vài lần ghi lại  hạnh phúc trong đời mình, đó là các buổi thảo luận trong các quán ăn với công nhân, với những người bán hàng rong, những con người  vô danh và tầm thường, nhưng về sau tất cả đều trở thành nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Ông luôn có cảm giác là mình còn trẻ, được tái sinh và trong những năm cuối cùng của đại học, bởi trong đời tư của ông có sự tham gia của một người mà sau này trở thành trung tâm của linh hồn ông: “ người đàn bà có giọng khàn khàn”. Cesare Pavese như bị biến đổi hoàn toàn: Trong suốt thời gian đó lúc nào ông cũng có cảm giác là người đàn bà ấy ở bên cạnh mình, ông  bỗng trở nên tử tế, nhân bản,  trìu mến, cởi mở với mọi người. Người đàn bà đó đã  mang  đến cho ông sự say đắm của tuổi thơ, khuôn mặt của nàng “như một đám mây”, nhưng đó là một áng mây ngọt ngào  bay giữa trời xanh lơ lửng trên những ngọn đồi của quê ông.

Năm 1930,  lúc chỉ vừa 22 tuổi ông tốt nghiệp đại học với luận án  về sự lý giải  thi ca của Walt Whitman và bắt đầu cộng tác  với tạp chí “ Văn hoá ”. Ông dạy học vào buổi tối ở các trường tư thục, nhưng đồng thời cũng dịch rất  nhiều tác phẩm văn học của Anh và Mỹ  và trong thời gian rất sớm ông đã nổi danh. Dường như những năm tháng trung và đại học đã giúp cho chàng trai cô độc  tìm được những  gắn bó bạn bè:  điều này giúp  anh  hiền hơn  trong các cuộc bút chiến và phẫn nộ trong văn học.

Năm 1931, chỉ vài tháng sau khi tốt nghiệp thì mẹ mất: vì chưa có dịp tỏ bày lòng ngưỡng mộ và chứng minh tình thương cùng sự trìu mến của mình với mẹ, niềm ân hận đó đã tạo nên một đường rãnh sâu sắc và cay đắng trong tâm hồn  tác giả. Còn lại một mình, ông chuyển về sống với cô em  Maria, và ở lại bên cô cho đến lúc chết.

Cũng trong năm 1931 bản dịch đầu tiên của ông “ Ngài Wrenn của chúng ta” của tác giả Sinclair Lewis được in ở thành phố Frenze. Việc dịch thuật có một tầm quan trọng không chỉ với cuộc đời tác giả mà còn cho nền văn học Ý nữa, vì nó đã mở ra một  cánh cửa cho một thời kỳ mới  của tiểu thuyết Ý. Với những bản dịch của mình, ông đã giúp người đọc biết được các chiều kích vô cùng lớn lao của lòng khao khát tự do, cùng với ý nghĩa bi thảm, xem  cuộc đời vô ích  và đến cả động tác cuối cùng của cuộc đời, tự tử.

Năm 1933  khi nhà xuất bản Einaudi   được thành lập và vì tình bạn với Giulio Einaudi, Pavese tham gia các dự án của nhà xuất bản với sự nồng nhiệt: có lẽ đây là những năm tháng tốt đẹp nhất của tác giả  cùng với một “người đàn bà có giọng nói khàn khàn”, một trí thức tốt nghiệp toán và tham gia tích cực trong phong trào chống phát xít. Vì liên can đến người đàn bà này, ngày 15/5/1935 ông bị bắt vì tình nghi chống phát xít, bị xử tù 3 năm và giam giữ ở Brancaleone Calabro thuộc miền Nam nước Ý.  Ba năm nhưng về sau được giảm xuống ít hơn một năm nhờ đơn ân xá, ông được thả vào tháng 3- 1936, nhưng sự trả tự do này  oái ăm thay lại trùng hợp với  sự thất vọng cay đắng của đời ông:  Người đàn bà mà ông hết lòng bảo vệ đến nỗi  bị tù đày vì không chịu khai danh tánh đã bỏ ông để lập gia đình với một người đàn ông khác. Kinh nghiệm  tù đày đớn đau ( sau là chủ đề của một quyển tiểu thuyết đầu tay của ông, “Nhà tù”) cùng với  sự thất vọng về tình yêu  đã quất ông những ngọn roi tàn nhẫn và đẩy ông  ngã vào một cơn khủng hoảng trầm kha, mãi nhiều năm về sau  vẫn còn ràng buộc vào cám dỗ đau đớn và luôn xuất hiện ý muốn tự sát. Ông tự khép mình vào sự cô độc, có lẽ còn tồi tệ hơn cả quãng đời thơ ấu.

Sau khi chiến tranh thế giới lần II chấm dứt ông ghi danh vào đảng cộng sản Ý nhưng sự tham gia của ông chỉ thuần văn học : Ông viết những bài báo và tiểu luận chủ yếu về đạo đức-dân sự, ông tiếp nối công việc ấn loát, tổ chức lại nhà xuất bản Einaudi, ông quan tâm đến  truyền thuyết và nhân chủng học,  thiết lập những lý thuyết về huyền thoại, và hoàn thành  tác phẩm “Đối thoại với Leucò .”

Về sau, khi chuyển đến La Mã làm việc ông có quen với một nữ diễn viên trẻ, Constance Dowling, khởi đầu cho một tình yêu mới. Có lẽ cô diễn viên trẻ đẹp và “khuôn mặt có nhiều đóm tàn nhang” này mới đầu đã thực sự yêu người đàn ông nổi tiếng, thông minh nhưng cũng dễ xúc cảm, quan hệ này đã hâm nóng tình yêu cho tác giả, nhưng về sau cô cũng bỏ ông để trở về nước Mỹ. Trong đau đớn tột cùng, Pavese đã   sáng tác và in thành một tập thơ mang tựa đề: “ Cái chết sẽ đến, nó có đôi  mắt của em…”

Sau trận thất tình này, cộng thêm sự khủng hoảng chính trị và tôn giáo đã làm Cesare Pavese thất vọng và hoảng hốt, nó xâm chiếm tâm hồn ông mặc dù lúc này ông đạt đỉnh thành công văn học ( 1938  tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được xem như tác phẩm rất hay) đến nỗi sự cô đơn và cảm giác trống rỗng làm ông không biết phản ứng ra sao. Mệt  nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn, ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn Roma tại thành phố Torino. Đó là ngày 27 tháng 5 năm 1950, để lại vỏn vẹn chỉ vài hàng ngắn ngủi trên trang nhất của  tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách  ban đêm: “ Tôi tha tội cho  tất cả và  xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều .” Năm ấy ông chỉ vừa  42 tuổi.

Tác Phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”

Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”  nằm trong luồng văn học biểu tượng.

Mùa hè  diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam  mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước  sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi  của mình.

Đây là câu chuyện kể về Ginia, một cô gái mồ côi  chỉ vừa 16 tuổi, từ miền quê chuyển về sinh sống trong thành phố Torino cùng với anh là Severino. Bối cảnh của tiểu thuyết là những năm tháng sau khi chiến tranh chấm  dứt. Tại thành phố này cô tìm được việc làm như người phụ giúp trong một tiệm may.

Ginia là một cô gái ngọt ngào nhưng không may mắn. Sự thơ ngây và trong sáng của cô hoàn toàn không đáng nhận một số phận bi đát và một sự  sỉ nhục tồi tệ trong  thành phố Torino xám xịt. Mới đầu cô bị thành  phố làm cho loá mắt vì nhịp sống của nó hoàn toàn khác với miền quê mà cô từng biết. Cô mong muốn yêu và được yêu.

Rất nhiều cô gái vào tuổi dậy thì, trong  các thành  phố cho là hiện đại, đến với tình yêu thật phiến diện, được thúc đẩy bởi tò mò nhiều hơn là bởi tình yêu. Họ đánh mất tiết trinh rất dễ dàng và mãi về sau họ mới nhận ra giá trị những gì mà mình đã mất. Và như thế  tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ” không chỉ là một câu chuyện  kể đơn giản mà còn là một cảnh báo cho các cô gái  trẻ, ngây thơ và dễ dãi. Ngay chính Pavese cũng đã định nghĩa là tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”  là chuyện kể  về  sự bảo vệ tiết trinh.

Ginia đã bị lôi cuốn vào một thế giới hoàn toàn trái ngược với cô: những chàng hoạ sĩ của thành phố Torino vào những thập niên bốn mươi của thế kỷ trước. Một bạn gái đã dẫn cô vào môi trường ấy. Cô bạn này, là một người dễ dãi và chỉ biết quan tâm đến tiền, cô ta ngồi làm mẫu cho các chàng hoạ sĩ. Trong môi trường ấy Ginia  đã làm quen với Guido, cô  ngưỡng mộ và yêu anh, nhưng về sau cô mới hiểu là tất cả những gì có xung quanh thế giới hội hoạ ấy chỉ là ảo ảnh.

Tựa đề ban đầu  của tác phẩm chính là “Chiếc màn ”, nhắc lại cảnh Ginia nhận ra mình bị lừa dối, bị gạt gẫm và chế nhạo… vì khi chiếc màn dùng để chia xưởng vẽ làm hai,  mở ra, Ginia mở mắt và bỗng hiểu ra tất cả. Bởi, núp sau bức màn đó còn có Rodrigues, một hoạ sĩ khác, đang lén ngắm cô khoả thân ngồi mẫu cho Guido. Hổ thẹn, buồn cười, trong  sự thất vọng, cô ngã vào vòng tay của Amelia, lúc này đã bị nhiễm bệnh giang mai từ quan hệ tình ái với một người đàn bà; biểu tượng của cái chết. Ê chề và  tuyệt vọng, nhưng Ginia hoàn toàn không có khả năng thích ứng với trò chơi tàn ác của cuộc đời, trong đoạn kết Ginia đã nói với bạn    “ Thôi mầy hãy dẫn tao đi”.

Tiểu thuyết “Mùa Hè Tươi Đẹp ”   rất đơn giản về cốt truyện nhưng có nội dung sâu sắc: Nó tượng trưng cho xung đột giữa sự ngây thơ ( Ginia) và sự hư hỏng, thoái hoá (Guido và Amelia). Sự đánh mất hồn nhiên của cô gái chính là bước chuyển biến  từ trạng thái hạnh phúc, rất tự nhiên của tuổi dậy thì đến một trạng thái khác, sự trưởng thành. Amelia là một nhân vật tiêu cực nhưng rất cần thiết để hoàn thành bước ngoặc này. Qua cô, Pavese đã tượng trưng cho sự chết như ông đã nhìn thấy: Tham vọng, độc ác, nhưng đồng thời cũng rất cám dỗ và mời mọc, đến nỗi nó được uỷ thác để dìu dắt một cuộc đời hồn nhiên và chẳng có chút liên quan nào. Như Ginia đã nhìn Amelia, tàn ác mà quyến rũ , cuối cùng đã   lôi cô vào một thế giới chưa từng quen biết.

Văn phong

Thời gian kể truyện ngắn hơn câu chuyện, bởi vì tác giả tóm tắt nhiều ngày trong một câu ngắn, với một nhịp điệu  vừa- nhanh.

Tác phẩm này được giới phê bình xem như thuộc  trường phái “tự nhiên” của Cesare Pavese, nó liên hệ đến ảnh hưởng của môi trường và hiện thực lên đời sống nhân vật.

Trong tác phẩm của Pavese văn phong hoà lẫn với tình huống thông qua sự xếp đặt con chữ, thả trôi theo nhịp điệu cảm xúc sống động trong thực trạng nội tâm. Nhân vật phản ảnh tất cả những gì mình nghĩ, chuyển tải lên trang giấy bằng một cú pháp thiết yếu cấu tạo bởi những câu nói rất bình dân được nhặt nhạnh  từ đời sống thường nhật, từ những lối ngắt câu trong các đoạn và từ  cách dùng câu đẳng lập [2]. Cách viết của Pavese trong tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp ”  có thể bị ngộ nhận là nghèo nàn, nhưng đó là sự nghèo nàn biểu kiến. Bởi  nó tương xứng với trình độ văn hoá của nhân vật và ngôn ngữ đời thường của họ. Chính nhân vật đã kể lại câu chuyện và đó mới thực là văn phong của tác phẩm.

Itala Elena Pucillo Trương

( TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài)

.

 

Vài nét về dịch giả TRƯƠNG VĂN DÂN
Quê ở Bình Định  Năm 1971- Du học ở Italia ngành Hoá và Công Nghệ Dược.
Từ 1980 Phụ trách về tổng hợp hoá dược và từ 1985, nghiên cứu và phát triển dược phẩm, dùng cho người và cho thú y.

Đã viết, dịch và cộng tác với các tạp chí trong và ngoài nước.
Tác Phẩm đã xuất bản :

Hành Trang ngày trở lại ( Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ, 2007)

Bàn tay nhỏ dưới mưa ( Truyện dài, PNB-Nxb Hội Nhà Văn, 2011)

Mùa hè  tươi đep   ( Truyện  dài, dịch từ nguyên tác “ La bella estate”  của Cesare Pavese, Italia)

Tác phẩm đang in :

Những ngày đánh mất ( Tập truyện dịch, gồm 20 truyện ngắn  và một truyện vừa của Dino Buzzati, Italia)


[1] Tác phẩm đoạt giải thưởng Strega năm 1950. Giải thưởng STREGA là giải thưởng văn học quan trọng nhất của Italia. Được trao giải hằng năm cho tiểu thuyết  hay tuyển tập truyện ngắn của các tác giả Ý. Giá trị hiện vật không nhiều nhưng giá trị tinh thần và giúp việc phổ biến tác phẩm rất lớn.Các tác giả Ý nhận  được giải thưởng này có thể kể : Cesare Pavese, Alberto Moravia, Mario Soldati, Giuseppe Tomasi di Lampedusa, Elsa Morante, Giorgio Bassani, Natalia Ginzburg, Primo Levi, Umberto Eco, Claudio Magris.   Tuy nhiên cũng có những tác giả nổi tiếng sau đây lại không nhận được giải : Italo Calvino, Carlo Emilio Gadda, Leonardo Sciascia.

[2] paratassi, parataxis

Read Full Post »

Nguyễn Thái Dương

 

 

Nuốt im lặng để giãi bày

Nén trăm năm tủi để giây phút mừng

o

Quê rằng xa, quán chẳng gần

Ghềnh che thác phủ, lòng ngân ngấn nhìn

o

Ao xóm dưới, giếng làng trên

Nhớ nhau, mặt nước bồng bềnh chao nghiêng

o

Mình đang xuôi dọc con thuyền

Sao đò người ấy trùng triềng sang ngang?

o

Gửi trôi vào lắng cũng đành

Gói hư vào thực để dành mai đây…

o

Mong tròn tháng, đợi tròn ngày

Không bằng mơ cạn một giây bất ngờ

o

Mai này mai một ngày xưa

Tiễn đưa nhau để chờ đưa tiễn mình

o

Miễu am mơ hóa miếu đền

Tường cao cổng kín nhớ phên giậu làng

o

Người chẳng nói, kẻ chẳng rằng

Lầm lì, lũ kỷ niệm giăng tơ lòng

o

Không còn có, không còn không

Khi ngơ ngác nhớ lúc thông minh buồn

o

Trời vô cảm, đất vô hồn

Cõi trần khả ố, cõi không khả ngờ

o

Kiếp nào quay tới… kiếp xưa?

Chiếc kim giây cứ… ầu ơ ví dầu!

o

Tình không thẳm, nghĩa không sâu:

Lòng không trước, dạ không sau đấy mà!

o

Ta vừa khách thể lòng ta

Lại vừa gia chủ hồn ma chưa lìa

o

Sớm ngồi mắt ngóng vào khuya

Đêm nằm hồn ngó vào bia mộ ngày

o

Vần đơn bạc, nhịp đơn sai

Câu thơ đơn chiếc thở dài tiếng kêu

o

Đò còn nợ bến chuyến neo

Ta còn ơn một đêm yêu chưa đền

o

Máu xưa chảy, ruột xưa mềm

Trời kia, cao, có nối liền đất kia?

o

Sông còn một nỗi nhiêu khê:

Xuôi ra biển? Hoặc ngược về nguồn xưa?

o

Bướm đêm ví thử khù khờ

Hương quỳnh ví thử… lẳng lơ gọi mời

o

Trăm năm bao cuộc, mặc người

Mình lưu ban suốt một đời trong nhau

o

Xanh trời quên thuở vực sâu

Nghìn trùng mới nhớ thời xao xác gần…


Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »