Bùi Đăng Khoa
Tôi sợ nhất là viết thư, mà đã viết rồi thì không bao giờ đọc trở lại cả. Ý tưởng vừa viết ra đó, chỉ vài phút sau, thấy sao mà “ngố” quá đổi. Nếu “sơn sửa” lại, đọc cho xuôi tai thì cả tuần sau, thư vẫn chưa chịu xuất gia đến thùng thư. Bởi vậy, nên thư vừa viết xong, vội vàng dán lại, gửi đi ngay. Tú tài I học ban B, tú tài hai ban A. Sau “hai Tú” lại “phải” theo học khoa học kỹ thuật. Văn không có, chương lại quên, chữ nghĩa lỏng bỏng…Tôi phục lăn mấy ông cầm bút, chuyện có it, lại xít cho nhiều. Tài thật! Ngồi chưa nóng đít, tôi phải đứng dậy đi cái đã. Từ nhỏ, tôi thích nói chuyện hơn viết. Tháng nào cũng bị phê trong học bạ: “Hay nói chuyện trong lớp”. Đâu phải chỉ chấp nhận lời phê là yên thân đâu, bị ngồi viết phạt dài dài từ 200 đến 300 lần câu: “Tôi không được nói chuyện trong lớp”, sau lúc tan trường hay cà ngày thứ Bảy, Chủ Nhật, trong lúc ngoài kia trời xanh, mây trắng, tiếng chim non chím chíp đợi chờ hay rạp Tân châu đang chiếu phim mới,mà mình phải ngồi đây chịu trận. “Em tập làm văn” bắt đầu từ lớp Ba, lớp Nhì. Nhập đề, thân bài, kết luận. Tả thú vật thì nhập đề rằng: Nhà em có nuôi một con mèo, lông nó vàng…Tả trâu, tả chó, thì cứ theo đó mà..nhập. Đến lúc tả người, vẫn áp dụng cái câu cố hữu đó, ai ngờ lại bị ăn hột vịt lộn (00/20). “Nhà em có nuôi một ông nội, râu ông dài…” Kể chuyện, thì chỉ có năm, bảy người nghe, viết thì có nhiều người cùng nghe, (đọc), vậy thì phải viết, nghĩ sao viết vậy, viết bằng con tim, viết bằng cảm nhận của tấm lòng. Tất cả chuyện cổ tích đều bắt đầu bằng chữ Ngày xưa… Câu chuyện tôi viết đây cũng xưa, viết để tặng những người xưa, để cùng tôi về lại Quinhơn trong tâm tưởng.
Tôi vẫn còn nhớ rõ… những ngày cuối cùng ở QuiNhơn là những ngày của tháng 11, tháng 12 năm 69. Từ Sai Gon tôi về thăm nhà, từ giã bạn bè lần cuối trước khi lên đường sang Đức. Mua một quyển sổ tay nhỏ, làm lưu bút kỷ niệm. Trước hết, ghé thăm “mấy em” mình có cảm tình nhất. Rồi đi từ giã thầy, cô cùng mấy thằng bạn. Quyển sổ tay tôi còn giữ, nhưng thầy, bạn bè xưa cũ không còn nữa, kẻ mất, người còn, phân tán mọi nơi. Đôi lúc lần dở đọc lại những bút ký cũ, tôi bồi hồi nhớ lại cố nhân năm nào. Với những em mìmh “chấm”, nuôi cảm tình nhiều nhất, tưởng sự chia ly người đi, kẻ ở ắt phải lâm ly, bi đát…Ai ngờ nàng để lại một dòng muốn “tá hỏa tam tinh”: Mong ông vui vẻ! H.”. Lạnh lùng, hờ hững…vui gì nổi mà mong. Thôi là hết anh đi đường anh!…Thầy Lương Trọng Minh viết: “Chúc em Khoa luôn luôn hào hoa phong nhã” Ý chết, sắp đi du học mà thầy chúc mình như thế, biết lúc nào mới ra trường? Tôi cười thầm vì những dòng sau đây của thằng Trần Minh Hoàng: “Trước giờ sang ngoại quốc. Mình không có gì hơn xin tặng bạn chữ ký để kỷ niệm về sau…” Thật qúi hóa! Trong túi không còn một đồng, đầu không còn một ý, nói chung lúc “kẹt” qúa, lấy chữ ký ra tặng. “Có còn hơn không”. Món quà tặng chữ ký của nó tôi vẫn giữ, Hy vọng nó làm được thống đốc ngân hàng, hay trở thành “Đại xì thẩu” ký tặng cho cái sheck xài đỡ…
Nghe mẹ tôi kể lại, là tôi được sinh ra ở Bồng Sơn, trong hầm trú bom. Vừa sinh ra, để tôi lên miệng hầm, thì bị máy bay pháp oanh tạc. May mắn là 10 phút trước đó, đã đem tôi đi khỏi chỗ trái bom rơi xuống đúng ngay chỗ nằm. Chết hụt như thế, số tôi sau này chắc thọ? Sau đó, mẹ tôi theo chồng về sống ở Đà lạt, đến lúc tôi được 4, 5 tuổi thì chia tay với ba tôi mang con về ờ tạm nhà bố mẹ ở Qui Nhơn. Thời gian sống ở Đà Lạt, không lưu lại một chút gì trong bộ óc nhỏ nhoi . Đến tuổi nào thì con người biết tri thức, sau khi trãi qua giai đoạn vô thức và nhận thức?. Qui Nhơn của những năm vừa tiếp thu, nghèo xơ, nghèo xác. Nhà Ông bà Ngoại là dãy nhà kiến thiết, ở đường Võ Tánh, tương đối khá tươm tất. Căn nhà này do cậu tôi mua để làm nhà từ đường. Mỗi lần giỗ quảy, con cháu tụ về nấu nướng làm giỗ, không biết giỗ ai? Lại cứ giỗ đều đều… Âu cũng là những dịp, để họ tộc trong gia đình gặp gỡ nhau. Còn tôi chỉ mê mấy món “đồ cúng”, giỗ ai cũng được. Cả ngày, mấy Dì, mấy Mợ loay hoay làm bếp nấu, chiên xào, thật là công kỹ. Tụi nhỏ chúng tôi chỉ chờ cho đến giờ xong cúng, là quây quần lại,đánh chén. Bình thường dễ gì có được mấy món ăn ngon? Sau nhà, ngọai tôi trồng giàn Bầu, ngợp mát lá xanh. Xa tí nữa, là cái nhà lá của Dì tôi, trước nhà Dì có cây me chua. Nơi đây là cái ổ gạo bài của hai ông anh họ tôi học thi tú tài. Không biết hai ông ấy muốn làm Tarzan hay sao mà “đóng đô” trên cây để học cho mát? Hay vừa học, vừa ngắm Jane đang ở trọ nhà hàng xóm? Cây me này không phải loại me dốt, trái mỏng, chua lè…Dân “sành điệu” nhìn vào là biết ngay. Me dốt có vỏ mỏng, thịt dầy hơn. Nhiều lúc nhạt miệng, tóm mấy lá me non, cho vào mồm, ngỏm nghẻm nhai, cũng ngon. Cạnh bên là chùa Thầy Năm. Một ngôi chùa nhỏ.. Thầy Năm là người trụ trì, trông nôm chùa, có thể chùa này do ông tạo dựng nên, nên gọi là Chùa Thầy Năm? Tôi không thấy ai làm Thượng Tọa, hay Đại Đức gì ở đó cả. Thầy Năm, dáng người ốm, gầy, nhưng dữ ơi là dữ, đối với ông, tụi trẻ bọn tôi sợ ông hơn sợ cọp. Quanh chùa, sau hàng kẽm gai, mấy cây me dốt hấp dẫn nằm trong sân chùa, những chùm me dốt đong đưa trước gío, nhìn đã muốn chảy nước dãi rồi. Muốn có me ăn, phải “pháo kích” vào chùa. Nhặt những hòn đá nằm rải rác đâu đó, cứ việc “pháo” đại lên cây. Không cần tính tọa độ, mà cứ mỗi lần pháo như thế, me rụng xuống như… sung (?). Lắm lúc, đạn lạc lên mái ngói chùa, kêu rổn rảng, thế là “Cọp thầy năm” không biết từ đâu phóng ra, tay cầm cái roi ra trận, miệng chửi bới tơi bời. Chỉ còn cách chạy thục mạng thoát thân, để mặc những trái me rơi nằm trên mặt đất như đợi chờ bàn tay ai cứu vớt.? Khổ một nỗi, nếu Thầy thấy được ai là thủ phạm, thế là Thầy đi “mắng vốn”. Ngày đó bảo đảm được một trận đòn nên thân.
Đêm QuiNhơn của những năm tháng xa xưa, thật yên tĩnh. Không một tiếng máy nổ (có máy , có xe nào đâu mà nổ). Đi đâu thì cứ xử dụng hai cặp gìo trời cho. Có được chiếc xe đạp, mừng quính quáng. Giàu hơn một chút nừa, thì đi Mobylette, Velo Solex. Cả tỉnh có đâu được vài chiếc là cùng. Mỗi lần có “khách xe đạp” đến nhà thăm, dựng chiếc xe ngoài cửa, lợi dụng ngay cơ hội tập cưỡi một vòng!. Gặp chiếc “xe máy đầm” thì đỡ khổ, gặp chiếc “xe đòn dông”. Hơi ái ngại! Cao quá, làm sao ngồi được trên yên? Phải xỏ chân qua cái đòn dông mà đạp. Cã thân người, đặt khỏi trọng tâm, thấp thỏm một bên, lúc cao, lúc thấp, theo vòng quay cuả cái pedal, như người làm xiếc. Chỉ biết đạp thẳng không thôi, không cua, không quẹo gì cả. Hết đường? Bước xuống, quay đầu xe lại! Tự học như vậy mà ai cũng đi được xe đạp, chưa kể sau này còn lượn Honda qua lại nhà em muốn chóng mặt!
Những đêm nằm ngủ, trên chiếc giường tre để ngoài sân lắng tai nghe “Chương trình nhạc êm dịu” , chương trình Nhạc ngoại quốc, Nhạc chiêu hồi với bài mở đầu chương trình.. “Tung cánh chim tìm vê tổ ấm… ” những lời nhạc như “Người ơi nước nam của người Việt-Nam…” , “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời …” phát ra từ cái radio nào đó nhà hàng xóm, âm hưởng như vẫn còn quanh quẩn bên tai.
Hôm nào trời qúa nóng, mang chiếc chiếu, mướn xe xích-lô, không phải đi một người mà cả 4,5 người, ngồi, qùi, nằm, đeo… chật cả chiếc xe, ra biển ngủ. Tội nghiệp ông xích lô, chỉ đẩy thôi, chứ đạp hết nổi! Thú ngủ biển ở QuiNhơn!
Bãi biển dạo đó, còn rộng rãi, sạch sẽ, thiên hạ “nằm biển” đông nghẹt như đi xem múa lân. Những cặp tình nhân chụm đầu, ngồi rải rác, xa xa mấy đám gia đình. Dưới những rặng Dương liễu, dưới những gốc dừa, tụi nhỏ rình mò lại gần phá đám bị đuổi chạy có cờ…Lúc gần về, nguời có chiếc chiếu đằng trước, đứng dậy giủ chiếu, bị người còn nằm trên chiếc chiếu đằng sau la hét om trời vì bị cát biển mịn bay vào mặt. Ngoài khơi, lưng tầm mắt Cù lao Xanh, bóng đèn dân chài Khu hai đi lưới đêm, như một chuỗi ngọc lấp lánh cuối chân trời. Sóng biển thí thào, dạt dào. Nhớ ơi là nhớ!
Thế rồi, mẹ tôi tìm được một căn nhà nhỏ ở đường Trần Cao Vân, trước mặt rạp hát Cọng Hòa. Gia đình tôi dọn về đó. Xóm Cọng Hòa! Căn nhà tranh thật nghèo nàn, đơn giản, nhà chỉ có hai phòng, phòng trước làm phòng khách, phòng sau làm phòng ngủ là hết. Sát tường sau, dựng những tấm phên tre, làm thành cái bếp, để nấu nướng. Vách nhà làm bằng đất sét, trộn với rơm, được tô lên một lớp đất sét mỏng, thoạt nhìn vào như nhà gạch xây. Mái nhà, cứ mỗi hai, ba năm phải lợp một lần. Tranh có hai loại: Một loại bằng rạ, một loại bằng lá dừa. Đôi lúc mái được lợp lại bằng lá dừa. Ôi, cái mái nhà này (vừa tranh, vừa dừa) nó “nuốt” của tôi ít nhất cũng bốn, năm cái răng hàm dưới. Đến tuổi, mấy cái răng sữa, tình nguyện giã từ thơ ngây, tự nhiên bị lung lay, thì cứ tự nhiên mà nhổ, bằng cách kiếm một sợi dây nhợ, một đầu cột vào cái răng, đầu kia cột vào cánh cửa. Thu hết can đảm… Đóng cửa cái rầm!!! Răng rụng xuống cầu ? Không! Răng dính toòng teng nơi sợi nhợ. Phương pháp nhổ răng này, tôi chưa từng thấy ghi chú trong Y-học. Nhổ xong, lấy muối “dịt” lại cái lỗ sâu hoắm, đang ra máu, để sát trùng thế là xong! Ngoại tôi dặn: Nếu răng hàm dưới rụng thì quăng lên mái nhà, cầu khẩn xin cái răng mới. Nếu răng ở hàm trên rụng thì thảy xuống gầm giường để chuột tha đi, sẽ có được cái răng mới (?). Bây giờ, tuổi đời chồng chất, hết còn răng sữa nữa để cầu khẩn xin răng mới, chỉ có nước đi Bác sĩ xin hàm răng giả, vừa đánh răng, vừa hút gío, mấy ai làm được?
Nơi đây, tôi đã trãi qua quãng đời tuổi nhỏ, nhớ mãi đến bây giờ. Nhớ đến những ngày tháng nghèo nàn, theo vận nước. Dạo đó Mẹ tôi buôn bán hàng vải ở chợ QuiNhơn. Trong nhà có cái máy may cũ kỉ hiệu Mitshubishi, đặt trong gian trước, mướn thợ phụ may, cắt. Áo quần may xong, được chất, xếp vào trong hai cái thùng thiếc khá to, rồi quảy gánh mang ra chợ bán. Tuy nhà nghèo, nhưng tôi và thằng em vẫn có quần áo tươm tất để mặc. Tôi nhớ mãi cái bộ Pyjama sọc xanh lá cây được sắm vào dịp Tết, mới tinh, còn thơm mùi vải, dài qúa khổ. Vì thông thường quần áo hay được “may trừ hao”. Con nít mau lớn, may khít khao, vừa vặn, thì năm sau phải sắm bộ mới, tiền đào đâu ra mà chi? Vẫn chưa hết, nếu năm sau nữa, mặc bị chật, thì bàn giao cho thằng em kế, rồi thằng em kế nữa…nếu bị thủng, thì vá, mặc tiếp đến lúc hết xử dụng được nữa, mới chịu đầu hàng. Ngọc Cẩm -Nguyễn Hữu Thiết đã diễn tã :”… Áo anh rách vai, quần tôi có hai mãnh vá… ” Nguyên do chắc là như thế. May qúa, nhà tôi chỉ có hai anh em, tôi là con đầu, được mặc trước, xài toàn đồ origine, mới cắt chỉ. Thằng em tôi, số mạng xui xẻo, sinh sau, đẻ muộn, phải xài đồ second-hand của tôi để lại . Những đêm trước Tết, sao nó dài vô tận, ngủ không yên, chờ trời sáng để diện bộ đồ mới. Trời vừa hừng sáng là tôi đã xúng xính trong bộ Pyjama mới tinh, đứng trước nhà…thưởng Xuân! Pyjama là bộ đồ ngủ, trước khi đi ngủ mấy ông Tây, bà Đầm mới mặc vào…rồi lên giường. Dân ta dùng nó để đi bát phố hay mặc trong nhà để quần tây, áo chemise đi bát phố khỏi bị…hao! Mấy tháng đầu tiên ở Đức, mỗi lần đi học Đức ngữ về, tôi vội thay bộ đồ Pyjama mặc trong nhà. Mấy người “bạn tây” lại thăm cứ hỏi tôi vừa mới ngủ dậy hay đang bị bệnh? Đâu biết tôi đang hãnh diện trong bộ Pyjama may bắng vải popeline mới đem từ nhà sang.
Hàng ngày, tôi thường đến thăm ngoại ở đường Võ Tánh. Nhiều lùc về trễ, tôi đứng đợi ở góc đường Tăng Bạt Hổ, Trần Cao Vân, trước cổng chùa Phật học, chờ ai đó, đạp xe đi về hướng nhà, vội tháp tùng, tay vịn cái bọt ba ga, chân chạy lúp xúp theo. Vì con đường Trần Cao Vân dạo đó, tối thui, không một ngọn đèn đường, sợ ma muốn chết. Hàng keo bên đường, lúc ban ngày thì xanh mướt, đến tối sao mà bí ẩn, dể sợ, gío thổi đong đưa những cành lá như những bóng ma muốn vồ chập.. Bà con hàng xóm còn đồn: Ở mấy cây keo có “con ma dú dài”mặc áo trắng, tóc xoả chấm đất, hay hiện ra nửa đêm, nhát người qua đường.
Hàng xóm chỗ tôi ở đồn rằng (lại đồn):
– Trong rạp Cọng Hoà có ma !
Tôi không biết có thật hay không ? nhưng chắc chắn là 7, 8 giờ tối là tôi hết còn bén mãng chơi trước rạp nữa.
– Nhưng có bao giờ “thấy nó” chưa ?
– Chưa!
Chỉ mới “nghe nó” mà thôi. Chứ “thấy nó” rồi chắc tôi đâu còn sống sót đến ngày hôm nay. Nhiều đêm nằm ngủ, tôi nghe văng vẳng tiếng vỗ tay từ rạp, rồi tiếng trống chầu và tiếng hát lơ lớ từ rạp vọng đến. Âm thanh nghe không rõ lắm, như từ một cõi xa xăm nào đó vọng đến…Dạo đó, còn có vài gánh Hát bội, như Gánh hát bội miền trung, thỉnh thoảng trình diễn ở rạp. Nhưng những đêm nghe những “tiếng động kỳ dị” này là những đêm rạp bỏ trống. Bà con ở rạp Cộng Hòa và trong nhà đều công nhận với tôi ở điểm này, Đến bây giờ, tôi không thể giải thích hiện tượng này thật sự có hay chỉ là một ảo tưởng trong giấc mơ? Hay chỉ là tiếng xào xạt của hai cây rục rạc trước nhà? Rồi một đêm nọ, trời mưa, gió khá lớn, cây đèn hột vịt để trên bờ tường phát ra ánh sáng yếu ớt, không đủ soi sáng căn phòng. Đang ngủ, tôi bỗng tỉnh giấc ví có tiếng động khác lạ trong phòng, rón rén, vén một góc mùng, nhín ra bên ngoài. Trời ơi! Ma! Đúng là Ma rồi, nó bay từ bên này, sang bên kia, đầu đội nón, mặc áo dài trắng toát. Vội vàng nhìn xuống dưới chân xem nó có đi hổng mặt đất không? C..ó! C..ó! Nó đi hổng mặt đất cả nửa thước! Hồn vía tôi lên mây hết, tay chân cứng ngắt, miệng khô đắng muốn hét lên, nhưng không tài nào làm được, tôi vội trùm chăn kín mít, nín thở, gỉa chết. Lỡ con Ma nó vén mùng lên xem xét, thấy mình ngủ như chết, chắc nó tha cho. Trong nỗi lo sợ, phập phồng, tôi thiếp đi…cho đến sáng. Mở mắt, thấy trời sáng, yên tâm, tôi vội vén mùng, nhìn ra. Con Ma vẫn còn đó, phất phới, đong đưa một chỗ, nhưng trông hơi quen thuộc. Số là, đêm qua mẹ tôi đi làm về, cởi áo dài và cái nón, móc vào cái móc treo áo, treo lên sợi dây treo đồ, chắn ngang phòng. Trời gío, thổi chiếc áo dài cả cái nón bay qua, bay lại. Trong cảnh tranh tối, tranh sáng, nó bay như thế, lại đi hổng mặt đất, đúng thực là Ma rồi chứ còn chối cãi gì nữa?.
Đôi khi ngủ, tôi bị “mộc đè” có cảm tưởng như ai đó đè lên người, chân tay không cựa quậy gì được hết, cổ bị bóp lại, phải vùng vẫy, kháng cự một lúc mới thoát. Ngoại tôi nói: Nếu cây bị dính máu của thợ chặt cây, mình lấy cây đó làm nhà sẽ bị mộc đè. Tôi không hiểu Mộc đó là gì? là ai? Là ma trong cây(?) Hay nằm ngủ ở một tư thế không thuận lợi, bộ máy tuần hoàn bị ứ nghẽn nên bị ngạt thở? Lạ một điều: (cô, hay Bà) Mộc? chỉ chịu đè tôi ở Việt-Nam không thôi. Chứ tôi đã sống và đã ngủ hai phần ba cuộc đời ở Âu châu, nằm đủ kiểu, đủ thế, nhưng chưa bao giờ tôi bị mộc đè như lúc còn ở nhà. Tôi không tin ma quỉ (nhưng cũng hơi sợ). Nếu có ma, tức phải có một thế giới vô hình nào đó. Những gì mình làm ác, làm bậy trong kiếp sống này thì hẳn kiếp sau phải trả lại. Nếu nói đến ma, trong số 100 người , có đến 101 người đã từng thấy ma, gặp ma, Nhưng vẫn phản trắc, lường gạt, hãm hãi người khác như thường. Không sợ kiếp sau phải trả nợ chăng? Tôi sợ nhất mấy con ma đang sống, chứ không sợ mấy con ma chân đi không chạm đất, những oan hồn vất vưởng…
Dần dà, mấy gánh hát bội miền trung chết lần mòn (một thời, thiên hạ chen nhau xem coi Tiết Đinh Qúi cầu Phàn Lê Huê, Trụ Vương-Đắc Kỷ…chật rạp). Những gánh cải lương từ miền Nam ra QuiNhơn trình diễn, thiên hạ mê cải lương, bỏ xem hát bội. Mấy con Ma hát bội chắc buồn lòng bỏ rạp đi đâu mất, tôi không còn nghe tiếng hát lơ lớ, tiếng vỗ tay và tiếng trống chầu vọng về giữa đêm khuya nữa.
Phong trào xem cải lương lên cao, liên tiếp nhiều gánh cải lương như Thanh-Hương, Kim Chưởng,Thanh Minh-Thanh Nga, Minh Chí-Việt Hùng…mướn rạp trình diễn. Tôi trở thành con ma mê cải lương! Ở trước rạp hát, đôi lúc cũng có lợi, tuồng tích nào cũng biết và thuộc lòng (học bài thì ít thuộc chứ tuồng cải lương thì khỏi phải hỏi) chẳng hạn như tuồng “Hồn thiêng sông núi”, “Bát cơm chan máu”, “Tình cây duyên lá”…Lâu lâu được vé mời, lại nữa, chờ thả cửa vào xem ké “đoạn cuối cuộc tình” không mất tiền! Đào chính, đào lẳng, Kép độc, kép chính mướn nhà quanh xóm ở. Làm Vua, làm Tướng, trên sân khấu, uy quyền một cõi. Hết tuồng, trãi ghế bố nằm ngủ ngoài hiên. Đâu cung vàng, điện ngọc? Đôi lúc, tôi rất ngạc nhiên vì thấy “tà tướng” mới chết trên sân khấu đó, Vãn tuồng, lại thấy “tà tướng” ngồi húp cháo gà rẹt rẹt cạnh bà bán cháo trước rạp. Chắc “hồn ma” cuả tà tướng cả ngày chưa ăn, nên đói? Cái bệnh mê cải lương của tôi kéo dài cho đến lúc tôi học Đệ thất, thì dứt hẳn. Nguyên do: Nhà tôi có được cái vé mời danh dự của đoàn hát Kim-Chưởng đang trình diễn ở rạp Kim Khánh, nhưng vì bận việc mẹ tôi không đi xem được, tôi được phép đi thế. Đang chễm chệ ngồi ghế danh dự (gần sân khấu nhất) bị ông soát vé, lôi cổ đuổi xuống hạng đứng, vì không tin tôi có được cái vé danh dự, mặc bao nhiêu biện bạch, phân minh cùng chứng cớ. Từ dạo đó, tôi ghét xem cải lương, ghét luôn 6 câu vọng cổ, ghét cả tuồng tích, thấy cải lương…” sến”! Mới thấy là:
Thương em, thương cả đường đi
Ghét em, ghét cả tông ti họ hàng
Phải tôi ghét tông ti họ hàng nhà cải lương. Tôi quay sang mê xem Ciné
Thỉnh thoảng ở rạp Cộng Hòa chiếu phim đen trắng như phim “Bích câu kỳ ngộ” (vào cửa 5 đồng). Lúc ấy tôi khoảng 11, 12 tuổi mà mê nữ nghệ sĩ Kim-Cương như điếu đổ. Thật ra là tôi mê nàng tiên Giáng-kiều từ trong bức tranh bước ra, lau nhà, phủi bụi, nấu cơm cho anh chàng thư sinh Tú Uyên đi học về ăn, khỏi phải nấu nướng gì cả. Khỏe re! Tiên ơi là tiên! Sao mà đẹp lạ lùng…Mau chóng lớn, lấy Tiên.Trước rạp, dạo đó có ông chiếu phim lưu động, nguyên cả “rạp ciné” nằm trên chiếc xe đạp, gía cả rẻ rề, chỉ có 5 xu. Nhưng mỗi lần chỉ có ba người xem được qua ba cái lỗ, khoảng 1, 2 phút là hết phim. Nguyên tắc chiếu phim như quay phim hoạt họa. Chẳng hạn như hai võ sĩ đánh box với nhau, được vẽ sẵn trên một quyển sách nhỏ, dày như một quyển tự điển, lấy tay giữ những trang giấy, xong thả ra cho những trang rơi đều liên tục từ sau đến trước, thành một cuốn phim bỏ túi.
Tôi vẫn còn nhớ ông hớt tóc dạo với chiếc ghế xếp và một cái thùng nhỏ chứa gương, lược, tondeur…Khoảng hai ba tuần, ông lại ghé mỗi nhà xem chừng có ai muốn hớt tóc không? Tôi và thằng em trở thành thân chủ quen thuộc của ông một dạo khá lâu. Hớt cho người lớn, thì ông có sẵn sợi dây nịt, móc lên một chảng cây nào đó để mài con dao cạo râu. Tôi chưa có diễm phúc thưởng thức những đường cạo điêu luyện của ông, dạo đó…râu chưa mọc! Bẵng đi một thời gian, không thấy ông xuất hiện nữa. Ngay góc đường Trần Cao Vân/Tăng Bạt Hổ có tiệm hớt tóc, ngoáy tai mới mở, thân chủ “đổi hãng” dần dần. Tóc ra dài, chờ ông, biết lúc nào ông đến mà chờ? Mấy ông thợ hớt tóc Việt-Nam, kiêm luôn nghề ngoáy tai, không cần phải có bằng Bác sĩ. Thế mà không ai bị lủng màng nhỉ cả, mới tài! Thân chủ được hưởng những giây phút vừa đê mê, vừa hồi hộp (vì sợ lủng nhỉ) tất cả giác quan đều tập trung vào lỗ tai, uốn éo, vặn vẹo thân người (nhưng rất chậm) theo độ sâu của cây ngoáy vào, ra…Mọi cử đông bất chợt, không kiểm soát, có thể dẫn đến sự “nói không nghe”. Cao điểm cuối cùng: Ông thợ cắm cây ngoáy đầu có gắn chùm lông tơ vào tai, Dùng năm ngón “rẹt” một đường lả lướt lên cây ngoáy, như một nhạc sĩ đánh dương cầm, vuốt một đường trên phím trước khi chấm dứt. Trong tai nghe như một tràng súng liên thanh hay sấm sét nổ. Xong! Voilà..! Sau đó, cổ được bẻ nghe răng rắc, tạo cảm giác cái đầu như nhẹ hẳn đi…vài ký!. 10 đồng! Ông hớt tóc dạo, với cái ghế xếp, không còn thấy xuất hiện nữa, hay là ông cũng đã định cư ở một chỗ nào đó? Kiểu tóc của tôi chỉ có một kiểu độc nhất là “demi-court”, trông giống tân binh mới vào quân trường, cho đến lúc học Đệ lục, mới để dài bồng bềnh kiểu Elvis Presley, vì đã bắt đầu biết… diện. Không chịu để hớt demi-court nữa, sợ mấy em chê “quê”…!
Cuôc sống là sự biến đổi không ngừng. Thành phố Qui Nhơn cũng đã, đang và sẽ biến đổi nữa. Từ những ngày tháng thanh bình, an lành, sống trong thành phố “nghèo rớt mồng tơi”, cho đến lúc chiến tranh bùng nổ. Quân đội Đại-hàn, Mỹ vào thành phố. Bỗng dưng, thiên hạ khá giả hẳn ra, xây nhà mới, xây nhà thêm, mở Bars, chạy Honda Dame, Suzuki …Bộ mặt thành phố trở nên náo nhiệt hơn. Bấy giờ QuiNhơn có thêm hai rạp: Kim Khánh, Lê lợi. Rạp Cọng hòa, không còn ai đoái hoài đến nữa, chờ ngày khai tử. Rạp bỏ trống quanh năm. Con đường Trần Cao Vân lúc trước chỉ chạy dài đến đường Hai Bà Trưng là chấm dứt. Sau đó là những mã Tây, cát, xương rồng. Mã Tây được hốt đi , nhà cửa được xây lên, con đường được nối dài, kéo dài ra tận biển, đụng cái bồn binh. Đầu tiên, sân sau nhà tôi cũng biến đổi. Vào năm 65, sau chín tháng từ Đà Nẵng trở về, trên sân sau cái nhà tranh, nhà tôi có thêm một căn nhà mới xây, để gia đình ở, còn căn nhà trước cho thuê. Cây keo, cạnh cái chuồng heo, cả mấy cây keo đằng sau, không còn đó nữa. Cây thầu đâu cạnh nhà cũng bị đốn đi trong lúc tôi vắng mặt. Từ dạo đó, tôi không còn được thấy cây thầu đâu nào khác. Một thời chung sống từ nhỏ với nó. Cây thầu đâu, không biết nó có một công dụng gì không hay chỉ để buồn mùa Đông (Sầu Đông)? Nhưng nó là một điểm tựa trong trí nhớ tuổi thơ của tôi. Những đêm trời nóng, trãi cái ghế bố, giăng mùng ngủ ngoài sân. Nhìn lên tàng cây lá nhỏ của nó, với một nỗi lo sợ vẩn vơ. Sợ ma! Một lần, nhìn ông đồ tể làm thịt con heo, nấu nước nóng cạo lông trong một cái chảo to tổ tướng đặt dưới cây thầu đâu. Trong chảo chưa nóng nước, lửng lơ cái chi xoắn xoắn, dài dài, dính chút mỡ sau đuôi?
Tôi hỏi:
– Cái gì?
– Cái này hả? Là “cái đó, của nó”, đặc biệt cho mày, ăn để khỏi nghiến răng. Ông thợ làm heo đáp. Nghe xong, muốn hết nghiến…Thật ra, sự việc không đến nỗi kinh hoàng như tôi tưởng, món luộc này, chắm nước mắm ớt, tỏi, nhai nghe “sựt sựt” Ngon! Ăn rồi, lại tiếc hùi hụi. Gía gì con heo có thêm ba, bốn cái nữa, đỡ biết mấy!… Không biết những “phương thuốc ông bà để lại” có công hiệu gì không, chứ tôi đã phải can tâm thử qua tất cả rồi. Một hôm, trèo lên cây rục rạc với cây cung làm mọi da đỏ bắn cao bồi. Đứng trúng chỗ dòn, bị té xuống nhằm cạnh của cái thềm trước nhà. Tôi bất tỉnh, thở hết ra hơi, đến lúc tỉnh lại, nghe tiếng mấy người hàng xóm lao xao:
– Giả củ gừng! Mau lên! Thằng cu miệng rộng đâu ? Đái vô cái chén đây con.
– Sau mầy không chịu đái gì hết trơn dậy con?
– Để thủng thẳng nó đái, chứ bà hối nó qúa, nó đái đâu được.
Tôi được đỡ dậy, bị trút nguyên một hơi chén nước tiểu giã gừng vàng vàng vô miệng, không được phản đối. Ông bà mình “kỹ lưỡng” chỉ chọn nước nguyên chất của đồng nam (tức con nít) chứ của người lớn thì miễn xài! Vài phút sau, tôi đi đứng mạnh khoẻ như thường. Không biết là do tác dụng “nước Cam lồ của thằng Cu miệng rộng” với múi gừng, hay chỉ bị tức hơi trong giây lát rồi khỏi?
Con nít đái dầm thì phải ăn cái mang xốp xốp (phổi) hai bên hông con Cua, không được ăn phần thịt (là phần ngon nhất). Sẽ bị đái tiếp (Không tin!). Ăn cái gì mà như ăn lông gà nhúng nước, chẳng ngon lành gì hết. Ai bảo “đấm dài” làm chi? Bị suyển, lên đàm khò khè hả ? Không sao! Bắt con thằn lằn, để vào miệng, bấm cái đuôi, nó chạy tọt xuống bụng. Hết suyển! Hết khò! May hồn, món thuốc này tôi chưa “bị” thử qua lần nào.
Căn nhà của ông cậu cạnh bên cũng trở thành căn nhà gạch, lên lầu. Bụi chuối sau nhà, nơi mà tôi đã nhan đèn chôn cất tử tế con két bị chuột cắn chết đêm nào cũng biến mất.
Cái hầm rác đã được lấp đi từ hồi nào, lại có thêm cái nhà. Xây thêm cái tường, tráng sân xi măng cho sạch sẽ. Cây, cỏ bị đốn đi nhẵn rụi, hàng kẽm gai nơi mà lúc xưa, mỗi chiều có một bầy chim xanh, tôi không biết là chim gì? hay về bay lượn, đã đi tìm nơi khác, nhường chỗ cho sự chinh phục của loài người. Chung quanh, thành phố đang bành trướng. Tuổi thơ tôi bắt đầu qua một giai đoạn mới…Giai đoạn tuổi choai choai: ” lấy trăng gối mộng, dệt nhiều mộng ước xa xôi…”. Những ngày đi tìm cái chạng làm ná bắn chim (tìm được cái chạng của cây ổi thì tuyệt), Những đêm chơi đá lon, tạt bao thuốc, hay ngồi đánh ô làng, đánh thẻ, nhảy dây, nhảy chuông với con gái từ từ lùi dần vào quá khứ. Nhưng những kỷ niệm ngày thơ, vẫn còn in sâu đậm nhất trong tâm tưởng. Càng lớn, càng già, càng có những nỗi khổ tâm.
Đã trên 30 năm, chưa một lần về thăm lại thành phố. Trong thời gian này ắt hẳn thành phố càng đông người, càng đông nhà, nhưng có càng vui? Có thể tôi chỉ sẽ đến thăm một lần như một du khách, để chứng kiến sự đổi thay, rồi thôi. Thời gian đã xoá nhòa những kỷ niệm xưa cũ, còn gì mà lưu luyến? Những thằng bạn của “một thời dại gái”, nay đã hom hem. Những bóng dáng yêu kiều, một thời làm tôi ngây ngất, chỉ còn tồn tại trong trí nhớ. “Em diễm lệ, em bé bỏng, em dễ thương,..” độ nào như nàng tiên trong phim “Bích câu kỳ ngộ” năm xưa, đã bước ra khỏi bức tranh đi về một nơi nào đó, để lại trong tranh một khoảng trống vô duyên…
Bùi Đăng Khoa
(Germany)


Theo như tôi biết ông thầy Năm chết cách đây khoảng 25 năm. Chùa giờ đây gần như hoang phế.
chùa Thầy Năm có ông thầy Năm dữ ơi là dữ !
Mình biết ông Thầy Năm chỉ đến khoảng năm 57-58 là giai đoạn “nóng bỏng” nhất, vì “pháo kích đá” lên cây me. Lai rai cho đến năm 66-67, vẫn còn nghe tên Thầy, nhưng không còn “tha thiết” lắm vì hết còn mê ăn Me…sau đó, thì không biết Thầy Năm làm gì nữa? Thầy Năm chắc chắn đã thăng thiên rồi. Bạn nào còn nhớ ngày hay năm “chia tay cõi trần” của Thầy? Thầy Năm dữ ơi là dữ, nhưng nguyên cớ từ đâu? Có phải Thầy lo giữ mấy chùm me trong chùa nên phải dữ với bọn con nít? Cầu chúc thầy an lạc bên kia thế giới.
Viết sinh động lắm
Những hồi ức về Quy Nhơn rất đẹp
Nhà tui cũng ở xóm Cộng Hòa nè! Còn chùa thầy Năm là thuộc xóm khác rầu…hình như xóm Gía.
He…he…Thấy sang bắt quàng làm họ…Hử anh Ba.
Những kí ức về qui nhơn rất dễ thương
Mến chào tất cả thân hữu đọc gỉa của Xứ Nẫu và những lời khen tặng. Viết là để cho người đọc, nếu bài viết của tôi đã mang lại được sự yêu mến và khơi lại được những kỷ niệm, cảm xúc…của một thời đã qua, thì người viết đã tìm được “người đồng điệu”. Vì có nhiều bình luận, các bạn cho phép tôi “tuần tự nhi tiến” nhé!. Trước hết tôi gửi lời thăm sức khỏe thầy Mang Viên Long, nếu là bạn đồng nghiệp cũa thầy LTM, tức là bậc Thầy của tôi. Thưa Thầy, xin cảm ơn những lời khen tặng của Thầy. Thầy nói là đã sống ở QN từ năm 58-67 tức là thầy đã “sống trọn vẹn” với em, với những thăng trầm, vui buồn của thành phố. Em “sống ở QN từ năm 55-69. Cựu học sinh đủ trường, em không phân chia trường phái nào hết. Em là cựu học sinh Xứ Nẫu hoàn toàn, và chỉ biết đến Xứ Nẫu. Thầy là bạn đồng nghiệp với thầy LTM, em rất mến thầy LTM nhưng tất cả rồi sẽ qua đi. Xin cầu nguyện cho Thầy LTM. Xin cảm ơn thầy đã “đồng cảm” (động từ này hơi mới) với bài viết của em. Ngày nay, Thầy, trò, tóc đã bạc như nhau, nhưng thầy cho phép em dung chữ Thầy để tỏ long kính trọng. Chúc thầy nhiều sức khỏe!
Bạn BXLộc: Nếu bạn muốn “bắt quàng” thì cứ bắt, cửa “từ bi luôn rộng mở” để đón chào bạn đó
Bạn Năm Sông Kôn: Cảm ơn bạn đã cho biết tác dụng của cây Thầu đâu. Sao không nói cho biết sớm, để bây giờ “vết thù trên lưng ngựa hoang” thành sẹo hết trơn!
Bạn Tuthuc:Tư thục? hay Từ thức(?) về…vuờn hay trần? Bạn đoán trật rồi! năm nay BĐK đã 60 cái xuân tình! Nhưng “dòm” cứ tưởng là 68 t. nhưng “ở trỏng” vẫn thấy là 18 t , thế mới chết. tuthuc nói rất đúng “Tiết Đinh San mới cầu Phàn Kê Huê” chứ chỉ có Tiết Đinh Qúy diễn nghĩa. Lâu qúa rồi…”thông coảm”. Cảm ơn nhận xét của bạn.
Người mình hay “đồn” và tin lời đồn, bởi thế mới xảy ra nhiều thảm kịch vô cớ. Không có ý gì khác, có chăng chỉ một lời nhắn nhủ, mọi việc phải thấy tận mắt, nghe tận tai, rồi mới phản ứng.
Bạn Thiên bồng: Đúng thế, tôi có “ngụ” tại nhà Kiến thiết số 10 Võ Tánh, được 1, 2 năm gì đó, lúc còn nhỏ, nhưng đã biết “pháo kích” Me rồi. Sau “xóm nhà mình” có cây keo, hồi đó keo mọc tùm lum, bây giờ chỉa gặp toàn “keo kiệt”.
Đinh Tấn Khương: Tối có biết Hồng Hoa Sơn, là cựu Hướng đạo ngày xưa. Nghe nói S. đang ở Mỹ, lâu lắm không có liên lạc với bạn ấy. Bạn học sau tôi một lớp, tức là cùng thế hệ với nhau rồi.
Trang giấy có hạn, tôi xin cảm ơn tất cả thân hữu xứ Nẫu, đã cùng tôi “một vài trống canh” về lại Quinhơn. Các bạn không có trả lời trực tiếp đừng nên phiền hà gì tôi nghen. Tôi vẫn luôn giữ “xứ Nẫu” và “người Nẫu” trong trái tim.
Thấn ái
BĐK
“Em “sống ở QN từ năm 55-69. Cựu học sinh đủ trường, em không phân chia trường phái nào hết. Em là cựu học sinh Xứ Nẫu hoàn toàn, và chỉ biết đến Xứ Nẫu.”
Mình hoàn toàn đồng ý với ý kiến anh Bùi Đăng Khoa
Chào Bùi Đăng Khoa! Tôi thật tình không ngờ Cậu đã xa quê khá lâu ( và sống giữa phố thị luôn náo nhiệt & bận rộn ) – mà nhớ rất rõ & rất kỹ về QN – nhất là Xóm Cọng Hòa với tình cảm thắm thiết đến vậy! Điều này đã cho thấy, Cậu luôn nặng tình với QN- với Quê Nhà! Thật rất quý! Văn tức là Người – dù chưa lần nào gặp nhau – nhưng bà con XN rất trân quý những người con thân yêu như vậy! Tôi học cuonghdeqnh ( từ năm 58-65 ) sau đó học SPQN – nên dù quê ở An Nhơn ( cách 20 km ) – QN với tôi rất gần gũi & thân thiết, bởi quảng đời đẹp nhất của tôi đã gắn liền ở đây! Khi đi dạy – tôi vẫn liên lạc & gặp gỡ với anh LTM vì đồng điệu! Anh LTM rất hiền & ” nhu mì ” như…tiểu thư vậy – nên ai cũng mến! Mong có dip gặp lại ở XN – cho vui nghen? Gởi lời thăm tất cả & chúc an lành! MVL
Chào BĐKhoa,bai viet hay lam-chuyen cua ky uc-tham tinh.Khg biet Loc da gap Khoa lan nao chua chua ?de quang lam ho voi nguoi co van hay…vui chut
nhung neu Khoa di Duc nam 69 thi thuoc lop lon hon bon nay nhieu..Chuc anh Khoa vui khoe va tiep tuc viet de khg thi khg con ai nho..
Như các bạn khác, đọc xong tôi cũng nhớ tuổi thơ của mình. Tác giả đã tái hiện Quy Nhơn những năm cuối thập niên 50 và những năm sau một cách trung thực và sinh động nhờ những mẩu chuyện nhỏ lồng vào. Thời kỳ ấy tôi ở Tây Sơn ( Bình Khê cũ), một vùng nông thôn nghèo khổ, đi chân đất, không biết đèn điện, ổ bánh mì… nói chi đến rạp hát, tiệm may,… Nhưng bọn trẻ nhà quê chúng tôi rành bắt cá, bắn chim, mót củi và cả săn bắn. Có lẽ, tôi sẽ bắt chước tác giả “mần” một bài tương tự nhưng bối cảnh là Tây Sơn.
làm đi!cho nẫu ớn dân Tây Sơn mình một phen.
Viết hay thật. Đọc xong nhớ lại tuổi thơ.
Từ dạo đó, tôi không còn được thấy cây thầu đâu nào khác. Một thời chung sống từ nhỏ với nó. Cây thầu đâu, không biết nó có một công dụng gì không hay chỉ để buồn mùa Đông (Sầu Đông)? Nhưng nó là một điểm tựa trong trí nhớ tuổi thơ của tôi…..
Cây sầu đông có công dụng chữa ghẻ lở.
@ Năm Sông Kôn
Chắc bạn xa quê lâu lắm rồi? Nay ở tây Sơn người ta trồng Sầu Đâu ( tên khác Sầu Đông, Xoan) nhiều lắm để làm gỗ xây dựng vì thân thẳng, chóng lớn, vân đẹp. Ở Sài Gòn, gỗ sầu đâu được dùng đóng bàn ghế “mớp” vì màu gỗ vàng có vân nâu đẹp.
He…he…Hầu đó tui cũng ở gần xóm CH.
Oách chưa.
Giống như tâm trạng & hoàn cảnh của anh, cũng 30 năm rồi tôi cũng chưa về thăm lại QN. Đọc đoạn kết, tưởng như là của mình vậy
“Đã trên 30 năm, chưa một lần về thăm lại thành phố. Trong thời gian này ắt hẳn thành phố càng đông người, càng đông nhà, nhưng có càng vui? Có thể tôi chỉ sẽ đến thăm một lần như một du khách, để chứng kiến sự đổi thay, rồi thôi. Thời gian đã xoá nhòa những kỷ niệm xưa cũ, còn gì mà lưu luyến? Những thằng bạn của “một thời dại gái”, nay đã hom hem. Những bóng dáng yêu kiều, một thời làm tôi ngây ngất, chỉ còn tồn tại trong trí nhớ. “Em diễm lệ, em bé bỏng, em dễ thương,..” độ nào như nàng tiên trong phim “Bích câu kỳ ngộ” năm xưa, đã bước ra khỏi bức tranh đi về một nơi nào đó, để lại trong tranh một khoảng trống vô duyên…”
Cám ơn anh bạn Bùi Đăng Khoa
(tôi học sau anh một năm, cùng lớp với Hồng Hoa Sơn, Sơn được học bổng đi Nhật, chắc anh biết Sơn?)
– Em đoán Anh Bùi Đăng Khoa độ tuổi từ 62-> 65 phải không anh ?
– Những sự việc xảy ra cách đây 45 năm anh vẫn còn nhớ rất chi tiết , Anh viết ” lời văn” mộc mạc nhưng rõ ràng , hay lắm anh ạ !
– Có phải Anh có cố tình viết câu : ” Hàng xóm chỗ tôi ở đồn rằng (lại đồn) ” , để xem thử người đọc có phát hiện “cái đùa tí tửng ” của mình , hay ý khác vậy Anh ?
– Chi tiết nầy dường như anh viết nhầm : -” Dần dà, mấy gánh hát bội miền trung chết lần mòn (một thời, thiên hạ chen nhau xem coi Tiết Đinh Qúi cầu Phàn Lê Huê, Trụ Vương-Đắc Kỷ…chật rạp). Em nhớ có trích đoạn ” Tiết Đinh Sang cầu Phàn Lê Huê” Trích trong vở tuồng cổ Đường chinh Đông hay Đường chinh Tây gì đấy mà !
*- @ Galant : đừng chọc phá Tú Gàn, để Tú chăm chỉ làm việc chứ bày Tú đi ăn cái xoắn xoắn, dài dài, dính chút mỡ sau đuôi… í thì ổng bỏ việc đi rông suốt ngày nguy đấy ! ( ăn gì bổ ấy mà) ! hì…hì.. đừng rượt chạy ” té” phẻ lắm nhe Tú Gàn !
Chào Anh BĐK, Tú Gàn, Galant !
Hè … hè …
Cám ơn quynh TUTHUC dzừa … binh TG, dzừa … “chọt” nhột quá nhen !
Wả ?! Nị biết rạp Lê Lợi mà sao hổng biết rạp Cọng Hoà hè ?! Đường Trần Cao Vân này Nị cũng chạy qua chạy lại chơi quài mà có thấy cái rạp ni đâu ???
Có … “ngộ” ở đường TCV hữ Nị ?
Chớ sao mà chạy đi,
rầu chạy lại,
còn … chơi quài nữa ?
Nếu TB nhớ không nhầm thì rạp Cộng Hòa tọa lạc giữa Chùa Long Khánh và Xã Quy Nhơn hồi xưa ( Xã QN gần 75 thành 1 đơn vị hành chánh của địa phương thì phải) Nị nhớ lại xem sao, hi hi….
Hì…hì…TB nhớ hơi lầm một chút.
Rạp Cộng Hòa tới 1 chút nữa, bây giờ là đất cũa ct. cỗ phần xây dựng+ ct. An phú thịnh đó.
Wả ?! Nị biết rạp Lê Lợi mà sao hổng biết rạp Cọng Hoà hè ?! Đường Trần Cao Vân này Nị cũng chạy qua chạy lại chơi quài mà có thấy cái rạp ni đâu ???
Cái hồi mà Nị biết bận quần chạy qua chạy lại thì rạp CH. đã bị phá rồi đó, hiểu chưa. Wả mà hồi đó bộ không sợ Tú Tàng thử hôn sao
dẫy là hầu hẫu(còn rạp CH)thì chị Nị của tui chưa biết…bận…?hè hè…cảm ơn Tú Tàng nghen!
Hầu đóa chị Nị của im…”rãnh” lém im à ! Có… bận gì đâu mà hông rãnh ?
Hi hi …lúc đó chưa có mặt trên trần gian lấy đâu biết bận quần áo hè ! hi hi
Nghe tên là muốn xỉu rùi , thấy người nữa chắc ….chít đó anh Táng Tù quơi !
Anh hàng xóm bộ không có nhà hay saomà nhảy lên sớm quá ta ?
CHU CHA!NHẮC ĐẾN THẦY NĂM..GIỜ CŨNG CÒN RUN! HIC..HIC..
Chào Bùi Đăng Khoa! Đọc ” Xóm Cọng Hòa ” – hồi ký của cậu,về tuổi thơ & Quinhon & thẫy cô & bạn bè & Xóm Cọng Hòa (…) tôi được dịp sống lại với XCH /QN/ Người quen – rất đầy đủ & thú vị! Anh LTM cũng là người bạn văn ( là đồng nghiệp ) với tôi những năm ấy – sau 75 về lại quê nhà/ và mất ở đó trong cảnh chia xa! Rạp Cọng Hòa (vvv) là nơi chúng tôi cũng thường ” coi ké ” các đoàn cải lương & ca nhạc từ Saigon ra lưu diễn! Tôi sống ở Quinhon chỉ gần 10 năm ( 58-67), nhưng những gì Cậu ” nhớ lại ” cũng đều biết! May mắn, tôi cũng ” được biết QN ” vào năm 54- khi con phố điêu tàn này vừa ra khỏi cảnh bom đạn! XCH – là một ” tư liệu ” quý về QN đó , Cậu à! Cám ơn Khoa nhé? Chúc an vui! MVL
Những kỷ niệm hồn nhiên và ngây thơ không bao giờ quên được . Tui cũng ” thấy ” tui trong đó ! hì hì …
Bài viết rất vui và rất hay !
“Hướng về quê mẹ” bài viết cảm động. Chúc Bùi Đăng Khoa khỏe, vui
Bài anh viết hay quá! ngồi đọc mờ hình ảnh ngày xưa cứ thi nhau ùa về lung linh miền ký ức!Nhưng thích hơn cả là được anh nhắc PLH -TĐS í! chúc anh khỏe để dziết nhiều dzìa QN thân yêu anh BĐK nhé!
Quã ,Nẫu ở Tây Sơn mừ , lọa hè !
bộ ..bộ..ở TS nhớ QN hổng được hả anh Gù?hù..hù..
Được thâu ! Nhưng có điều … hơi bị lọa !?
Ở TS nhớ … tùm lum tà la còn được nữa là ! hà…hà…
Dzô Sì Goàn chơi dzí … cháu đi Phàn !!!
Vậy là anh Bùi Đăng Khoa có thời gian ngụ tại khu nhà Kiến Thiết và là hàng xóm của anh Xuân Phong và Thiên Bồng, nếu TB nhớ không nhầm thì sau “xóm” nhà mình ngoài cây me còn có cây keo nữa….
Bài viết gợi lại hồi ức một thời đã xa. Cám ơn anh. Mến.
Wao ! chào anh BĐK hôm nay gặp anh nơi đây em dzui lắm! Bài này em đã đọc rồi….nay đọc lại vẫn cứ thích ,vì văn phong của anh rất lôi cuốn người đọc ! bài viết gợi nhớ bao nhiêu kỷ niệm QN cứ ùa về tràn ngập….em vừa đọc vừa cười thật thích thú!Cám ơn anh rất nhiều chúc vui khòe nhé!
cái xóm ngày xưa đâu còn nữa!!
Những hồi ức rất quinhon!
bài viết hay quá!đọc thấy có mình trong đó,những kỷ niệm xưa ùa về.ôi một thời đã qua,nhưng sao đổi thay nhanh quá,hết trơn.
Bài viết hay lắm
Tú Gàn mà muốn có được trí nhớ tuyệt vời như BĐK thì đi tìm ăn (cái xoắn xoắn, dài dài, dính chút mỡ sau đuôi..) là nhớ luôn cả chiện : khi xưa ta ngu ta lấy dây thun ta bắn…..” bang bang ” liền hè…!
Lời “phiên” chân thành của Tú Gàn dành cho Galeng nè :
Ông nên “đẩu” nickname là … “Cà chớn nhìu chiện” đi !
Hay đó … dzà cũng hạp dzí ông nữa, ông Galeng à !!! hà…hà…
Khi xưa ta bé ta ngu
Ta lấy dzây su
Ta bén Ga leng
Ta bén ngay …
Hú hu ! Hú hu !
Chít chít cha cha
Nó sưng chù dzù
Hù hu ! Hù hu !…
NHỮNG HỒI ỨC RẤT DỄ THƯƠNG VỀ QUY NHƠN XA XƯA.
Tôi biết cái rạp chuyên hát bội ở xóm Cộng Hòa rồi. Bây giờ rạp hát đã được phá bỏ,không còn chút dấu tích nào.
Phải công nhận một điều :
Trí nhớ của anh Bùi Đăng Khoa quá tuyệt !
Những gì cần nhớ đều được nhớ đến từng chi tiết nhỏ.
Giọng văn tưng tửng mà sâu hun hút … thấm đượm, chất chứa nghĩa tình !
Bài dzăn của anh hay lắm !
Cảm nhận của Tú Gàn hay lắm ! Lời văn bình dị như văn nói mà lôi cuốn người đọc như dòng nước chảy. Đọc bài này làm mình nhớ lại ngày xưa quá, biết bao kỷ niệm cũ lại hiện về….! Cám ơn anh Bùi Đăng Khoa.
E hèm …!
“Eo thăn”
+
“Nẫu … hợ” (phát triển thim ý !)
Hữ ?
Dzọt …
Tú Gàn ơi, em còm bài ” XÓM CỘNG HOÀ” cho anh Bùi Đăng Khoa hay quá, cho chi “ké” với nhe vì chị cũng cảm nhận giống em đó.
Cám ơn anh Bùi Đăng Khoa, anh viết hấp dẫn và lôi cuốn lắm, em đọc một lèo và rất thú vị vì thấy hình như có mình ở trong truyện anh viết.
Chúc anh vui, khoẻ, hạnh phúc nhé.
Thân mến.