Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Mười 3rd, 2011

Nguyễn Như Tuấn

Mai này một mảnh gương soi

Cho ta chiếc bóng nổi trôi bọt bèo

Tặng người một chút buồn theo

Nâng ly  kim cổ rượu reo đáy nồng

Tặng người một chút mênh mông

Đời ta say khướt nỗi lòng buồn vui

Cuộc chơi cũng đủ ngậm ngùi

Thì xin giữ mãi nụ cười đêm nay…

Read Full Post »

(ĐVO) Dáng vẻ quyến rũ, đường nét tinh xảo của các bảo vật vô giá là sự minh chứng cho bàn tay và khối óc tuyệt với của các nghệ nhân trong thời kỳ vàng son của vương quốc Champa.

Mới đây, UBND TP Đà Nẵng đã đề xuất Chính phủ công nhận ba hiện vật của khu vực là bảo vật quốc gia do những hiện vật này chứa đựng nhiều giá trị to lớn và độc đáo. Ba hiện vật quý này gồm Đài thờ Mỹ Sơn E1, Đài thờ Trà Kiệu và Tượng Bồ Tát Tara.

Theo đó, đài thờ Mỹ Sơn E1 là cổ vật văn hóa Chăm có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 12-13 và là hiện vật gốc độc bản duy nhất còn tương tối nguyên vẹn, tiêu biểu cho loại hình đài thờ tại Khu di tích Champa ở Mỹ Sơn, có giá trị nghiên cứu khoa học về văn hóa, tín ngưỡng, điêu khắc và kiến trúc của nền văn hóa Champa.

Đài thờ Trà Kiệu có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 12-13 và cũng là hiện vật gốc độc bản, tiêu biểu cho sự tồn tại của một khu kinh thành và thờ tự của Champa cách đây hơn 1.000 năm ở Trà Kiệu (Quảng Nam). Điểm nổi bật của hiện vật đài thờ này là sự nguyên vẹn bốn mặt của đài thờ cùng những chạm khắc thể hiện hoàn chỉnh một chủ đề trong thần thoại trong cuộc sống tâm linh, tín ngưỡng và phong cách nghệ thuật Champa.

Hiện vật còn lại là tượng Bồ Tát Tara có niên đại vào thế kỷ thứ 9 Champa được tìm thấy tại Đồng Dương (Quảng Nam). Hiện vật gốc độc bản này đại diện cho di tích nền móng Phật viện lớn nhất của Vương quốc Champa.

Cả ba hiện vật trên đều đang được bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm, thành phố Đà Nẵng.

Dưới đây là một số hình ảnh của Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng về các hiện vật vô giá đang có mặt tại đây:

Đài thờ Trà Kiệu được làm từ đá sa thạch, có kết cấu hiện tại gồm hai phần. Phần bên trên gồm hai thớt tròn, được trang trí với những cánh hoa sen cách điệu trên và dưới đối xứng nhau. Thớt phía trên thể hiện linh vật Yoni, với rãnh và vòi dẫn nước, ôm lấy một linh vật Linga. Phần bên dưới là một đế thờ hình vuông gồm bốn mặt với vô số hình người được chạm khắc tinh xảo.

Với những hình tượng nhân vật đuợc điêu khắc chạm trổ rất trau chuốt, đều đặn, đặc biệt là hình ảnh mười một vũ nữ Apsara nhảy múa vô cùng mềm mại, uyển chuyển, gợi cảm đến những kiểu trang phục, trang sức, kiểu tóc được thể hiện rất tỉ mỉ, tác phẩm hoàn toàn xứng đáng là một trong những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc Chăm.

Hình ảnh toàn cảnh mặt trước của đài thờ Mỹ Sơn E 1. Chính giữa đài thờ là một bậc cấp được chạm khắc tinh vi.

Thành của bậc cấp là bức chạm tả cảnh ba người trong điệu múa khăn. Hai bên là hai vũ công, chân trái khép lại, chân phải xoãi bật ra, hai tay cong lên nâng dãi lụa. Tất cả toát lên một vẻ say sưa, thành kính trong nghi lễ dâng cúng thần linh.

Bên hông phải của bậc cấp đài thờ là cảnh một đạo sĩ ngồi trầm ngâm trước một quyển kinh, bên trái đạo sĩ là một chú két ló đầu ra từ một lùm cây, bên phải là một chú sóc duỗi cái đuôi xù chạy xuống từ một thân cây to có tán lá toả ngang đầu đạo sĩ.

Hai bên bậc cấp là hai phiến đá chạm khắc hai vòm cuốn, mô phỏng theo hình dáng các vòm cuốn trên các cửa tháp. Dưới hai vòm cuốn là hình ảnh hai nhạc công, một người đang chơi đàn và một người thổi sáo.

Tượng Bồ tát Tara – một trong số nhiều hiện thân của Bồ tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara) được làm bằng đồng, có chiều cao 114 cm với các đường nét chạm khắc tinh tế. Hiện vật này gắn liền với sự kiện vua Chămpa Indravarman II đã cho xây dựng ở đây một Phật viện và một đền thờ để thờ Bồ Tát Laksmindra Lokesvara vào năm 875.

Đây là bức chạm khắc trang trên vòm cửa của tháp Mỹ Sơn E1, thể hiện một chủ đề quen thuộc trong thần thoại Ấn Độ là cảnh thần Vishnu sinh ra thần Brahma từ cuống rốn của mình. Đường nét mềm mại, đơn giản nhưng sống động của các tác phẩm điêu khắc trên đài thờ Mỹ Sơn E1 và bức mi cửa này đã được xem là tiêu biểu cho một phong cách nghệ thuật sớm của điêu khắc Chămpa, xuất hiện trong khoảng thế kỷ 8 – 9.

Pho tượng thần Ganesa được tìm thấy tại tháp E 5 ở Mỹ Sơn. Với thân hình tròn trĩnh, mập mạp, tượng thần Ganesa đứng trông rất vững chãi, bệ vệ và thân thiện với mọi người. Theo các nhà nghiên cứu, cho đến nay chỉ mới tìm thấy 2 tượng Ganesa ở dạng đứng, một tại miền nam Ấn Độ và một tại Mỹ Sơn.

Tượng thần Deva kích thước lớn (cao 1m 62) trong tư thế ngồi trên ghế, hai tay để trên đầu gối, chân buông thẳng xuống nền được tìm thấy ở làng Đồng Dương.

Cách pho tượng thần Deva không xa, các nhà khảo cổ tìm tìm thấy 4 pho tượng hộ pháp cao gần 2 mét. Phía trên là hình ảnh của một trong những pho tượng đó.

Tượng thủy quái Makara có niên đại từ thế kỉ 12, được khai quật tại Thám Mẫm – Bình Định. Tác phẩm là một tượng tròn, ở tư thế nằm, được cách điệu với sự pha trộn nhiều chi tiết của nhiều con vật khác nhau, hai chân trước cùng đầu vươn cao, lòng bàn chân mở ra phía trước tạo nên tư thế vừa ngộ nghĩnh vừa hung dữ.

Cùng niên đại và địa điểm với tượng thủy quái Makara là một pho tượng rồng, cũng được thể hiện ở dạng tượng tròn với dáng vẻ rất ngộ nghĩnh. Các chi tiết tinh xảo trên mình, đầu và đuôi rồng là sự kết hợp của nhiều con vật khác nhau. Toàn bộ tác phẩm thể hiện sự khéo léo, óc sáng tạo và tính hài hước của các nghệ sĩ Chăm.

 Một đài thờ có niên đại từ thế kỷ 12, được thể hiện dưới dạng một thớt tròn, xung quanh được trang trí với 23 bầu vú phụ nữ đầy đặn, căng tròn. Phía trên và dưới của đài thờ là các đường xoắn chập hai đầu dây rất tỉ mỉ, theo phương thẳng đứng. Đây là một kiệt tác của điêu khắc Chăm, thể hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực và xã hội mẫu hệ.

Tượng chim thần Garuda, có niên đại từ thế kỷ 13, được tìm thấy ở Bình Định có mình người, mỏ và cánh của chim nhưng đầu và chân lại giống sư tử. Chim đứng xòe cánh, tay phải cầm một con rắn hai đầu, miệng ngậm đuôi rắn, chân phải đạp lên một đầu rắn khác. Trong thần thoại Ấn giáo, Garuda có mối thù sâu sắc với loài rằn.

Phù điêu thần Vishnu (vị thần bảo tồn, canh giữ không trung theo Ấn độ) có niên đại từ thế kỷ 11 – 12, được tìm thấy ở Trà Kiệu. Đề tài về vị thần này xuất hiện không nhiều trong điêu khắc Champa vì thế tác phẩm này rất quí hiếm và có giá trị trong việc tìm hiểu nghệ thuật điêu khắc và tôn giáo của Champa.

Read Full Post »

Dino   Buzzati

TRƯƠNG  VĂN   DÂN   Chuyển   ngữ

Bồng đứa cháu gái trên tay, mình  đầy máu, tôi hấp tấp lách qua chiếc cổng phụ khép hờ để vào bệnh viện. Tôi không biết có lão gát gan hay anh bảo vệ nào không, cũng chẳng biết là có ai nhìn thấy mình hay đang la mắng gì không. Trong lúc hốt hoảng vì cần làm gấp, tai tôi như ù đi và chẳng nghe thấy gì.

Có nhiều khu điều trị sừng sững giữa một khuôn viên rộng.Vừa chạy tôi vừa tiến đến một dãy lầu gần nhất, leo vội mấy bậc thang, tôi bước  ngay vào tiền sảnh. Có một người y tá hay gì gì đấy mặc áo choàng trắng vừa đi ngang qua, dường như ông ta cũng có vẻ vội.

“Thưa ông”, tôi ngập ngừng và rụt rè hỏi thăm. Nhưng gã ta  không cho tôi nói hết câu.        ” Ông không biết đọc à ? Đây là  khu lâm sàng, và thứ này đâu phải chuyện làm ở đây” vừa nói ông  vừa lấy cằm ra hiệu về phía bé gái đang nằm trên cánh tay tôi, coi như đó là một thứ hàng hoá hay một con bò, một  bé gái đang trong tình trạng nguy cấp và có lẽ sắp chết.

Tôi van  vỉ : ” Vậy chỗ nào? Tôi phải đi đâu?”. “Thì vào cổng chính đó ” gã y tá lớn tiếng một cách khó chịu. ” Ông phải vào  khu nhập viện” ( gã ta  phát âm chữ nhập viện bằng một giọng rất là nghi thức), cuối đường, nằm  bên trái đó .”

Tôi hấp tấp  chạy ra đường chính. Sự mệt mỏi làm hai cánh tay tôi như tê liệt. Cái đầu của bé gái lắc lư theo từng bước chân, đánh qua đánh lại như ngầm ý bảo là  hãy bỏ cuộc đi, tất cả đã vô ích.

Tôi đọc thấy mấy chữ “Khu giải phẩu ” viết bằng chữ lớn trên một tấm bảng trước một dãy nhà cao. Không chần chừ. Nhưng trên bục  kệ có một bà sơ mặc áo trắng đang đứng, khuôn mặt có vẻ hiền từ. ” Thưa ma sơ, làm ơn xem…” Nhưng giọng nói thật dịu dàng của bà ta đang ngăn không cho tôi nói hết câu: ” Xin lỗi ông, thế này là không được ” bà sơ nói với lòng bác ái của chúa ” Nếu ông  chưa  có giấy…chưa có giấy nhập viện…thì không vào đây được”. ” Nhưng sơ không thấy là cháu bé bị thương nặng lắm sao? Vết thương vẫn còn tiếp tục chảy máu ” tôi xuống giọng năn nỉ ” làm ơn băng bó vết thương giùm cháu, tôi van sơ mà “. ” Ông ơi, việc này đâu phải tuỳ thuộc ở tôi” bà ta trả lời, và giọng của bà ta bỗng trở nên lạnh lùng và rất hành chánh ” Không thể cho nhập viện một bệnh nhân như vậy! Ông đừng mất thời giờ nữa. Hãy đến làm thủ tục ở khu nhập viện!” Nằm ở đâu?” tôi ấm ức hỏi lại.” Cuối đường kia nè, ông thấy chứ? Dãy lầu sơn màu đỏ .” Trong làn nước mắt, tôi nhìn theo tay chỉ, thấy ở cuối  khu vuờn có một dãy nhà sơn đỏ, trông hơi nhỏ vì tôi đang đứng từ xa. Tôi đứng chết lặng, ngỡ ngàng. ” Thật tội nghiệp ” bà sơ vuốt ve, giọng bà ta lúc này đã trở nên dịu dàng, và vừa xoa cái đầu đầy máu của cháu bé bà vừa lắc đầu nhè nhẹ ” Tội nghiệp con bé quá”

Tôi tiếp tục bước đi, trong tuyệt vọng. Giờ thì tôi không còn sức để mà chạy nữa. Tôi vừa đi vừa nhìn chăm chăm vào cái bóng màu đỏ nằm đàng xa.  Còn bao lâu nữa tôi mới đến được nơi đó?

May quá, đang có một người đang đi về hướng tôi. Đó là một người đàn ông khoảng chừng 40 tuổi, cũng mặc áo choàng trắng, có để râu. Có lẽ ông ta là một bác sĩ, tôi nghĩ thế.

” Đi đâu với kiểu này vậy? Ai cho ông vào đây?” Ông ta chặn tôi lại và hình như đang chăm chăm nhìn vào những  vết màu đỏ tươi  trên con đường lát sỏi trắng mà tôi vừa bỏ lại  sau lưng mình. Tia nhìn đầy khiển trách và  như đang buộc tội.

“Bác sĩ ơi, ông không thấy hay sao?” tôi hốt hoảng “Ông làm ơn giúp tôi, ông cứu giùm cháu bé đi, tôi van ông!”

“Nhưng ông vào từ lối nào? Nói đi, từ lối nào” Ông ta lãnh đạm, hỏi vặn tiếp.

” Vào cổng” tôi trả lời ” Tôi đã  bước qua một chiếc cổng ”

“Ôi Chuá ơi! Khuôn mặt ông ta nhăn nhúm lên vì giận dữ “À, bọn bảo vệ làm ăn như vậy hả? Đồ ăn hại! Lại còn không đóng cổng nữa chứ. Hừm…rồi chúng mày sẽ biết… này, ông nói đi, ông vào đây bằng cổng nào?”

“Làm sao mà tôi biết cổng nào!” Tôi nóng tiết trả lời ; Nhưng ngay lập tức tôi sợ là trả lời như vậy có thể làm cho ông ta phật ý, vì tôi còn cần phải nhờ vào sự cứu giúp của ông ta “Từ cổng đó đó, cổng mở mà “. Rồi tôi dợm người định bước đi.

Nhưng ông ta chụp lấy vai tôi, giữ lại.” à không, đây là việc cần phải làm cho rõ. Trước khi bỏ đi, ông phải giải thích một cách chính xác là ông đã vào cổng bằng cách nào.”

Nghe tiếng tranh cãi, có một người đàn ông khác đang tiến lại. Nhìn vào dáng dấp, tôi nghĩ rằng ông ta cũng là một bác sĩ. Cũng có thể là người có thẩm quyền.

“Ông có muốn nghe một chuyện hài không?” Ông bác sĩ để râu, phẫn nộ, thông tin cho người vừa tới. ” Cái  cha này  đi vào đây qua cổng phụ! Hừm,  Bây giờ người ta đi vào đây như vào một cái chợ!  Bây giờ người ta mang bệnh  nhân đi lòng vòng như đi trong nhà mình!”

Người vừa đến, mỉm cười thích thú một cách thật quái lạ. Ông ta gật gật đầu nhưng không đánh mất vẻ bình tĩnh. Sau đó, ông đưa một ngón tay ra sờ lên màng tang bé gái, lúc này đã bất tỉnh, rồi nhấn mạnh vào vòng ngoài vết loét. Tôi thụt lùi, như bị người ta dụi vào một que củi đang cháy đỏ. Nụ cười của người đàn ông lúc này  như mở rộng hơn. Tôi nghe ông ta lẩm bẩm : ” phần…. bị nguy rồi” chữ thứ hai là một  danh từ chuyên môn rất khó mà tôi không nghe rõ.

“Phần… nào bị nguy, thưa giáo sư?” Tôi vội hỏi ông ta. “Nhờ ông giúp cho cháu, tôi xin ông…làm ơn giúp cháu trước khi quá trễ.”

“Nhưng đây là bệnh viện” ông ta trả lời, bằng giọng điệu của một người ý thức rất rõ về quyền hạn của mình.” Cậu có biết  nơi đây là bệnh viện không, cậu bé ! Bệnh viện, chứ đâu phải là khách sạn… Nhưng thôi,  đi lẹ lên, nhanh lên. Cậu phải đi về cuối khu vườn đó! ”

Tôi bước đi, một cách máy móc. “Ê ! Ông chưa nói cho tôi biết là ông đã vào đây bằng cổng nào! Ông cần phải báo cáo cho tôi biết chứ! Bộ tính đi luôn hã?” Tôi nghe từ phía sau lưng mình tiếng nói  lớn giọng của ông bác sĩ có râu, đang nằng nặc đòi mở cuộc điều tra. Tôi còn nghe thêm một câu nữa ” Đồ vô ý thức!”. Nhưng lúc này thì tôi đã cách xa rồi. Tôi chạy, không biết bằng cách nào mà tôi chạy, trên hai cánh tay vẫn bồng cháu gái, khắp người thấm đầy máu. ” Quỉ sứ sẽ xé thịt bọn bay” tôi gào lên, chửi mắng bọn bác sĩ, ma sơ, y tá. ” Một lũ mắc dịch”. Nhưng, tôi biết, dựa vào thủ tục thì họ có lý. ” Dịch hạch ! ” tôi gào lên, gào lên.” Quỉ sa tăng sẽ xé xác chúng mày!”

Nguyên  tác : Questioni ospedaliere

TRƯƠNG VĂN DÂN Chuyển ngữ

Read Full Post »