Bút ký của Huỳnh Kim Bửu
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt”
(Thơ Nguyễn Khuyến)
Quê nhà là con đường làng, cái bến sông ở trước nhà để cho khi ở nhà người ta yêu, lúc đi xa người ta nhớ. Quê nhà còn là cái hàng rào, cái cổng ngõ thân thương và bao thứ khác nữa. Tôi xa quê đã từ lâu mà chưa thể nào quên được cái hàng rào, cái ngõ quê. Cái hàng rào, cái ngõ quê có gì để cho tôi thương nhớ?
1. Ba tôi thuộc thành phần “thường thường bậc trung” ở trong làng, ông có ruộng cày, con trâu “làm đầu cơ nghiệp”. Ngôi nhà của ba tôi lợp ngói đỏ, ba gian hai chái ở giữa một khuôn viên rộng rãi. Hàng rào phía trước nhà trồng cây chè xanh, người quê tôi gọi tắt là hàng rào chè. Cây chè mảnh mai, phát triển nhanh và thường được ba tôi cắt tỉa cho thân hàng rào luôn gọn gàng, mặt hàng rào luôn bằng phẳng, hàng rào lúc nào cũng thẳng tắp, cao vừa tới ngực người. Ba tôi trồng thêm dọc theo hàng rào một hàng cau. Cau cho hương thơm ngào ngạt đêm trường, những buồng cau tươi sai qủa trong ngày các anh chị tôi lấy vợ, lấy chồng. Hàng rào phía sau nhà là một hàng tre, liên kết với hàng tre nhà láng giềng. Hàng tre nhà nọ liên kết với hàng tre nhà kia, cứ thế tạo thành lũy tre làng tôi.
Ông Cửu Hương có nhà chữ đinh. Các cụ bảo cất nhà chữ đinh cho có nhiều con trai. Hàng rào trước nhà ông trồng cây duối, thường gọi là hàng rào duối, lâu năm những thân duối to, hang hốc sù sì mà cành non thì mềm. Nghe nói, cơ ngơi, vườn nhà đó do nội của ông tạo lập, để lại cho ông thừa tự “ăn hương hỏa ở từ đường”. Người lớn bảo thế, nhưng đó không phải là điều khiến lũ nhỏ lên chín – mười chúng tôi để ý. Tôi và anh em thằng Cường để ý những chùm duối chín vàng mọng ẩn ẩn hiện hiện dưới những lớp lá xanh, thô nhám trên hàng rào của ông lúc sáng sớm. Trái duối xanh nằm trên cành đợi đêm mưa để chín và làm quà tặng cho lũ nhỏ chúng tôi. Ăn duối chín thơm, ngọt, mát nơi đầu lưỡi, đứa nhỏ nào mà chẳng thích. Ông Cửu Hương trồng xen vào hàng rào những cây xoan cao vút, tán xòe rộng, cách quãng năm thước đều nhau. Những cây xoan rụng lá về mùa đông và đến xuân thì mọc lá non và nở những dề hoa trắng, tím trên cao, nhìn lên trông mơ màng và lãng đãng lắm. Hàng rào sau của nhà ông Cửu Hương cũng là một hàng tre xanh như hàng rào sau của nhiều nhà khác ở trong làng.
Hàng rào bông bụt cũng dễ gặp. Chủ nhà không cắt tỉa kỹ hàng rào bông bụt vì muốn để cho nó vươn cao, nở những chùm hoa loa kèn đỏ thắm, hoa lồng đèn hồng phớt, xen nhau treo lơ lửng ở trước nhà. Dọc hàng rào bông bụt, nhiều nhà cũng trồng thêm mấy cây bông điệp để có hoa tươi mà bẻ cúng trong những ngày sóc vọng hàng tháng, ngày nhà có giỗ kỵ. Hoa điệp là hoa cúng “chủ lực”, khi chưa có hoa lay ơn, hoa đồng tiền… bày bán trên các chợ Bình Định, Đập Đá như bây giờ.
Má tôi làm lẽ mọn, bà không ở chung nhà chồng với mẹ lớn của tôi. Ngoại cho má một mảnh đất tư ở ngoài mé con sông chảy qua làng để má cất nhà ở. Nhà má là một cái nhà cặp tranh tre. Phía sau nhà có hàng rào là tre bờ sông rồi. Cậu Thừa tôi làm cho má cái hàng rào “miếng chả” trước nhà. Hàng rào miếng chả gồm những thanh tre chẻ bản rộng 4 – 5 ngón tay, cao chừng thước rưỡi, đầu vạt nhọn ghép chéo nhau thành những ô hình thoi, giống như những miếng chả lụa hay chả trứng tráng má sắp trên đĩa thức cúng ngày giỗ bà ngoại. Mặt trong hàng rào, cậu tôi dựng thêm một lần hàng rào rá cải bện bằng nan thân cau chẻ nhỏ, bản vài ngón tay. Nhiều nhà ở trong làng cũng dựng hàng rào miếng chả. Dưới chân hàng rào này không bị rợp bóng cây xanh, cho nên không ai trồng mà mọc đủ các loại rau cỏ tập tàng: “Rau sam vẫn mọc chân rào trước” (Hồ Dzếnh). “Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn” là chuyện tình nên thơ lắm, nó không phải là nỗi chia cách của hai người trẻ tuổi hàng xóm láng giềng yêu nhau. Vợ con tôi lâu lâu vẫn cho tôi ăn những bữa cơm có món canh rau tập tàng. Nhưng tôi vẫn ao ước được ăn một bát canh rau tập tàng má tôi nấu ngày xưa để có cái hương vị quê nhà. Rau tập tàng má tôi hái ngoài hàng rào nhà mình, con cua đồng nấu canh rau tập tàng má tôi bắt ngoài ruộng mình, đồng mình. Cái hàng rào miếng chả của nhà má tôi lâu ngày bị hư mục bởi nắng mưa, rồi đổ xuống. Chẳng bao lâu, dây bìm bìm leo lên trùm lấp. Cậu Thừa sang chơi, tiếc công mình và than câu “giậu đổ bìm leo” (thành ngữ) rồi chịu mất mấy ngày công dựng nó đứng lên. Hồi nhỏ, tôi chưa hiểu điều ví von thế thái nhân tình rất đáng buồn trong câu nói dân gian đó.
Cũng có nhà làm hàng rào song ly. Hàng rào song ly cũng dựng thanh tre như hàng rào miếng chả, có khác là những thanh tre ấy dựng thẳng đứng, song song, cách quãng nhau chừng một tấc, và cứ 3 thanh hợp làm một khung với 2 thanh hai bên thì liền, thanh giữa thì đứt đoạn để tạo thành quẻ ly trong bát quái.
Tôi yêu quê tôi, nhất là những khi đứng nhìn màu khói lam chiều vương vấn những hàng rào kia: “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt” (Nguyễn Khuyến).
Dinh cơ của quan hưu trí Nguyễn, quan hưu trí Trần thì hàng rào trước nhà xây đá ong như một bờ tường gấm hoa. Nàng Ngọc Hoa, tiểu thư con quan hưu trí Nguyễn, vẫn ở bên trong bức tường đó chờ người tài trai, mặc cho “ong bướm đi về”. Vùng An Nhơn quê tôi nổi tiếng, hai lần được chọn làm kinh thành của hai vương triều Chămpa và Tây Sơn (dấu tích còn lại là phế thành Đồ Bàn, rồi phế thành Hoàng Đế) cho nên đó là đất văn hiến, không thiếu các công tử con quan có tài cho nàng Ngọc Hoa xinh đẹp, có tài thơ kén chọn.
Hàng tre mỗi nhà cũng như lũy tre làng vừa làm hàng rào, bức tường thành che chắn, bảo vệ cuộc sống yên vui cho mỗi nhà, cho cả làng, vừa là nguồn nguyên vật liệu vô tận cho người làng tôi làm nhà ở, làm nghề phụ đương đát kiếm sống những khi nông nhàn. Bầu nan, thúng rổ, hom tre, nón trắng, cối xay lúa…làm xong đem bán ở các chợ quê, chợ huyện; hết Cảnh Hàng, Phú Đa, Gò Găng đến Gò Chàm, Cây Bông… Bầu nan, nón trắng bán ở chợ Tân An, Gò Găng không ai chê được:
“Cưới gái thì chọn làng An / Đương bầu, chằm nón lam làm khỏi chê / Trai khôn chọn gái có nghề / Khác chi con cá lội về ao sâu” (Ca dao).
Hàng tre sau nhà ba tôi treo lơ lửng vô số những tổ chim dồng dộc và dưới gốc những bụi tre thì chồn đèn, chồn bông lau đào hang, chim cuốc làm tổ…Mỗi chiều, đàn chim dồng dộc quen thuộc bay về rợp trời. Rồi chúng sà xuống lũy tre, đáp nhẹ vào tổ làm chiếc võng đưa mà ríu ran một bản hợp xướng nghe vui, cho tới khi những mảng xẩm tối của hoàng hôn về ngự trong những vòm ngọn tre. Trái lại, tiếng chim cuốc kêu “quốc, quốc…” đêm hè nghe rợn người và ai oán lắm:
“Năm canh máu chảy đêm hè vắng / Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ” (Nguyễn Khuyến).
2. Ngõ nhà ba tôi là một cái nhà ngõ mái – chái, xây gạch, lợp ngói, mở ra đường làng với cánh đồng làng ở trước mặt, tiếp đó là lũy tre làng và chân trời ở phía xa xa. Nhà ngõ có khung cột kèo và đà ngang bằng gỗ chống đỡ. Ngõ có hai cánh cổng bằng ván dày đặt trên cái ngạch gỗ săng. Nhiều nhà trong làng dựng cái ngõ bằng hai cột gỗ hoặc hai cột tre chôn sâu, cao quá đầu người và thả giàn bông giấy nở hoa tím, đỏ hoặc hoa hoàng lan nở hoa vàng làm mái ngõ. Mỗi khi sương sớm, sương chiều buông xuống, ngõ hiện lên một vẻ đẹp trong tranh:
“Có vườn gió nắng ngõ sương hoa” ( Yến Lan – Mừng bạn có nhà).
Cũng có nhà trồng hai cây gòn hoặc hai cây xoan làm trụ ngõ, tán cây xòe ra che mát trên đầu. Những trưa hè, người hàng xóm tới ngõ nhà ba tôi ngồi hóng mát, kết hợp chờ buổi gặt, buổi cuốn lúa nơi những đám ruộng của cánh đồng phía trước. Tôi thường rủ bọn Cu Tý, Cu Sửu hàng xóm cùng với tôi leo cột ngõ, đu xà ngõ mà diễn tích Tôn Ngộ Không phò thầy Đường tăng đi thỉnh kinh. Thật là tuổi thơ nghịch ngợm.
Có mấy nhà ngõ “xây” bằng cây xanh, thường là bằng cây duối, thân cứng dễ trụ, cành mềm dễ uốn. Chủ nhà uốn nắn, cắt tỉa theo ý mình cho thành cái “nhà ngõ” có nóc cao, mái, chái sắc cạnh. Ai cũng khen nhà ngõ nhà ông Năm Thiện là kỳ công nhất, vì trên nóc có cắt uốn bầu rượu, mảnh mây trôi vắt ngang qua cổ bầu rượu. Nhà ngõ xanh của nhà ông Hương Dĩnh không cắt hai mái xiên mà cắt một mái bằng, như chiếc lọng che, nhà ngõ xanh của nhà ông Quốc Hùng thì cắt tròn như cái dù cụ Lý đang che đi ngoài đường.
Nhà ai có vườn rộng cũng có hai ngõ: ngõ trước và ngõ sau. Ngõ sau nhà ba tôi mở giữa hai lùm tre giao đầu nhau, bóng tre trùm mát rượi. Ngày thơ, tôi thường được má dỗ dành giấc ngủ bằng lời ru:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau / Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều” (Ca dao).
Có phải đó là cảnh của các chị tôi ngày mới về nhà chồng? Tới tuổi bắt đầu đi học, đã được học những bài học đầu tiên trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, tôi thường thích ra chơi ngõ sau lúc trời trưa thanh tĩnh để mặc sức thả hồn theo tiếng cu cườm gáy, tiếng hàng tre kẽo kẹt trong mỗi cơn nồm thổi.
Người ở quê mở ngõ suốt ngày. Những khi tôi sang ở bên nhà má, đêm đến, má bảo tôi ra cài cánh ngõ lại. Cánh ngõ nhà má là một tấm khại tre đan, cột chặt bằng dây mây vào trụ ngõ là một đoạn thân tre cắm sâu xuống đất. Nhà phú hộ, nhà quan hưu trí thường “kín cổng cao tường”, có ai đến thì gọi ngõ. Ngõ là nơi, ông Huấn đạo Lê, thầy Đồ Cẩm niềm nỡ đón khách đến chơi nhà và lưu luyến tiễn khách lúc ra về. Bà Năm Quýt, bà Bảy Liễu là hai nhà láng giềng “gần nhà xa ngõ”, bàn nhau xẻ rào làm “trổ” để qua lại nhau cho thêm thân tình. Nhà nọ có giỗ, bưng mâm cỗ giỗ qua trổ “kiến” nhà kia. Hai nhà gặp khi tắt lửa tối trời vẫn “xin lửa” và “cho lửa” nhau qua trổ rào đó. Ngày nọ, mẹ con đàn gà mái của bà Bảy Liễu chui qua rào, bươi bới trốc gốc rễ rò hành, rò cải của nhà bà Năm Quýt, thế là hai nhà nẩy sinh mâu thuẫn. Từ hôm bà Năm Quýt kéo cành gai tre lấp trổ lại thì hai nhà “Đèn nhà ai nấy tỏ ngõ nhà ai nấy đi”. Chẳng biết vì lẽ tâm linh gì mà đám cưới các anh trai, ba tôi đều rước dâu vào lúc nửa đêm và cô dâu nào cũng cữ, không được qua ngõ trước, thậm chí ngõ sau cũng không, mà phải chui qua trổ rào mới mở để vào nhà chồng? Tôi thấy những đám cưới khác ở trong làng cũng làm vậy.
Tôi cũng yêu những bờ tường rêu phong, cổng tam quan viết nhiều câu chữ Hán của đình An Lương, chùa Bảo Tịnh… Ở những nơi đó còn in sâu bao kỷ niệm tuổi thơ của tôi với các bạn cùng trang lứa. Chẳng biết Tý, Cườm, Ngò, Cúc bây giờ ở đâu? Gia đình và cuộc sống đang như thế nào? Những đêm sáng trăng, lũ nhỏ tổ chức đánh giặc giả, bắn súng liên thanh, ném lựu đạn nổ tạch tạch, đùng đùng bằng miệng, mượn đình giả làm đồn giặc để tấn công, lấy chùa làm hậu phương để tiếp tế. Lũ nhỏ chơi như điên và đêm trăng thì cứ sáng soi vằng vặc. Những buổi ban ngày ban mặt, chúng rủ nhau trèo cổng tam quan bắt tổ chim non trong miệng các kỳ lân, sư tử đá; lẻn vượt tường rào, trèo cây hái quả bàng chín đỏ, quả sung xanh, quả me chua loét của đình, của nhà chùa. Tuổi nhỏ nghịch ngợm, bây giờ nghĩ lại thương mà hối.
Chẳng biết đã có mấy đời những bà mẹ già, người vợ trẻ quê tôi đã ngày ngày tựa ngõ, ngồi mòn cái ngạch gỗ săng cổng ngõ ngóng đợi con về, chồng về?
H. K. B

Những hình ảnh này chắc không còn nữa?
Viết bài về những giếng cổ coi bộ hay à nghen.
Bài viết đọc xong cảm thấy êm đềm quá.
Bài viết rất phong phú về làng quê ngày trước.
Mong anh Bửu viết bài về nhà cổ Bình Định.
Làng quê Bình Định qua nét chạm khắc của anh lãng mạn và thơ mộng quá
“Chẳng biết đã có mấy đời những bà mẹ già, người vợ trẻ quê tôi đã ngày ngày tựa ngõ, ngồi mòn cái ngạch gỗ săng cổng ngõ ngóng đợi con về, chồng về?”
Cám ơn anh Huỳnh Kim Bửu, chẳng những anh yêu quê hương mà còn thắp lửa quê hương trong trái tim bạn đọc.
Cám ơn anh. Mến.
Đọc bài viết tự nhiên muốn về quê ở quá anh HKB. ơi.
Bài viết thể hiện cái TÌNH của tác giả đối với quê hương – nơi chôn nhau cắt rốn, với biết bao kỷ niệm tươi đẹp thời thơ ấu …
… Quê huơng nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người …
Rất đặc sắc ! Cám ơn tác giả HKB !
Bài viết về cảnh vật nông thôn thơ mộng và đáng yêu quá . Cuộc sống ở đây thật là đơn giản và hiền hoà , thú vị thật .
Anh Huỳnh Kim Bửu viết về “Một nét đẹp làng quê” của Bình Định hay quá, với phong cảnh hửu tình có hàng rào bông bụt, cái giậu bồng tơi xanh rờn rất lãng mạn, dân làng hiền lành chân thật, cuộc sống thoải mái tự do giúp cho em hiểu thêm về quê hương thứ 2 mà em hằng yêu mến.
Cám ơn anh Huỳnh Kim Bửu, chúc anh vui, khoẻ, hạnh phúc nhé.
Thân mến.
Càng đọc càng yêu quê hương miền Trung nghèo khó trọng tình trong nghĩa!
Viết hay quá. Đọc hoài mà không thấy chán.
Quê hương có hay, bài viết của mình mới hay được. Cảm ơn bạn Tú Tàng.
Đọc bút ký chợt nhớ những hàng ché tàu quê nhà mà ngày xưa ba tôi đã tự tay trồng. Bây giờ cảnh cũ không còn nữa,ba tôi cũng đã đi xa thật xa!
Xin gắn lên ngực bạn một hoa hồng trắng.
Chỉ một cái bờ giậu mà nói lên biết bao nhiêu điều!
Tất nhiên có Cái giậu mồng tơi xanh rờn.
Quê hương Bình Định hiện ra trong bút ký êm đềm quá
Có quê hương êm đềm mới có quê hương hiện ra trong bút ký êm đềm! Chúc AT luôn vui khỏe.
Bài viết rất hay!rất sâu sắc về đồi sống nơi làng quê B Đ mình …thật là thấm đẫm & sâu lắng!
Viết về quê hương dễ thật phải không bạn TKL. Cảm ơn bạn nhiều.
hi…hi….. không dám dễ đâu! dễ đối với nhà văn TKB thì nó cứ tuôn ra rào…rào nên dễ! chứ đối với bạn đọc như TKL thì rặng một chữ vẫn không ra…. chỉ có đọc…thì rào rào…thì có!
Anh Huỳnh Kim Bửu đích thực là bảo tàng sống của sinh hoạt, tập quán và ngôn ngữ của nông thôn Bình Định. Nói vậy vì những điều anh viết thuộc vế BĐ it nhất nửa thế kỷ trước, khi những quan lại cuối cùng nhà Nguyễn còn sống, khi những tập tục cưới xin cổ truyền vẫn còn thịnh hành… Nếu không bảo lưu những cái đó chắc sau nầy không còn ai biết.
Về ngôn ngữ, thử hỏi có mấy học sinh trung học ở Quy Nhơn biết “rò” hành, ngò,…là gì, cái “trổ” nó ra sao? Nhân đây tôi cũng góp thêm: có hai loại trổ: trổ hàng rào (đã nói trong bài) và trổ ruộng là chỗ bờ ruộng được cuốc bỏ để tháo nước ra hoặc dẫn nước vào ruộng, “trổ” còn dùng như một động từ có nghĩa mở lối đi qua hàng rào, bụi rậm, tháo/ dẫn nước qua bờ ruộng… Nơi trổ ruộng thường đặt giẹp, lờ, đó để bắt cá.
Rất thú vị. Xin cảm ơn tác giả.
Tác giả xin cảm ơn cảm nhận của anh Thuận Nghĩa, người rành BĐ và có tâm huyết với quê hương.
Viết rất hay
Chào Thầy! Những bài tản văn, tạp bút, bút kí thầy viết về quê hương mượt mà và sâu lắng quá. Một làng quê tươi đẹp hiện ra trước mắt chúng ta làm cho chúng ta thấy yêu cuộc sống của mình hơn. Chúc Thầy an vui, may mắn.
Những sách của Minh Nguyệt bổ sung cho tôi nhiều lắm. Cảm ơn MN nhiều.
Một bài bút ký hay,giúp người đọc hiểu thêm về đời sống nông thôn trước đây.
Cái giá của sự phát triển quá đắt, bạn BNgoc nhé! Cảm ơn bạn nhiều.