Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Trần Xuân Toàn’

Hà Tùng Sơn

.

Sống và viết ngay trên quê hương xứ Nẫu, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Xuân Toàn đã chọn Bình Định làm không gian nghiên cứu để từ đó anh có hàng trăm bài báo, bài tham luận về văn hóa, văn nghệ dân gian Bình Định được công bố trong hàng chục năm qua. Trên cơ sở đó, anh đã tập hợp, biên soạn, chỉnh lý để cho ra cuốn Dạo bước vườn văn xứ Nẫu dày 530 trang (NXB Dân trí ấn hành tháng 12.2024). Đây là một thành quả đáng kể của Trần Xuân Toàn trên con đường nghiên cứu và sưu tầm văn hóa, văn chương xứ Nẫu – Bình Định, vùng đất được xem là văn võ song toàn.

Dạo bước vườn văn xứ Nẫu- Ảnh 1.
Sách Dạo bước vườn văn xứ Nẫu của tác giả Trần Xuân Toàn

Cuốn sách gồm hai phần. Phần I: Hương sắc dân gian Bình Định gồm những bài viết liên quan đến chủ đề văn hóa, văn nghệ dân gian trên dải đất Bình Định. Phần II: Chân dung và tác phẩm, lànhững bài viết chân dung văn học về các tác giả, tác phẩm, các nghệ sĩ, nghệ nhân dân gian gắn kết với Bình Định từ xưa đến nay. Với bố cục đó, tác giả Trần Xuân Toàn khiêm tốn xem mình như một lữ khách dạo bước qua vườn văn xứ Nẫu, Bình Định. Nhưng trên thực tế, đây đều là những tiểu luận nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về tác giả, tác phẩm tạo nên một diện mạo đầy đủ và nghiêm túc về một vùng văn hóa và văn học. Thực sự đó là một vườn hoa nhiều hương sắc về vùng đất võ, xứ văn chương Bình Định.

Bình Định như một Việt Nam thu nhỏ về sự đa dạng của văn hóa và văn học từ dân gian đến hiện đại. Lịch sử hình thành và phát triển của xứ Nẫu, Bình Định gắn với lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của văn hóa, văn học địa phương này trong sự thống nhất và đa dạng. Đó là tiền đề để tác giả Trần Xuân Toàn dày công nghiên cứu và cho ra tác phẩm Dạo bước vườn văn xứ Nẫu

Với công trình này, tác giả muốn gửi đến bạn đọc thông điệp: “Cũng như con người, văn hóa và văn chương luôn mang đậm tính vùng miền như một thuộc tính tất yếu”. Chính thuộc tính ấy tạo nên sự đa dạng, đa sắc và cá tính với tất cả sự hấp dẫn của nó. Với con mắt của nhà nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra được sự khác biệt, sự đặc sắc và đa dạng của văn hóa, văn học Bình Định.

Chẳng hạn khi nói về văn học dân gian miền biển Bình Định, anh đã khẳng định: “Ở đâu có con người ở đó sẽ ra đời một nền văn học dân gian”. Cư dân miền biển Bình Định cũng vậy, suốt một dải bờ biển dài hàng trăm km từ Hoài Nhơn vào đến Quy Nhơn, nơi đâu cũng dày đặc những làng chài với những con người ngày ngày bám biển để sống, để làm giàu từ biển. Cũng từ đó, các làng chài Bình Định hình thành nên một nền văn hóa, văn nghệ dân gian độc đáo và đa dạng như con người vùng biển nơi đây – mộc mạc mà thắm thiết, chân tình mà mãnh liệt. Chỉ có người con gái biển Bình Định mới bộc lộ tình yêu với chàng trai biển bằng nỗi lo đau đáu mỗi khi người yêu dong buồm ra khơi đánh cá:

“Nồm nam, bấc chướng sóng lượn ba đào

Anh đi câu. Biết chừng nào anh vô”

Đó là câu ca dao ở vùng biển Bình Định mà Trần Xuân Toàn đã sưu tầm được trong những chuyến anh đi điền dã.

Các kết quả nghiên cứu văn học hiện đại của Trần Xuân Toàn trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu đã chỉ ra rằng, phong trào Thơ mới có nhiều thi nhân nổi tiếng bắt đầu từ phố biển Quy Nhơn. Lưu Trọng Lư, tác giả của bài thơ Tiếng thu nổi tiếng, từng diễn thuyết cổ xúy cho phong trào Thơ mới tại nhà Học hội Quy Nhơn từ tháng 6.1934. Trong số 45 tác giả có tên trong Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân thì Bình Định đóng góp đến 5 gương mặt trong đó nổi bật là Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn…

Ngoài Thơ mới, cuốn sách Trần Xuân Toàn cũng cho độc giả biết Quy Nhơn – Bình Định còn là vùng đất quê hương của hàng trăm văn nhân, thi sĩ, nghệ sĩ đang sinh sống và hoạt động nghệ thuật trên khắp mọi miền đất nước. Đồng thời, đó cũng là vùng đất mà rất nhiều văn nhân, thi sĩ trên khắp cả nước đã tìm đến với rất nhiều cảm hứng sáng tạo để từ đó kết thành duyên nợ văn chương với Quy Nhơn. Và đó là niềm tự hào của người xứ Nẫu, Bình Định được tác giả đề cập khá nhiều trong cuốn Dạo bước vườn văn xứ Nẫu. Anh xem đó là một thành tựu lớn của văn hóa, văn học Bình Định.

Với Trần Xuân Toàn, nghiên cứu về văn hóa, văn học Bình Định xưa và nay là một trong những hướng tiếp cận mà anh dành nhiều tâm huyết. Từ những trang viết của anh trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu, những gương mặt văn chương Bình Định thời hiện đại và đương đại thêm một lần được tỏa sáng. Đó là các văn nhân, nghệ sĩ nổi danh sống và viết trên đất Bình Định như Yến Lan, Vương Linh, Lệ Thu, Cao Duy Thảo, Thanh Thảo, Thu Hoài, Ngô Thế Oanh, Nguyễn Thanh Hiện, Đinh Xăng Hiền, Từ Quốc Hoài, Hà Giao, Lê Văn Ngăn… Đó còn là những cây bút trẻ sung sức với sức sáng tạo mãnh liệt và rất thành công như Nguyễn Thị Tư, Cao Chư, Trần Thị Huyền Trang, Nguyễn Thanh Mừng, Nguyễn Đăng Vũ, Phạm Đương, Mai Thìn… Đó là một nền văn học đương đại mà như Trần Xuân Toàn nói là “tràn căng sức trẻ”. Phản ánh một cách sinh động về những tác giả và tác phẩm văn chương Bình Định thời đương đại như trên cũng là một thành công lớn của Dạo bước vườn văn xứ Nẫu.

Là một nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian đồng thời cũng là một giảng viên văn học dân gian của Trường đại học Quy Nhơn, Trần Xuân Toàn đã viết các tiểu luận và cảm nhận văn học trong Dạo bước vườn văn xứ Nẫu một cách nghiêm túc, điềm đạm. Các luận chứng, luận điểm anh đưa ra đều dựa trên thực tiễn điền dã với đầy đủ các chứng cứ và ngữ liệu. Viết về văn chương nhưng văn chương của Trần Xuân Toàn rất thật thà và giản dị bởi anh là một nhà giáo dạy văn làm nghiên cứu văn học. Điều đó đã mang đến sự thành công của anh qua Dạo bước vườn văn xứ Nẫu.

Read Full Post »

Trần Xuân Toàn

dieu285

Có thể nói, chính nơi chôn rau cắt rốn vạn Gò Bồi, làng Tùng Giản, huyện Tuy Phước , tỉnh Bình Định, cái nơi nhà thơ thuở nhỏ đi học và lớn lên với nhiều kỉ niệm- thành phố Quy Nhơn- là cả một đời thơ của nhà thơ Xuân Diệu.
Những năm đất nước còn bị chia cắt, sống trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, mong ngóng về “miền Nam quê ngoại”, Xuân Diệu khao khát đến cháy bỏng, có một ngày nào đó đất nước được thống nhất, được trở về thăm lại quê hương, quê ngoại, quê má mến yêu. Hình ảnh quê hương ấy ở một người con đi xa, thật càng da diết biết bao! Nó cứ như điệp khúc trong lòng, nhà thơ càng cố nén đợi chờ, càng có cơ hội bật ra: “Quê má, quê má yêu. Ta mang theo sớm chiều. Mang theo trong giọng nói. Pha Bắc lẫn Nam nhiều” (Nhớ miền Nam).
Đây là tiếng nói bật từ trái tim nhà thơ, sống ở miền Bắc, dẫu chất giọng có pha đượm giọng Bắc nhưng vẫn Nam nhiều, làm nhà thơ không lúc nào nguôi ngoai về quê hương. Có thể nào nhà thơ nguôi quên khi đầu lưỡi của mình như nếm vị ngọt ngon của xoài Bình Định, da dẻ thắm hồng bởi muối biển Quy Nhơn ngày nào. Và đến ngay hơi thở cũng đượm “nước mắm ngon của vạn Gò Bồi” quê má: “Oi bao giờ, bao giờ. Ta tắm vào da thịt. Con sông nhỏ Gò Bôi. Quy Nhơn về ngụp biển. Muối đọng ở vành tai” (Nhớ miền nam).
Đi nhiều, biết nhiều là thế, nhưng hướng về quê hương, Xuân Diệu không hề có một tình cảm chung chung, trừu tượng dễ hoà tan mà ai cũng có thể nói ra được. Tình cảm của Xuân Diệu với quê má thân yêu là tình cảm cụ thể, cụ thể đến nắm bắt được, cảm nhận được.
Từ lúc má tôi đẻ tôi ra ở vạn Gò Bồi làm nước mắm
Một hạt muối trong tim để mặn với tất cả những gì đằm thắm
Hay là:
Tôi mới sinh ra thì đã có gió nồm
Cơn gió ấy tuyệt vời dọc miền Nam Trung Bộ
( Miền Nam quê ngoại)
chính là cái cụ thể không thể tan biến vào đâu được.
Tình cảm mà Xuân Diệu dành cho Quy Nhơn trong những ngày tuổi nhỏ đi học có đặc biệt hơn. Nhà thơ đã có lần “Tâm sự với Quy Nhơn” sau ngày thống nhất nước nhà. Quy Nhơn hiện lên trong kí ức nhà thơ với “ Nhà cũ cạnh chùa Bà”, với bao tên gọi Ghềnh Ráng, Đeò Son, với Tháp Đôi yêu mến. Đó là cả những ngày tháng oai hùng “tháng tám Quy Nhơn dậy thắm cờ”, cả những chuổi ngày đau xót khi “Mỹ nguỵ tới Quy Nhơn”. Thât khó mà diễn tả cho hết niềm hân hoan của Xuân Diệu khi nhìn thấy “Mỹ chuồn, nguỵ rã đường ven biển. Ngập áo rằn ri súng nguỵ tề”.
Ôi! Gió biển trăng sao ở Quy Nhơn, muối mặn xoài ngon ở vạn Gò Bồi, “bánh tráng bẻ giòn giòn, lục lạc kêu rang rảng” lẫn “tiếng cắc cụp bài chòi ở chợ Tết Văn Quang”, cùng với thế giới tuổi thơ thật là thơ trẻ của Xuân Diệu:
Khi những buổi trưa tuổi nhỏ lại về
Đi lượm xoài non rụng với khèo me
Một vài rừng hoang là một cái địa đàng…
(Đêm ngủ ở Tuy Phước)
Nhà thơ đem đến cho chúng ta một tình yêu quê hương cụ thể, đậm đà và da diết như Xuân Diệu đã từng yêu.
Quả là hóm hỉnh và yêu đời, ở cái tuổi “hom hem” của mình khi nói đến tình yêu (“hom hem” là với ai chứ với Xuân Diệu- “ông vua thơ tình”- thì “đến chết rồi tôi vẫn yêu ma” kia mà) thi sĩ đùa: Sẽ hoàn thành cuốn tự vị tình yêu để nam nữ thanh niên yêu nhau gặp điều gì trắc trở, thì tra vào đấy thi sĩ sẽ nói gì! Tình yêu mà nhà thơ suốt đời ca ngợi, có lẽ bắt nguồn từ tình yêu quê hương, cụ thể hơn, là với những người thân yêu nhất của mình. Nhớ đến quê hương, với Xuân Diệu cũng có nghĩa là nghĩ đến bà ngoại, đến má yêu quí. Đây là một tình cảm rất người của người Việt Nam ta nhưng vẫn có nét riêng ở nhà thơ:
Bà ngoại ta còn phảng phất ở đâu đây
Bánh ít lá gai, bánh ú mập đầy
Hoa qủa bốn mùa cũng từ ngoại mà ra ất cả
(Đêm ngủ ở Tuy Phước)
“Bà ngoại là thứ nhất của quê hương”. Xuân Diệu đã cảm nhận như thế. Chính bà đã hết lòng yêu thương ông đồ Nghệ trọ trẹ nhưng hay chữ mà tác thành gả con gái cho. Cuộc nhân duyên này lại là ngọn nguồn của một hồn thơ : Xuân Diệu. Như trên đã nói, cuộc tình duyên giức cha và mẹ nhà thơ có được là nhờ ở cái tình của ngoại. Vẫn là cái tình, cái nghĩa đấy thôi. Đó cũng là “ông tơ bà nguyệt” xe duyên mặn mà nhất. Nó gắn bó keo son hai con người ở hai đầu đèo Ngang cách trở:
Cha đàng Ngoài , mẹ ở đàng Trong
Hai phía đèo Ngang. Một mối tơ hồng
Quê cha Hà Tĩnh đất hẹp khô rang
Đói bao thửơ , cơm chia phần từng bát
Quê mẹ gió nồm thổi lên tươi mát
Bình Định lúa xanh ôm bóng Tháp Chàm
Và nhà thơ của chúng ta cũng được nuôi dưỡng trong hai cái nguồn mạch đó:
Muốn ăn nước dừa, ăn xoài chín đỏ
Muốn ăn bánh tét , bánh tổ
Thì theo tao ở mãi trong này
(Cha đàng Ngoài, mẹ ở đàng Trong)
Sỡ dĩ tôi phải dẫn chứng nhiều như thế là để thấy rằng, đối với Xuân Diệu, Bình Định là quê hương, “là một , là riêng, là thứ nhất”. Nhưng nhà thơ là sự kết tinh của hai dòng máu ở hai đầu đất nước, nên với Xuân Diệu, quê hương còn lớn hơn nhiều. Đấy là Nhân dân, là Tổ quốc. Chính nhà thơ sau này, trong một dịp tâm sự với bạn đọc nước ngoài, đã nói: “Tôi thấy hạnh phúc trọn vẹn đầy sáng tạo hơn khi ở với cha tôi là Nhân Dan, mẹ tôi là Tổ Quốc”. Mang ơn sâu nghĩa nặng đó, từ quê hương Bình Định mếm yêu, Xuân Diệu hành trình suốt cả cuộc đời mình, cống hiến tài năng cho đất nước, coi đó là niềm vui, là hạnh phúc. Xuân Diệu tiếp tục tâm sự: “Được nhận là một cái thích, nhưng được cho là một niềm vui còn lớn hơn nhiều, và người nghệ sĩ xin hiến dâng tài năng của mình cho hàng triệu bà mẹ của chúng ta, họ chính là Tổ Quốc”. Xuân Diệu đã đi vào cõi vĩnh hằng…Một trái tim ở giữa cuôc đời tha thiết, ngừng đập rồi mà hoa trái vẫn sinh sôi. “Thức với quê hương như vậy đã vừa đâu”.
Tôi bâng khuâng chợt nghe đâu đó lời ca tha thiết “Quê hương” của Đỗ Trung Quân:
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

(more…)

Read Full Post »

Trần Xuân Toàn  

 thapcham

Ba bài thơ của Văn Cao (1923-1995) viết về Quy Nhơn có thể coi là một chỉnh thể mà mỗi bài là một yếu tố đôc lập, tự đứng lấy được, vừa có quan hệ với nhau tạo nên một hệ thống hình tượng và một hệ thống cảm xúc của tác giả. Cả 3 bài thơ là môt chỉnh thể được xây dựng trên một hệ trục thời gian từ tương lai, hiện tại trở về quá khứ. Mỗi bài thơ tiêu biểu cho một thời đoạn mà tác giả dùng làm góc nhìn để “nhìn” vào chiều sâu Quy Nhơn. (more…)

Read Full Post »

Kí ức Quy Nhơn

Trần Xuân Toàn

 0aEoGio13

Tôi người Bình Định, quê gốc Hoài Nhơn, không sinh tại Quy Nhơn, nhưng ở Quy Nhơn từ lúc hai, ba tuổi. Thời ấy, loạn lạc, sợ đạn bom, gia đình tôi chuyển vào thành phố, đến Quy Nhơn. (more…)

Read Full Post »

Trần Xuân Toàn

Văn học dân gian miền biển rất phong phú. Bên cạnh các câu ca dao, tục ngữ nói về công việc lưới chài, các bài ca dao lao động (như Hò hụi, Hò kéo lưới, Hò chèo thuyền…) hay những câu tục ngữ có liên quan đến thời tiết như: “Tháng giêng động dài, tháng hai động tố, tháng ba nồm rộ, tháng tư nam non…” mà cư dân vùng biển rất thuộc, còn có một loại hình nghệ thuật mang rõ sắc thái địa phương và rất được ngư dân yêu thích – đó là các bài Vè các láicủa những người chuyên vào lộng ra khơi xuôi ngược Bắc – Nam. Vè các lái hay còn gọi là Hò các lái, Hò thủy trình thật ra là một bản tổng kết hải trình của các ghe bầu theo tuyến Bắc- Nam và ngược lại.

(more…)

Read Full Post »