Nam Thi.
Đó là một sáng cuối năm 1970 ở Sài Gòn.
Trên đường đến tòa soạn nhật báo Bưu Điện Sài Gòn ở đường Võ Tánh, như mọi ngày Yên Ba ghé quán cốc trước nhà thờ Huyện Sỹ đường Bùi Chu để điểm tâm qua loa, có khi chỉ kêu một ly café đen vừa nhâm nhi vừa suy nghĩ về công việc phải làm trong ngày. Thật ra, công việc của anh ở tòa soạn chẳng có gì quan trọng phải hao tâm tổn trí, bởi anh chỉ là một phóng viên mới vào nghề, thuộc loại “thiên lôi sai đâu đánh đấy”. Sếp của anh là một tay kỳ cựu trong làng báo, nổi danh là người “ bỏ Sài Gòn trong túi”, có vô số nguồn tin trong giới chính khách, chính quyền, quân đội, cảnh sát, thương nhân và cả giới ngoại giao, báo chí nước ngoài. Ông ta chỉ ghé tòa soạn sau 9 giờ sáng và làm việc khoảng một giờ để “làm tin”, chọn tin vedette, cắt đặt công việc cho đám thiên lôi như Yên Ba. Sau khi bài đã giao cho thư ký tòa soạn, đám phóng viên tự do “tan hàng”, chờ đến 4 giờ chiều mới biết báo in có được phát hành hay bị Bộ Thông Tin “hốt, cắt, đục” – hốt là báo bị tịch thu, cắt đục là bị kiểm duyệt một số đoạn hay cả bài. Nhưng đó là chuyện của các ông chủ nhiệm, chủ bút và ban trị sự chứ không liên can trực tiếp đến đám thợ viết như Yên Ba.
Thế mà hôm nay Yên Ba có chuyện đau đầu, chưa biết phải xử lý thế nào. Đúng là ách giữa đàng mang vào cổ. Hôm qua, tay phụ trách trang văn nghệ của báo nhắc anh, “ ông kêu Thạch Bi gửi tiếp bài cho feuilleton Mùa Hoa Lửa đi nhé, chỉ còn hai kỳ nữa thôi đấy”. Thạch Bi hứa về Tuy Hòa mấy bữa thăm mẹ đau rồi vào, viết sẵn bài để lại đủ đăng bảy bữa, ấy vậy mà nay chưa thấy mặt mũi đâu cả. Chính anh là người giới thiệu Thạch Bi với tòa soạn để cái truyện tâm lý xã hội nhiều kỳ nầy được lên báo. Chẳng có nhà văn nào viết sẵn để giao cho báo tập truyện mấy trăm trang. Những người nổi tiếng như nhà văn An Khê, Tế Xuyên,…mỗi sáng xách máy đánh chữ Olympia đến tòa soạn gõ ngàn từ đủ đăng trong ngày rồi qua tòa soạn báo khác gõ truyện khác.
Anh hy vọng Thạch Bi sẽ về hôm nay. Nhưng lỡ nó không về kịp thì sao. Suy đi tính lại, giải pháp tối ưu là viết thay cho hắn, “đá câu giờ” đến khi hắn trở về. Khổ nỗi, tuy cùng có bằng cử nhân văn chương nhưng anh chưa bao giờ cầm cây bút sáng tác thơ, truyện ngắn, truyện dài nên phải làm phóng viên cò con. Còn Thạch Bi ngay từ lúc còn học trung học đã có truyện đăng báo, được thừa nhận là nhà văn trẻ với mấy đầu sách. Nhờ cái “mark” nhà văn, hắn cộng tác với mấy tờ báo, tạp chí và lai rai đi dạy mấy trường tư quanh Sài Gòn, Gia Định, Hậu Nghĩa…kiếm tiền rủng rỉnh, lâu lâu lãnh nhuận bút đãi bạn bè cà phê cà pháo, bia bọt. Riêng anh, tiền của hắn xài chung. Vì vậy, bằng mọi giá ,anh phải cứu cái “Mùa Hoa Lửa” nầy.
Sau khi làm xong công việc trong ngày, Yên Ba ở lại tòa soạn đọc hết 56 kỳ báo của “Mùa Hoa Lửa” để biết Thạch Bi đã viết gì, câu chuyện phát triển đến đâu và văn phong thế nào. Thú thật, tuy là bạn thân nhưng anh ít khi đọc văn của hắn trừ những trường hợp buộc phải “chịu khó” đọc lướt qua để tán dóc lấy lòng hắn ở bàn nhậu vì dẫu sao hắn thường chi tiền. Lần nầy, anh không thể cỡi ngựa xem hoa được mà phải đọc kỹ, ghi lại các chi tiết quan trọng và tên nhân vật trên giấy.
Đến hơn ba giờ chiều Yên Ba nghiên cứu xong phần truyện đã viết của Thạch Bi. Té ra “hoa lửa” là hoa phượng vỹ, chứ không phải khói lửa chiến tranh. Đó là một câu chuyện tình tay ba trong giới sinh viên. Thúy, sinh viên sư phạm con nhà giàu, yêu Vinh sinh viên văn khoa, gốc Phú Yên ( cùng quê của tác giả) nhưng gia đình nàng không chấp thuận vì muốn gả nàng cho bác sỹ Lương, con một ông lớn giàu có. Vinh tuy yêu nàng nhưng là người tự trọng, nên đăng ký đi lính để giúp nàng dễ dàng quyết định. Nàng cũng không muốn mang tiếng ham phú phụ bần nên khi ra trường nàng chọn nhiệm sở là trường Tăng Bạt Hổ ở Bồng Sơn, Bình Định, một nơi nàng chỉ biết trên bản đồ, trên các sách địa chí mà chưa từng đặt chân tới. Nàng lựa chọn như vậy là tỏ thái độ phản kháng với cuộc hôn nhân ép buộc của cha mẹ và dứt khoát với Bs Lương. Ngoài ra, tình yêu với Vinh từ lâu thôi thúc nàng khám phá vùng quê hương của Vinh mà nàng thường nghe anh kể, vì Bình Định và Phú Yên không khác nhau mấy về ngôn ngữ, phong tục, tập quán…Nàng không cho anh biết quyết định của mình cho đến khi nàng nhận được Sự Vụ Lịnh của Nha Trung Học Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Biết tính nàng, Vinh không ngạc nhiên mà chỉ lưu ý nơi nàng sẽ đến là một vùng chiến sự ác liệt. Nàng cười: “Em có nghe bọn bạn nói thế. Nhưng ở đó người ta vẫn sống thì mình cũng sống được. Em nghĩ có thể ở đó người ta cần mình hơn…”. Nàng muốn Vinh cùng đi nhận nhiệm sở với nàng, giúp nàng sắp xếp chỗ ăn, ở. Vinh rất ngại nhưng không thể từ chối, nên xin đơn vị nghỉ phép thường niên để đi với nàng…
Thạch Bi viết đến đấy thì dừng …Cuối trang có ghi “Mai tiếp”. Hắn viết theo kiểu nhẩn nha để “lợi trang”, cắt những đối thoại giữa các nhân vật thật ngắn rồi xuống dòng, có khi để nhân vật độc thoại, có khi phân tích tâm lý. Mỗi trường đoạn như vậy lấp đầy ba cột báo dành cho truyện. Giống như truyện kiếm hiệp, tác giả đánh lừa sự suy đoán của độc giả để tạo sự thu hút, khiến độc giả phải bỏ tiền mua báo hằng ngày để xem câu chuyện tới đâu. Trong trường hợp nầy, độc giả sẽ đoán Thúy muốn rủ Vinh đi theo nàng để họ có điều kiện gần gũi vì nàng đã quyết tâm trao thân gửi phận cho chàng, đặt cha mẹ nàng vào sự đã rồi, đành phải chấp nhận cho họ lấy nhau. Yên Ba cũng nghĩ như vậy nhưng nếu tác giả không có ý đồ đó thì sao? Chính vì vậy, Yên Ba chỉ còn có cách “đá câu giờ” để chờ Thạch Bi, câu càng lâu càng tốt. Và đêm ấy anh bắt đầu gõ máy chữ để kịp sáng mai giao bài…
Chuyến bay DC.4 hai động cơ cánh quạt của Air Vietnam từ Tân Sơn Nhứt ra Quy Nhơn kéo dài hơn 2 giờ. Vinh hẹn Thúy ở phòng đợi phi trường. Thúy đã thận trọng không cho người nhà đưa tiễn để không ai biết có Vinh đi cùng. Chuyến bay khởi hành lúc 10 giờ sáng, họ dự định lưu lại thành phố Quy Nhơn đến hôm sau sẽ đi tiếp ra Bồng Sơn…
Đến 10 giờ tối, Yên Ba đã “vẽ” được hai kỳ báo mà máy bay vẫn chưa cất cánh. Hết tả cảnh chen lấn ở phòng đợi, rồi check-in,…Thúy gặp người quen trò chuyện, đến cảnh phi trường nhộn nhịp máy bay quân sự Mỹ lên xuống, vân vân và vân vân. Sáng hôm sau, anh nộp bài, đương nhiên anh không dại nói đó là “tác phẩm” của mình. Anh chàng phụ trách trang văn nghệ xem lướt qua, không một chút nghi ngờ mà còn khen: “ Cha Thạch Bi biết xài máy chữ rồi a, tốt lắm. Chả viết tay khó đọc thấy mồ tổ, bọn sắp chữ kêu trời luôn…”. Thật ra, Yên Ba không viết tay vì sợ lộ mặt chữ nên anh cố đùng máy chữ mặc dầu anh gõ chậm rề.
Hết hai kỳ. Yên Ba tiếp tục vẽ thêm hai kỳ nữa mà Thạch Bi vẫn chưa về. Suốt chuyến bay, do tiếng ồn của động cơ nên hai nhân vật không nói chuyện với nhau được, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng. Thúy tưởng tượng nếu máy bay rơi…Gia đình nàng sẽ rất ngạc nhiên khi được thông báo có Vinh cùng tử nạn. Nàng cảm thấy thích thú vì lúc ấy mọi người sẽ biết quyết tâm của nàng. Nhưng giá Thúy và Vinh may mắn không chết, họ trải qua những ngày trong rừng rậm chờ đợi người ta đến cứu…Biết đâu họ sẽ phải trèo đèo lội suối hàng tuần…Cứ thế, óc tưởng tượng của nàng trải dài suốt hai kỳ báo kế tiếp.
Họ thuê phòng ở khách sạn Việt Cường ở đường Gia Long, ngay trung tâm thị xã Quy Nhơn. Mai họ có thể đi bộ đến bến xe cách đó không xa, ngay đầu đường Võ Tánh. Thúy bất ngờ vì Vinh lấy hai phòng kế nhau. Nàng vẫn đinh ninh họ sẽ ở chung một phòng. Từ khi có ý nghĩ yêu cầu người yêu cùng đi với mình, nàng hồi hộp khi nghĩ đến cảnh họ lần đầu tiên ngủ chung giường. Đối với nàng đó sẽ là đêm tân hôn…Nàng thoáng thất vọng nhưng không dám nói ra với Vinh. Buổi chiều hôm ấy, họ đi loanh quanh trong thành phố, chiều tối cùng ngồi ngắm biển trước khi về khách sạn…
Vậy là Yên Ba đã “kéo” được sáu kỳ báo. Anh đâm ra khoái viết, trông về đến nhà gõ tiếp những gì anh đã nghĩ trong ngày, những hành động, đối thoại của các nhân vật chiếm trọn đầu óc anh. Anh biết đêm đầu tiên ở khách sạn Việt Cường là đêm dài bất tận của Thúy và Vinh và cũng là đêm gay go nhất của anh.
Thành phổ ngủ sớm vì giới nghiêm. Thúy và Vinh đều khó ngủ. Dĩ nhiên cả hai đều muốn gần nhau. Cả mười ngày nay, Thúy chờ đợi đêm nay. Vinh hiểu ý nàng nhưng thật khó khăn để anh quyết định ngủ riêng, vì anh nghĩ rằng Thúy sẽ là vợ anh một cách đường đường chính chính. Tuy vậy, đã mấy lần anh qua phòng nàng nhưng khi định gõ cửa thì anh lại thôi. Bên trong nàng nghe tiếng chân, chờ đợi tiếng gọi cửa để mở…Rồi nàng nghe tiếng cửa phòng anh khép lại…
Sau khi số báo chạy đoạn văn đó phát hành, tay phụ trách trang văn nghệ cằn nhằn: “Ông báo dùm cha Thạch Bi là độc giả phản đối quá trời…”. Yên Ba sốt ruột: “ Sao? Nó viết ẹ lắm sao?”. “ Đâu có. Có người gửi thư, gọi điện thoại phản đối vì chỉ có việc leo lên giường mà cả tuần chưa xong…Đây nè, ông xem đi”. Anh ta dúi cho Yên Ba mấy lá thư của độc giả, rồi nói: “ Vậy là tốt. Trước sau gì cũng xơi, dại gì gấp…Bảo Thạch Bi viết tới tới đi nhé”. Yên Ba thở phào nhẹ nhõm.
Để không làm độc giả “căng thẳng” quá mà vẫn có thể tiếp tục câu giờ, Yên Ba quyết định “cứu” Vinh và Thúy ra khỏi tình huống khó xử, có thể làm họ đứt gân máu như chơi. Trong khi họ đang trằn trọc thì xảy ra một cuộc pháo kích vào phi trường Quy Nhơn lúc 2 giờ sáng. Máy bay trực thăng vũ trang quần đảo. Đạn cà-nông của Mỹ phản pháo ùng oàng. Lần nầy Thúy tự mở cửa và thấy Vinh đứng hút thuốc ở hành lan. Hỏa châu từ những chiếc C.47 thả xuống nhập nhòa trong đêm. Dưới ánh sáng vàng vọt ấy, họ đứng sát bên nhau nhưng sự ham muốn đã lắng xuống tự bao giờ. Họ lan man từ chuyện nầy sang chuyện khác. Vinh nói với nàng về những đêm tiền đồn, về những chiếc C.47 Hắc Long “yểm trợ chiến trường” không chỉ thả hỏa châu nhiều giờ mà còn có súng minigun sáu nòng, bắn 6000 viên đạn/phút và 5 quả bom napalm, về những người bạn đã chết trận, về những trận đánh mà anh đã trải qua… Khi trời đã bắt đầu hừng sáng bên bán đảo Phương Mai, anh hỏi nàng: “ Em có bao giờ nghĩ anh cũng sẽ chết trận không?”, nàng đáp gọn: “Có”, rồi nàng nắm tay anh thì thầm: “ Em sẽ tiếp tục sống để nuôi con anh…”.
Với mạch truyện như thế Yên Ba có thể viết dài dài, nhưng cuối cùng Thạch Bi cũng trở về. Lẽ ra Yên Ba phải mừng vì thoát một “cái ách giữa đàng” như anh nghĩ ban đầu nhưng anh lại cảm thấy tiếc vì anh đã bắt đầu yêu thích việc viết lách và các nhân vật của “ Mùa Hoa Lửa”, giá như tác giả của nó vì lý do nào đó bỏ rơi nó thì chắc anh cũng vui vẻ tiếp tục cái “đêm dài vô tận” ấy cho đến chương cuối cùng.
Cuối năm 1975, anh mới có dịp hỏi Thạch Bi: “ Có phải lần đó mầy về căn cứ không? Mầy chưa trả tao tiền nhuận bút đó nhé”. Hắn gật đầu cười: “ Ừ, tao định đi một tuần, ai dè bị kẹt không ra được. Tiền nhuận bút gì nữa, đã nhậu với tao mấy lần rồi mà chưa đủ à. Thôi được, tao trả chầu cà phê nầy để bù lỗ…À này, hồi đó mà mầy cho hai đứa đó lên giường là kẹt tao. Hết xôi rồi việc. Còn gì để viết…”. Hắn lại cười hô hố.
Anh định hỏi hắn cặp Vinh và Thúy sau nầy thế nào nhưng lại thôi vì từ khi giao lại cho hắn“Mùa Hoa Lửa”, anh tránh không đọc truyện nên chẳng biết hắn viết tiếp ra sao. Tâm trạng của anh giống như người chủ cũ của căn nhà thân yêu đã sang nhượng cho người khác, tránh không trở lại căn nhà một thời là “của” mình*
* Nam Thi
“ Để tưởng nhớ nhà báo Huỳnh Bá Thành và nhà văn Đam San”. 22-9-2011

*** LỜI CẢM ƠN…VÔ TẬN !!! ***
Sau hôm nay, ĐDVT trở thành “bài cũ hơn” rồi. Vì vậy, NT xin một lần nữa các bạn xa gần đã đọc và bình luận.
Trong truyện nầy, tôi có ý định tái hiện một khía cạnh nhỏ của đời sống thị dân Miền Nam vào những năm chiến tranh ác liệt nhất, đặc biệt là lớp thanh niên ở cả hai bên chiến tuyến, bao gồm bản thân tôi lúc ấy.
@ Thiếu hai chữ quan trọng nhất trong dòng đầu: CẢM ƠN. Vui lòng đọc:
” Vì vậy Nam Thi xin một lần nữa CẢM ƠN…”
Sau hôm nay, ĐDVT trở thành “bài cũ hơn” nhưng vẫn còn nằm trong top các bài viết nổi bật
Đừng lo nghen nhà văn!
Nặng tính “báo” hơn “văn” thế? Thỏ Con nhận xét đúng lắm
@ Méo mó nghề nghiệp…huhu
Đây, Bộ Thông Tin muốn cắt đoạn này quá:
“hốt là báo bị tịch thu, cắt đục là bị kiểm duyệt một số đoạn hay cả bài. Nhưng đó là chuyện của các ông chủ nhiệm, chủ bút và ban trị sự chứ không liên can trực tiếp đến đám thợ viết như Yên Ba”.
Sao Nam Thi giải thích lòng vòng, cụ thể, nặng tính “báo” hơn “văn” thế?
Nhưng hoan hô tác giả đã xây dựng truyện trong truyện, đồng hiện, đan xen…hợp lý và lôi cuốn.
Thỏ chê trước khen sau.
Có mích lòng thì toàn sân ráng chịu. haha
Thỏ con…Hu….hu…
@ Thỏ con.
Mới kiếm củ cà rốt hồi chiều mà đã dụ được Thỏ Con. Chê đúng rồi, lẽ ra cái đoạn “hốt-cắt-đục” ấy nên ghi chú ở cuối bài hơn là đưa vào truyện. Lúc viết cũng biết vậy nhưng lười, rút kinh nghiệm cho…trường hợp tương tự.
Lâu không thấy Thỏ, qua sợ Thỏ bịnh vì mùa nầy gió bấc không tốt cho thỏ con.
Đang thu xếp để về một chuyến, thèm rượu vua rồi.
Sinh ra vào mùa lũ nên TC cũng quen với ngọn gió bấc rồi! Cảm ơn anh Nam Thi đã nhắc nhở
Ngày về xin đãi rượu Vua pha thêm tí mât…ong cho ngót, hôm nay uống rượu pha tí mật…gấu cho khỏe để đi về nhưng nhớ đừng chọi đầu TC nghen.
Văn báo bất phân mà bạn Thỏ Con. Những bài báo hay đôi khi đọc thích hơn những truyện ngắn tồi!