Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Mười 7th, 2011

Ủy ban Nobel Na Uy lúc 4h chiều nay (7/10 – giờ VN,) tuyên bố, giải Nobel hòa bình 2011 được chia đều thành 3 phần, cho  Ellen Johnson Sirleaf, Leymah Gbowee và Tawakkul Karman vì những nỗ lực phi bạo lực vì sự an toàn của phụ nữ và quyền được tham gia đầy đủ vào việc xây dựng hòa bình của phụ nữ.



3 người được giải thưởng Nobel Hòa bình 2011 từ trái sang phải: Ellen Johnson Sirleaf, Leymah Gbowee và Tawakkul Karman


“Chúng ta không thể đạt được dân chủ và hòa bình lâu dài trong một thế giới nếu như phụ nữ không có những cơ hội như của đàn ông cũng như không có được ảnh hưởng tới mọi tầng lớp xã hội.

Tháng 10/2000, Hội đồng bảo an LHQ thông qua nghị quyết 1325. Nghị quyết này lần đầu tiên đề cập tới bạo lực chống phụ nữ trong các cuộc xung đột vũ trang là vấn đề an ninh quốc tế. Nó nhấn mạnh việc phụ nữ phải trở thành một nhân tố tương đương đàn ông trong tiến trình hòa bình và những hoạt động hòa bình nói chung.

Ellen Johnson Sirleaf là nữ Tổng thống châu Phi đầu tiên được bầu một cách dân chủ. Kể từ khi nhậm chức năm 2006, bà đã đóng góp cho việc bảo đảm hòa bình ở Liberia, thúc đẩy kinh tế và phát triển xã hội, củng cố vai trò phụ nữ.

Leymah Gbowee đã huy động và tổ chức phụ nữ ở các sắc tộc và tôn giáo giúp chấm dứt cuộc chiến lâu dài ở Liberia, và bảo đảm cho sự tham gia của phụ nữ vào quá trình bầu cử. Kể từ đó, bà Leymah cũng nỗ lực thúc đẩy sự ảnh hưởng của phụ nữ ở Tây Phi trong và sau chiến tranh.

Trong tình trạng khó khăn nhất, trước và trong “mùa xuân Ả rập”, Tawakkul Karman đã giữ một vai trò đi đầu trong cuộc đấu tranh vì quyền phụ nữ và dân chủ, hòa bình ở Yemen.

Ủy ban Nobel Na Uy hy vọng giải thưởng dành cho Ellen Johnson Sirleaf, Leymah Gbowee và Tawakkul Karman sẽ giúp chấm dứt sự đàn áp phụ nữ vẫn đang diễn ra ở nhiều nước và hiện thực hóa những tiềm năng to lớn về dân chủ và hòa bình mà phụ nữ có thể đại diện.

Theo dõi công bố giải Nobel

Các giải Nobel 2011 đã được công bố gồm giải y học, vật lý và văn chương.

Ba nhà khoa học Mỹ, Luxembourg và Canada đã chia nhau giải thưởng Nobel 2011 trong lĩnh vực y tế nhờ những nghiên cứu liên quan đến cơ chế miễn dịch. Theo đó, nhà khoa học Mỹ Bruce Beutler, nhà khoa học gốc Luxembourg Jules Hoffmann được tôn vinh nhờ những phát hiện quan trọng liên quan đến việc hoạt hóa cơ chế miễn dịch bẩm sinh còn chuyên gia Ralph Steinman người Canada giành giải thưởng nhờ phát hiện về tế bào đuôi gai và vai trò của nó đối với miễn dịch thích ứng.

Về giải Nobel Vật lý 2011, Ủy ban Nobel thông báo, Giáo sư Saul Perlmutter và hai Giáo sư Brian P.Schmidt, Adam G.Riess đã giành giải thưởng nhờ nghiên cứu về siêu tinh và vũ trụ. Trái với suy đoán trước đó của giới truyền thông về việc Giải Nobel 2011 sẽ được trao cho nghiên cứu “hạt rối” trong lượng tử, kết quả năm nay hoàn toàn tôn vinh các chuyên gia không gian và vũ trụ học.  Theo Ủy ban Nobel, Schmidt, Riess và Perlmutter được giải do những phát hiện của họ đã giúp “hé lộ nhiều điều về vũ trụ mà trước đây giới khoa học chưa từng biết đến”.

Năm nay, giải Nobel Văn chương đã quay trở lại với quê hương của nó, kể từ năm 1974. Nhà thơ Tomas Transtromer, 80 tuổi, người Thụy Điển, đoạt giải thưởng danh giá này “vì đã đem đến cho chúng ta đường vào thực tại đầy tươi mới bằng những hình ảnh cô đọng, huyền ảo”.

Hoài Linh (Theo Nobel.org)

Read Full Post »

           Trần Ba
Công bằng mà nói, nó học giỏi, thông minh, có kiến thức và ham đọc sách.  Nó kể chuyện rất hay. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa say, nó kể và phân tích quan điểm triết học, luận về nhân sinh quan rất bài bản dù là chuyện tiếu lâm bình thường hay chuyện chính trị xã hội. Và, nó chỉ nói nhiều, ba hoa , khi uống rượu đã ngà ngà say.
           Tôi  nhớ nhất là chuyện nó kể về Khuất Nguyên, nhân ngày Tết Đoan Ngọ năm một ngàn chín trăm tám mươi. Tôi chưa đọc câu chuyện ấy và không biết nó có thêm thắt gì không. Nó kể  thế này : “ Ngày xưa Khuất Nguyên vì ngán ngẫm cái cảnh nhiễu nhương chốn quan trường đã cởi áo từ quan, lang thang ngao du sơn thủy. Một hôm gặp người bạn cùng nhau chén thù chén tạc, ông bộc lộ những nỗi niềm của mình :
               Đời đục cả chỉ mình ta trong
               Đời say cả chỉ mình ta tỉnh
               Nên ta buồn ta đi lang thang
     Người bạn của ông lại cho rằng :
               Đời đục cả sao anh không khuấy thêm bùn vỗ thêm sóng
               Đời say cả sao anh không ăn cả men húp cả bã
               Tội tình gì anh đi lang thang
 
              
 Khuất Nguyên không như vậy. Ông đã nhảy xuống sông tự vẫn”.
            Riêng tôi không biết rượu có trên trái đất này từ bao giờ, nhưng từ khi còn ngồi ghế nhà trường phổ thông, tôi luôn nghĩ rượu là để dùng cho mục đích sang trọng, lễ nghĩa như người xưa đã dạy: “ Vô tửu bất thành lễ”. Thời phong kiến, từ quan lại đến các tướng khi lập được công trạng đều được nhà vua ban rượu trọng thưởng. Ly rượu đó đã trở thành niềm mơ ước của nhiều bậc đại thần. Và, hồi đó tôi cũng nghĩ rằng, rượu chỉ dành cho những người có học, có chữ nghĩa, hoặc là những thi sĩ, văn nhân.
Ở làng tôi, vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước,  vào đêm giao thừa, tôi, nó và bạn bè cùng trang lứa quần tụ với nhau uống rượu, ngâm thơ và đàn hát đến hai, ba giờ sáng mới về nhà. Người ta thường nói, rượu vào lời ra, nhưng chúng tôi không bao giờ xúc phạm nhau, ngược lại còn thương yêu nhau hơn. Có chuyện thật vui – uống rượu ; thật buồn cũng lấy rượu để giải sầu. Uống riết rồi quen. Và, tôi luôn dành những tình cảm ưu ái đối với người uống rượu. Ai chê người uống rượu dẫn đến những chuyện ồn ào trong gia đình, làm rối an ninh trật tự trong làng xóm, thậm chí có hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến gây án mạng, không hiểu sao lúc đó  tôi kịch liệt phản đối và nói rằng rượu không có lỗi. Có thể người ta bức xúc một điều gì đó với người thân của mình nên có những lời nói và hành vi quá trớn mà thôi…vân vân và vân vân. Tôi cho rằng uống rượu làm người ta thông minh hơn, đôi lúc thăng hoa, có những câu thơ hay, ý tưởng mới lạ, dễ thương và thật lòng với nhau hơn.
             Phải nói là tôi dành tình cảm đối với người uống rượu cũng được một thời gian khá dài. Đến khi làng tôi có nhiều người uống rượu hơn, chuyện ồn ào vì rượu cũng xảy ra nhiều hơn. Người lớn say, chửi con cháu. Con cháu say, chửi người lớn. Chửi đã, tìm người gây sự, đánh lộn. Thực tế ấy đã làm tôi phải im lặng khi trong làng có chuyện gây gỗ từ rượu.Và tôi cũng bắt đầu dè dặt hơn với người uống rượu. Rồi chuyện uống rượu lên tới đỉnh điểm khi nó không còn kể chuyện khi say rượu nữa mà trở chứng chửi thiên hạ. Khi nó say, nó chửi cả làng xóm, ông nội của nó cũng không tránh khỏi. Hôm trước nó chửi, hôm sau, nó mang một góc rượu đến nhà để xin lỗi, thế là xong. Lâu rồi thành quen. Thấy ai cũng nhịn, nó càng lấn tới, khi có dịp chỉ uống một vài ly thì nó đã quậy tưng lên. Mỗi khi gặp anh em bè bạn có chuyện gì vui muốn gọi nó thì đứa nào cũng lắc đầu ngài ngại, không khéo lại rách việc. Riêng tôi thì không nghĩ như vậy. Chỉ đến khi chuyện xảy ra vào chiều mồng hai tết của hai mươi năm về trước. Nó và anh em trên quê xuống thị trấn thăm xuân, ghé lại nhà tôi. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, và tết nữa nên không khí vui như ngày hội. Không ngờ ly rượu mới chạy giáp quận hai vòng thì nó bắt đầu chửi, chửi từ trên xuống dưới, chửi không chừa một ai. Giận quá, tôi quăng ly uống rượu ra đường, đập bể cái bình củ tỏi rót rượu, đổ luôn cái canh năm lít rượu đặt ăn tết. Tôi vừa khóc vừa nói với anh em bạn bè là sẽ không bao giờ uống rượu. Và tôi không nhìn mặt nó nữa. Từ đó về sau, mỗi lần về quê ăn giỗ hay đám tiệc, tôi không chịu ngồi chung bàn với nó. Còn khi ngồi chơi với mấy người bạn, nó vào thì tôi đứng dậy xin phép về vì có công việc khômg thể tiếp tục ở lại. Ai cũng biết tôi không muốn chạm mặt với nó nên không nói gì. Tết đến, nó đến nhà ba má tôi chúc xuân, tôi tránh mặt và nói em tôi ra tiếp. Đôi khi tôi về quê thấy nó say, quần chẳng ra quần, áo chẳng ra áo, đứng chận xe qua lại quai tay múa chân như một thằng điên, không ra thể thống gì hết. Dù rất buồn nhưng tôi vờ như không thấy, lách xe vượt qua, coi như chưa gặp nó. Do đặc thù của công việc, tôi hay về các xã và thường đến các cơ quan trong huyện, khi nghe người ta bình phẩm về chuyện uống rượu của nó, mặc dù còn giận nó nhưng tôi vẫn cho rằng nó là thằng bạn tốt của tôi, chỉ có điều khi  rượu vào nó không kiểm soát được lý trí. Và tôi cũng không nói với ai, cũng vì chuyện quậy của nó, hai đứa không ngó mặt cũng chẳng chào hỏi  nhau ròng rã đến bốn năm, tức là tính đến cái ngày nó xuống nhà tôi mời về ăn đám giỗ ba nó.     Lâu ngày không gặp, bữa đó trông nó chỉnh tề ra phết. Áo trắng bỏ trong quần, giày xăng-đan, trên khuôn mặt tròn tròn của nó có chiếc kính cận trông rất sang trọng và ra vẻ học thức. Tôi nắm chặt tay nó một cách sung sướng như tìm lại được một cái gì rất quý mà mình đã bỏ quên lâu ngày rồi. Và, đến lúc đó tôi đã nhận ra cái tình bạn của hai đứa không thể xóa đi như lau một vết bẩn trên bàn, mà đó là một chuỗi dài những kỷ niệm buồn vui của cuộc đời. Cũng cầm một chai rượu lẻ, nhưng nó không hề nhắc chuyện bốn năm về trước nó quậy tại nhà tôi, mà nói một cách trịnh trọng :
–         Ngày mai là ngày giỗ ông già mình. Mình có làm một mâm cơm. Mời bạn về uống chén rượu.
–         Sao  giống đi nói vợ vậy, thằng quỷ?
Tôi nhớ, cũng gần mười lăm năm rồi, hai thằng hai chiếc xe đạp ra nhà người bà con của nó ở thôn bên cạnh để gặp người con gái mà sau này nó cưới làm vợ, quần áo của nó còn xấu và luộm thuộm hơn nhiều so với lúc này. Tôi lại nắm tay nó, lắc lắc và nói :
–         Được rồi, mai mình về.
        Đêm hôm đó, tôi cứ trằn trọc mãi. Đã bốn năm rồi còn gì. Nếu không về thì anh em sẽ cho rằng mình quá cố chấp, hơn nữa nó cũng buồn, bởi vì trong đám bạn, dù sao tôi với nó là thân nhau nhất. Từ bé đã coi nhau như anh em ruột, chia nhau từng viên kẹo cà, từng khúc mía bẻ trộm, rủ nhau ra mương tát cá, bắt cua, chiều chiều ra gò đánh trổng, thả diều…Hồi đó đứa nào đụng đến tôi là có nó, đụng đến nó là tôi nhảy vô. Bà con trong xóm gọi hai đứa là cặp bài trùng. Ngày nó đi coi mắt vợ cũng chỉ có tôi đi với nó, đám cưới của nó tại cơ quan tôi cũng làm công tác tổ chức, chuẩn bị nội dung từ A đến Z. Thân nhau là thế nhưng khi nghĩ đến chuyện nó uống rượu rồi quậy, người tôi như nóng lên, tức không chịu được. Rồi, không biết tôi chìm vào giấc ngủ vào lúc nào và mơ thấy nó cùng ngồi uống rượu với tôi. Nó ngâm thơ, tôi đệm đàn. Khi nó và tôi đã muốn say, tôi kể chuyện Khuất Nguyên, chuyện mà ngày xưa nó thường hay kể cho tôi và bạn bè nghe.
                – Hay, hay, mày tìm chuyện ở đâu mà hay thế ?- Nó vỗ đùi thật mạnh.
           – Thì chuyện mày từng kể cho bạn bè nghe chứ tìm ở đâu.
           – Thật thế sao ?- Nó ngơ ngác như người vừa từ trên mây rớt xuống.
           –   Mày uống quá nên quên hết, lại còn thật với giả.
           –   Vậy mày thấy tao giống ai ?
           –    Mày không giống ai hết. Mày không đủ đức hạnh để giống        Khuất Nguyên, và tầm của mày cũng không thể như bạn của ông ta.
         Bỗng dưng nó khóc, khóc như một đứa trẻ. Tôi giật mình thức giấc vì tiếng gà gáy sớm. Ngoài đường đã có tiếng người đi chợ. Trời chưa rõ mặt người, khoảng hơn một tiếng đồng hồ nữa mới sáng hẳn. Và tôi không ngủ thêm được nữa, nằm suy nghĩ về cái giấc mơ không trọn vẹn vừa mới đến. Tôi nghĩ, có lẽ rượu đã làm trí nhớ của nó giảm đi. Nó quên nhiều lắm. Nếu nó nhớ mình từng là một học sinh rất giỏi Pháp văn đã dịch tác phẩm  “Những Người Khốn Khổ “ của Victor Hugo từ bản tiếng Pháp ra tiếng Việt, thì nó đâu phải uống vô là chửi tất tần tật như một thằng khùng. Bởi niềm tự hào của bản thân, của cái tôi – không đẻ ra tiền, nhưng đó là hạnh phúc của con người! Rượu làm cho nó mất nhiều quá. Tôi giận nó thì ít, chỉ bốn năm thôi, nhưng tiếc cho nó thì nhiều. Mà xã hội này đâu chỉ một mình nó uống rượu. Sao nó lại phải như vậy? Tôi để ngõ câu hỏi ấy chờ dịp thuận tiện, vui vẻ sẽ hỏi nó.
            Do bận công việc đột xuất của cơ quan, tôi về muộn. Tôi bước vào cửa và chào mọi người.  Rượu đã bắt đầu thấm vào nó,  người nó đã nghiêng qua ngã lại, nhưng nó cũng kịp nhận ra tôi, tràn tới ôm chầm lấy tôi.
–         Mấy thằng bạn quan nó không về thì cũng đành chứ mày không về là tao buồn lắm.
–         Sao mày lại nói vậy?  Mày có nhà cửa, cuộc sống thoải mái như hôm nay chẳng phải nhờ mấy ảnh sao! Mày tính cái đất này được mấy người như mày? Kể cả chuyện uống rượu như mày, làng này chỉ có một.
Mọi người nghe vậy đều tỏ vẻ ái ngại dò xét phản ứng của nó ra sao, nhưng ai cũng biết đó là thực tế. Ngoài chế độ chung, nó còn được ưu ái hổ trợ nhiều mặt, vì nó có bạn là doanh nhân giàu có cỡ của huyện, đặc biệt là anh bạn đang làm lãnh đạo huyện- rất thương và giúp đỡ nó rất nhiều. Thực ra, khi tôi nói như vậy, nhân lúc có rượu- nó sẵn sàng chửi vào mặt tôi theo kiểu cả vú lấp miệng em, nhưng ngược lại nó như tỉnh hẳn, lại còn pha tiếu lâm, đánh trống lảng :
–         Em sợ anh hai mà! Mời anh hai ngồi.
       Tôi biết nó không  sợ ai cả, ít nhất là trong cái huyện này. Có điều  nó không muốn căng thẳng kéo dài giữa tôi và nó nên nó mới xuống mời tôi về ăn giỗ, chỉ vậy thôi. Và sau này tôi cũng không còn quan tâm chuyện nó say rượu nữa, bởi mỗi đứa có nhận thức và cuộc sống riêng. Tôi cũng chỉ tiếc vì nó là thằng giỏi về chữ nghĩa so với bạn bè cùng trang lứa trong làng. Tôi không tin rượu lại có tác dụng ghê gớm đến như vậy. Rượu có thể làm ta say, nhưng làm sao có thể thay đổi được bản chất con người? Có lần tôi hỏi tại rượu hay tại nó thì nó trả lời- do say quá nên tao có nhớ, có biết gì đâu. Bao năm qua, nó và nhiều người hay nói như vậy- tại rượu chứ không phải tại bản thân mình muốn thế. Những giọt nước trong có men sóng sánh thơm nồng và cay cay kia lại sai khiến được con người sao? Bây giờ nghĩ lại tôi thấy thương nó, vì đời  nó  rút cuộc lại  chỉ cứ chạy vòng vòng quanh cái ly rượu vô tri mà thôi. Đôi lúc – tôi lại nghĩ: “ Nó kết thân với ruợu, không rời xa được rượu , có lẽ rượu đã “ nói thay “ cho nó bao điều sâu khuất nhất tận  đáy  lòng  chăng? ”

Read Full Post »

Nỗi Lòng

Yến Du


Sao anh chỉ hiểu những gì em đã nói
Mà không biết có một điều em giấu kín trong tim
Khi vạt nắng mong manh của hoàng hôn như đang pha thêm sắc màu tim tím
Em tự hỏi  lòng mình có bao giờ  anh  nhớ đến em không

Chưa phải một nửa của nhau nhưng em cứ lặng thầm xây mộng
Mộng thật bình thường mà khoảng cách hư – thực lại quá xa
Anh đâu thể là cơn gió thoảng ngang qua cuộc đời chỉ làm rụng rơi vài chiếc lá
Anh để lại hồn em một vệt dài nhung nhớ ….anh ơi

Như sao Hôm sao Mai chưa từng gặp nhau nên mỏi mòn mong đợi
Em ngóng chờ anh – em ngóng cả trong mơ
Em viết về anh với những câu thơ có vầng trăng cong vênh vì nỗi buồn  và trăn trở
Có cánh đồng tình yêu khô khan đang khao khát gọi mưa về

Em không hiểu tại sao em nghĩ đến anh nhiều như thế
Một môi cười hay một ánh mắt bâng quơ
Anh ở trong em như mặt trời luôn mọc ở phía Đông đầu ngày rực rỡ
Như cả một điều đã từ lâu em giấu mãi …….anh ơi !

05/10/2011

Read Full Post »