Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Vua Quang Trung’

Trúc Diệp Thanh.
            Chùa Trăm Gian (Quảng Nghiêm tự) không chỉ nổi tiếng là ngôi chùa cổ với hàng nghìn năm tuổi mà từ đầu những năm 70 thế kỷ XX còn thêm nổi tiếng về các di vật của Đô đốc Long,vị tướng Tây Sơn huyền thoại, do GS Phan Huy Lê (GS PHL) phát hiện cùng với các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá cùng thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội),Gần đây dư luận phẩn nộ lên tiếng về di sản quốc gia cực kỳ quý hiếm-Chùa Trăm Gian,bị xâm hại dưới danh nghĩa “trùng tu di tích” là rất chính đáng.Song điều đáng ngạc nhiên là việc xuyên tạc các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá có liên quan đến các di vật ở Chùa Trăm Gian, giới khoa học xã hội phát hiện,công luận lên tiếng,đã hơn một thập kỷ qua cho đến nay vẫn chìm vào im lặng! (more…)

Read Full Post »

Trúc Diệp Thanh
 
    I-Bất cứ ai đọc sử Tây Sơn,nhất là người Hà Nội, đều ngưỡng mộ  vị tướng huyền thoại của Tây Sơn vào mờ sáng ngày 5 tháng giêng Tết Kỷ Dậu (1789) đã chỉ huy đánh thắng  quân Thanh ở mặt trận Khương Thượng-Đống Đa sau đó tiến vào giải phóng Thăng Long buộc Tôn Sĩ Nghị cùng tàn quân Thanh phải tháo chạy khỏi kinh thành kết thúc chiến trận đại phá 29 vạn quân Thanh do Quang Trung-Nguyễn Huệ chỉ huy.Điều đáng tiếc là suốt 200 năm kể từ ngày triều đại Tây Sơn sụp đổ,danh tướng lập chiến công lừng lẫy nói trên chỉ được sử sách chép vỏn vẹn ba chữ Đô đốc Long (hoặc Mưu) ngoài ra không còn chi tiết về lai lịch nào khác. (more…)

Read Full Post »

– Khi phái đoàn của Quang Trung (giả) đến Nhiệt Hà để ra mắt Càn Long, vua Thanh đã tặng An Nam Quốc vương một viên ngọc Như ý, một tòa Ngọc phật, tặng cả đoàn một vạn lạng bạc…

Vì sao Phạm Công Trị lại về nước?

Phác họa chân dung Quang Trung trên một tờ tiền giấy.
Phác họa chân dung Quang Trung trên một tờ tiền giấy.

Việc cử “vua giả” sang chầu Càn Long là một điều bắt buộc, một sự vạn bất đắc dĩ bởi nó là sự mạo hiểm chết người đối với các nhà ngoại giao của cả hai bên. Vì vậy, việc tính toán kỹ lưỡng, chi tiết cho cho chuyến đi này là vấn đề sống còn của cả hai bên. Có ai dám chắc rằng, trong cả quá trình đi hàng mấy tháng trời qua rất nhiều địa điểm đón tiếp, không phạm phải những sơ suất mà chân tướng vua giả sẽ lộ ra?

Ai dám đảm bảo rằng, trong số rất nhiều vong thần nhà Lê, những kẻ tử thù của Tây Sơn hiện đang nhan nhản ở vùng sát biên giới (bên phía Trung Quốc) nhận diện ra Quang Trung giả? Chính vì vậy mà Nguyễn Quang Thùy chính là nhân vật chính của phương án 2, nếu phương án 1 là Quang Trung giả bị bại lộ.

Ở đây ta thấy cái tài khôn khéo của các nhà ngoại giao Tây Sơn, đó là trong giả có thật, trong thật có giả. Quang Trung là giả, nhưng con Quang Trung là Quang Thùy lại là thật. Và khi giả (phương án 1) bị bại lộ thì thực (phương án 2) sẽ thay thế, quyết không để cho công cuộc bang giao bị đổ bể. Tình huống cụ thể ở đây là, trong đoàn ngoại giao có ghi tên Phạm Công Trị (người có thực đang đóng vai Quang Trung) nhưng người mang tên Phạm Công Trị lại là một người khác (có thể chỉ là một nhân vật vô danh, một người lính chẳng hạn). Đặt trường hợp Quang Trung giả bị phát hiện là Phạm Công Trị thì tất nhiên ông phải nhận mình là Phạm Công Trị, tên tuổi ông đã được ghi rõ ràng trong danh sách ngoại giao đoàn. Lúc đó thì “Quang Trung” đành phải cáo ốm mà trở về nước, ủy thác lại cho Nguyễn Quang Thùy tiếp tục công việc. Người tháp tùng Quang Trung “giả” sẽ là Phạm Công Trị, lúc này sẽ lấy tên thật. Còn ai sẽ là Quang Trung “giả” trong vai vua ốm? Đó chính là người vô danh đội tên Phạm Công Trị lúc ra đi.

“Người vô danh” này không cần phải giống Quang Trung, bởi vì dọc đường về, do “vua” bị ốm nên sẽ ở trong xe (hoặc kiệu) được buông rèm kín không lộ diện. Tuy nhiên, điều chẳng may bị lật tẩy đó đã không hề xảy ra. Đoàn vượt biên giới Lạng Sơn vào ngày 13/4 Canh Tuất (1790). Đầu tháng 5 thì đi hết địa phận Lưỡng Quảng. Sự việc diễn ra êm đẹp. Từ đây, khi đã vào sâu trong nội địa Trung Quốc thì mối lo bị lộ tẩy do các vong thần nhà Lê hay các thế lực thù địch với Tây Sơn không còn nữa. Có nghĩa là phương án 2 không cần đến.

Lúc này, Nguyễn Quang Thùy phải trở về nước. Nguyễn Quang Thùy được phong tước Khang Công, đang lĩnh chức Tiết chế thủy bộ ở Bắc Thành (tức chỉ huy toàn bộ quân đội ở phía Bắc) ông còn nhiều việc phải làm. Phạm Công Trị trong vai Quang Trung giả cũng không có gì sơ suất, cần phải “quên” cái tên Phạm Công Trị đi. Vì vậy, “người vô danh” mang tên Phạm Công Trị trong dịp này cũng trở về với Nguyễn Quang Thùy. Như vậy, dù thực hiện phương án 1 (Quang Trung giả) hay phương án 2 (Hoàng Tử thật) thì cái tên Phạm Công Trị cũng phải được xóa bỏ trong danh sách Đoàn ngoại giao trước khi triều kiến vua Càn Long. Đó là lý do vì sao chúng ta thấy trong số những người tháp tùng Nguyễn Quang Thùy về nước lại có tên Phạm Công Trị.

Chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế

Quang Trung “giả” đã không bị bại lộ. Phái đoàn sứ bộ của ta đã thành công mỹ mãn. Vua Càn Long đã tỏ ra rất trân trọng, rất chu đáo với “Quang Trung”. Trên đất Trung Quốc phái đoàn đi đến đâu cũng được đón tiếp long trọng. Thậm chí khi Càn Long nhận được quà biếu là quả vải tươi, đã cho chạy ngựa trạm vượt hàng ngàn dặm, đem đến biếu Quang Trung lúc ấy đang trên đường đi. Xem số quả vải tươi được biếu (5 quả), trong đó vua Quang Trung được 2 quả, Phúc Khang An được 2 quả và Ngô Văn Sở được 1 quả, đủ thấy nhà Thanh quý quả vải tươi như thế nào, và tầm cỡ của người được biếu vải.

Khi phái đoàn của Quang Trung (giả) đến Nhiệt Hà để ra mắt Càn Long, vua Thanh đã tặng An Nam Quốc vương một viên ngọc Như ý, một tòa Ngọc phật, tặng cả đoàn một vạn lạng bạc, tặng Ngô Văn Sở một cái mũ san hô tam phẩm (tức công nhận Ngô Văn Sở ngang hàng quan tam phẩm nhà Thanh). Ngày 20 tháng 8 Canh Tuất (1790) vua Thanh đặt tiệc tiễn Quang Trung về nước.

Khi “Quang Trung” vào bệ kiến để từ biệt, Càn Long đã mời vào bên giường ngự, vỗ vai thân mật, sai họa sĩ cung đình vẽ một bức chân dung Quang Trung để tặng. Càn Long lại tự tay viết 4 chữ đại tự “Củng cực quy thành” (Chầu về sao Bắc đẩu với tất cả lòng trung thuận, thành thực). Sách Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép lại: “Khi Quốc vương tới Yên Kinh, vua Thanh mừng lắm, không hề biết là Quang Trung giả. Lúc Quốc vương vào yết kiến, vua Thanh cho ăn yến với các vị thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm gối, hệt như tình cha con trong nhà. Lúc Quốc vương lạy tạ về nước, vua Thanh sai thợ vẽ bức truyền thần mà ban cho, ân lễ rất trọng hậu, thực là một cách đối đãi khác thường từ ngàn xưa hiếm có.”

Theo Đại thanh thực lục thì số tiền nhà Thanh bỏ ra để chi tiêu vào việc đón tiếp Quang Trung trong suốt đợt đi sứ hết 80 vạn lạng bạc (con số này có thể bị khai khống lên để các quan lại địa phương có dịp bớt xén. Nhưng việc gửi quà, việc đón tiếp của Càn Long đối với Quốc vương An Nam là hết sức ân cần, chu đáo, điều đó không phải bàn cãi). Nhận xét về chuyến đi sứ này, nhà thơ Đoàn Nguyễn Tuấn, một thành viên của sứ bộ viết: “Từ trước đến nay, người mình đi sứ Trung Quốc chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế” .

PDK

Read Full Post »

(ĐVO) Ngoài đại bác, quân Tây Sơn còn được trang bị một loại vũ khí đặc biệt là Hỏa hổ – súng tung lửa, biến địch thành cây đuốc sống.

Theo sử sách, Hỏa hổ của quân Tây Sơn là một loại vũ khí hình ống, được mô tả: “Hỏa đồng còn có tên là hỏa hổ, có bầu lớn dài chừng một thước, khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức bốc cháy…”.

Loại vũ khí đặc biệt này được trang bị cho tất cả binh chủng lục quân, thủy quân của Tây Sơn.

Vua Quang Trung có tiếng nói như chuông, mắt lập lòe như ánh điện; là người thông minh, giỏi chiến đấu.

Sách Hổ trướng khu cơ ghi: Hỏa hổ chính là hỏa tiễn (vì lửa cháy dữ dội, nên gọi là hỏa hổ). Sử sách thời Nguyễn thường gọi Hỏa hổ là hỏa phún đồng. So sánh cách chế tạo, thì thấy loại vũ khí này được cải tiến từ các hỏa đồng (ống lửa) hạng nhỏ thời Lê sơ. Trong tay nghĩa quân Tây Sơn, nó được dùng một cách tập trung, ồ ạt, tạo thành hỏa lực giáp chiến hết sức lợi hại. Song, điều đáng nói là vua Quang Trung đã chế tạo ra hỏa hổ bằng những ống tre, trở thành một khí cá nhân có tính sát thương lớn. Nếu đem so với những khẩu súng hỏa đồng của quân nhà Trịnh hay súng pháo lớn cần hàng chục người vận chuyển của nhà Minh, nhà Thanh thì sáng tạo này của Quang Trung đã tiến xa cả về công nghệ, lẫn ý nghĩa thực tiễn trong chiến đấu.

Theo sách Những khám phá về hoàng đế Quang Trung, vào năm 1786, khi quân Tây Sơn ra Thăng Long chặn đuổi bọn quan lại nhà Lê, lính Bắc Hà đã tận mắt chứng kiến sức mạnh của Hỏa hổ Tây Sơn: “Các đội quân Trịnh thấy mũi giáo Tây Sơn quá sắc liệu không chống nổi, cố sức lấy súng lớn bắn ra, quân Tây Sơn đều cúi đầu tránh đạn mà nhảy vào. Chúa Trịnh mặc nhung phục, đứng trên voi phất cờ hồng thúc các quân. Quân Tây Sơn lấy ông Hỏa hổ tung ra, quân Trịnh đều tan vỡ, vứt gươm, bỏ giáo, xô nhau chạy trốn thể như núi đổ…”

Quân Thanh nghe tiếng Hoả hổ của Tây Sơn cũng khiếp sợ, nên trong 8 điều quân luật, có điều thứ 5 để chống lại Hoả hổ như sau: “Quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng ống phun lửa làm lợi khí, gọi là hoả hổ. Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ đó để đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải rút lui. Nhưng tài nghệ của họ cũng chỉ có thế thôi, so với súng ống của ta thì họ kém rất ra… Hiện nay, ta chế sẵn vài trăm lá chắn da trâu sống. Nếu gặp Hoả hổ của người Nam phun lửa, thì quân tay cầm lá chắn ấy đỡ lửa một tay cầm dao chém bừa chắc rằng chúng bỏ chạy tan tác”.

Hoa hổ của quân Tây Sơn có thể biến địch thành cây đuốc sống.

Một số tài liệu cũng cho biết, trong lục chiến, vua Quang Trung thường dùng tượng binh phá kỵ binh, dùng hỏa hổ gây rối loạn bộ binh, rồi xông lên xáp la cà. Còn trong thủy chiến, nhà vua rất hay dùng lối đánh áp sát để hạn chế sức sát thương của đại bác địch, rồi triển khai hỏa công để đốt tàu địch, tức dạng Hỏa hổ có tên gọi Rồng cỏ – thực chất là một loại bãi cháy dùng đánh hoả công để vây đốt binh thuyền của địch, mà điển hình và ngoạn mục nhất là trận đánh hoả công do Nguyễn Huệ chỉ huy, đã đốt cháy tàu chiến của Manuel ở chiến trường Gia Định vào năm 1782.

Khi đó, Nguyễn Ánh thông qua Bá Đa Lộc nhận được viện trợ quân sự của Pháp – Bồ Đào Nha, tập hợp được một lực lượng gần 3 vạn thủy quân đi trên gần 500 chiến thuyền trong đó có 2 tàu chiến kiểu châu Âu và 3 tàu Bồ Đào Nha: mỗi tàu có 10 đại bác và được bọc đồng. Đội tàu châu Âu do một sĩ quan Pháp là Manuel chỉ huy.

Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Huệ, lợi dụng chiều gió, quân Tây Sơn ào ạt áp sát chiến thuyền quân Nguyễn – Pháp, dùng Rồng cỏ lợi hại tấn công, khiến chiến thuyền của Manuel bị vây trong vòng vây và bị đốt chìm. Manuel tử trận, thủy quân của Nguyễn Ánh bị đánh tan tác, chỉ còn một số ít chạy dạt xuống Phú Quốc.

Như vậy, rõ là trong nghệ thuật quân sự thời xưa, việc dùng lửa tiêu diệt quân địch là một chiến thuật kinh điển, cho phép sử dụng tối thiểu sức người, hạn chế thương vong nhưng vẫn đạt uy lực tiêu diệt địch một cách tối đa.

1. Trong lịch sử Việt Nam có duy nhất hai vị tướng bách chiến bách thắng, cả đời cầm quân chưa thua trận nào, đó là Phạm Ngũ Lão và vua Quang Trung.Nguyễn Huệ (1753-1792) sinh năm 1753, còn có tên Nguyễn Quang Bình; là em út trong gia đình có ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Tổ của Nguyễn Huệ họ Hồ, nhưng khi khởi nghĩa ở Quy Nhơn, lấy họ mẹ (Nguyễn).Sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện chép, Nguyễn Văn Huệ có tiếng nói như chuông, mắt lập lòe như ánh điện; là người thông minh, giỏi chiến đấu. Ông cầm quân từ năm 17 tuổi, đánh đông dẹp bắc toàn đều toàn thắng nhờ vào phương châm chiến thuật: bí mật và thần tốc, lấy chính binh làm chủ, kỳ binh làm phụ. Đỉnh cao nhất là trận phá quân Xiêm – Nguyễn ở Rạch Gầm – Xoài Mút và chiến dịch đại phá 20 vạn quân Thanh.

Vua Quang Trung mất ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (16 tháng 9 năm 1792), vào khoảng 11-12hđêm, ở ngôi 4 năm, thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Vũ hoàng đế. Hiện nay, có đền thờ tại huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

2. Theo Binh thư yếu lược, bài thuốc súng và cách chế Hỏa hổ rất giống nhau: dùng một cái ống (bằng sắt hoặc bằng tre, gỗ) dài khoảng 25cm, nạp thuốc thành nhiều nấc.

Nấc đầu tiên là liều thuốc bắn, giã nén chặt dày khoảng 4cm, sau đó tiếp nấc thứ hai là liều thuốc phun, giã nén chặt, dày khoảng 12cm. Sau đó, nạp đạn ghém gồm các vật liệu sát thương, dày khoảng 4cm. Phần ống còn lại nạp dầy thuốc phun.

Gặp địch, người dùng hỏa hổ châm ngòi, cầm cán tre chĩa vào, thuốc phun và đạn sẽ phóng ra đốt cháy sát thương đối phương. Dùng xong lại có thể lấy ống đó nạp liều thuốc khác.

Read Full Post »