Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Trương Văn Dân’

Dino   Buzzati

TRƯƠNG  VĂN   DÂN   Chuyển   ngữ

Bồng đứa cháu gái trên tay, mình  đầy máu, tôi hấp tấp lách qua chiếc cổng phụ khép hờ để vào bệnh viện. Tôi không biết có lão gát gan hay anh bảo vệ nào không, cũng chẳng biết là có ai nhìn thấy mình hay đang la mắng gì không. Trong lúc hốt hoảng vì cần làm gấp, tai tôi như ù đi và chẳng nghe thấy gì.

Có nhiều khu điều trị sừng sững giữa một khuôn viên rộng.Vừa chạy tôi vừa tiến đến một dãy lầu gần nhất, leo vội mấy bậc thang, tôi bước  ngay vào tiền sảnh. Có một người y tá hay gì gì đấy mặc áo choàng trắng vừa đi ngang qua, dường như ông ta cũng có vẻ vội.

“Thưa ông”, tôi ngập ngừng và rụt rè hỏi thăm. Nhưng gã ta  không cho tôi nói hết câu.        ” Ông không biết đọc à ? Đây là  khu lâm sàng, và thứ này đâu phải chuyện làm ở đây” vừa nói ông  vừa lấy cằm ra hiệu về phía bé gái đang nằm trên cánh tay tôi, coi như đó là một thứ hàng hoá hay một con bò, một  bé gái đang trong tình trạng nguy cấp và có lẽ sắp chết.

Tôi van  vỉ : ” Vậy chỗ nào? Tôi phải đi đâu?”. “Thì vào cổng chính đó ” gã y tá lớn tiếng một cách khó chịu. ” Ông phải vào  khu nhập viện” ( gã ta  phát âm chữ nhập viện bằng một giọng rất là nghi thức), cuối đường, nằm  bên trái đó .”

Tôi hấp tấp  chạy ra đường chính. Sự mệt mỏi làm hai cánh tay tôi như tê liệt. Cái đầu của bé gái lắc lư theo từng bước chân, đánh qua đánh lại như ngầm ý bảo là  hãy bỏ cuộc đi, tất cả đã vô ích.

Tôi đọc thấy mấy chữ “Khu giải phẩu ” viết bằng chữ lớn trên một tấm bảng trước một dãy nhà cao. Không chần chừ. Nhưng trên bục  kệ có một bà sơ mặc áo trắng đang đứng, khuôn mặt có vẻ hiền từ. ” Thưa ma sơ, làm ơn xem…” Nhưng giọng nói thật dịu dàng của bà ta đang ngăn không cho tôi nói hết câu: ” Xin lỗi ông, thế này là không được ” bà sơ nói với lòng bác ái của chúa ” Nếu ông  chưa  có giấy…chưa có giấy nhập viện…thì không vào đây được”. ” Nhưng sơ không thấy là cháu bé bị thương nặng lắm sao? Vết thương vẫn còn tiếp tục chảy máu ” tôi xuống giọng năn nỉ ” làm ơn băng bó vết thương giùm cháu, tôi van sơ mà “. ” Ông ơi, việc này đâu phải tuỳ thuộc ở tôi” bà ta trả lời, và giọng của bà ta bỗng trở nên lạnh lùng và rất hành chánh ” Không thể cho nhập viện một bệnh nhân như vậy! Ông đừng mất thời giờ nữa. Hãy đến làm thủ tục ở khu nhập viện!” Nằm ở đâu?” tôi ấm ức hỏi lại.” Cuối đường kia nè, ông thấy chứ? Dãy lầu sơn màu đỏ .” Trong làn nước mắt, tôi nhìn theo tay chỉ, thấy ở cuối  khu vuờn có một dãy nhà sơn đỏ, trông hơi nhỏ vì tôi đang đứng từ xa. Tôi đứng chết lặng, ngỡ ngàng. ” Thật tội nghiệp ” bà sơ vuốt ve, giọng bà ta lúc này đã trở nên dịu dàng, và vừa xoa cái đầu đầy máu của cháu bé bà vừa lắc đầu nhè nhẹ ” Tội nghiệp con bé quá”

Tôi tiếp tục bước đi, trong tuyệt vọng. Giờ thì tôi không còn sức để mà chạy nữa. Tôi vừa đi vừa nhìn chăm chăm vào cái bóng màu đỏ nằm đàng xa.  Còn bao lâu nữa tôi mới đến được nơi đó?

May quá, đang có một người đang đi về hướng tôi. Đó là một người đàn ông khoảng chừng 40 tuổi, cũng mặc áo choàng trắng, có để râu. Có lẽ ông ta là một bác sĩ, tôi nghĩ thế.

” Đi đâu với kiểu này vậy? Ai cho ông vào đây?” Ông ta chặn tôi lại và hình như đang chăm chăm nhìn vào những  vết màu đỏ tươi  trên con đường lát sỏi trắng mà tôi vừa bỏ lại  sau lưng mình. Tia nhìn đầy khiển trách và  như đang buộc tội.

“Bác sĩ ơi, ông không thấy hay sao?” tôi hốt hoảng “Ông làm ơn giúp tôi, ông cứu giùm cháu bé đi, tôi van ông!”

“Nhưng ông vào từ lối nào? Nói đi, từ lối nào” Ông ta lãnh đạm, hỏi vặn tiếp.

” Vào cổng” tôi trả lời ” Tôi đã  bước qua một chiếc cổng ”

“Ôi Chuá ơi! Khuôn mặt ông ta nhăn nhúm lên vì giận dữ “À, bọn bảo vệ làm ăn như vậy hả? Đồ ăn hại! Lại còn không đóng cổng nữa chứ. Hừm…rồi chúng mày sẽ biết… này, ông nói đi, ông vào đây bằng cổng nào?”

“Làm sao mà tôi biết cổng nào!” Tôi nóng tiết trả lời ; Nhưng ngay lập tức tôi sợ là trả lời như vậy có thể làm cho ông ta phật ý, vì tôi còn cần phải nhờ vào sự cứu giúp của ông ta “Từ cổng đó đó, cổng mở mà “. Rồi tôi dợm người định bước đi.

Nhưng ông ta chụp lấy vai tôi, giữ lại.” à không, đây là việc cần phải làm cho rõ. Trước khi bỏ đi, ông phải giải thích một cách chính xác là ông đã vào cổng bằng cách nào.”

Nghe tiếng tranh cãi, có một người đàn ông khác đang tiến lại. Nhìn vào dáng dấp, tôi nghĩ rằng ông ta cũng là một bác sĩ. Cũng có thể là người có thẩm quyền.

“Ông có muốn nghe một chuyện hài không?” Ông bác sĩ để râu, phẫn nộ, thông tin cho người vừa tới. ” Cái  cha này  đi vào đây qua cổng phụ! Hừm,  Bây giờ người ta đi vào đây như vào một cái chợ!  Bây giờ người ta mang bệnh  nhân đi lòng vòng như đi trong nhà mình!”

Người vừa đến, mỉm cười thích thú một cách thật quái lạ. Ông ta gật gật đầu nhưng không đánh mất vẻ bình tĩnh. Sau đó, ông đưa một ngón tay ra sờ lên màng tang bé gái, lúc này đã bất tỉnh, rồi nhấn mạnh vào vòng ngoài vết loét. Tôi thụt lùi, như bị người ta dụi vào một que củi đang cháy đỏ. Nụ cười của người đàn ông lúc này  như mở rộng hơn. Tôi nghe ông ta lẩm bẩm : ” phần…. bị nguy rồi” chữ thứ hai là một  danh từ chuyên môn rất khó mà tôi không nghe rõ.

“Phần… nào bị nguy, thưa giáo sư?” Tôi vội hỏi ông ta. “Nhờ ông giúp cho cháu, tôi xin ông…làm ơn giúp cháu trước khi quá trễ.”

“Nhưng đây là bệnh viện” ông ta trả lời, bằng giọng điệu của một người ý thức rất rõ về quyền hạn của mình.” Cậu có biết  nơi đây là bệnh viện không, cậu bé ! Bệnh viện, chứ đâu phải là khách sạn… Nhưng thôi,  đi lẹ lên, nhanh lên. Cậu phải đi về cuối khu vườn đó! ”

Tôi bước đi, một cách máy móc. “Ê ! Ông chưa nói cho tôi biết là ông đã vào đây bằng cổng nào! Ông cần phải báo cáo cho tôi biết chứ! Bộ tính đi luôn hã?” Tôi nghe từ phía sau lưng mình tiếng nói  lớn giọng của ông bác sĩ có râu, đang nằng nặc đòi mở cuộc điều tra. Tôi còn nghe thêm một câu nữa ” Đồ vô ý thức!”. Nhưng lúc này thì tôi đã cách xa rồi. Tôi chạy, không biết bằng cách nào mà tôi chạy, trên hai cánh tay vẫn bồng cháu gái, khắp người thấm đầy máu. ” Quỉ sứ sẽ xé thịt bọn bay” tôi gào lên, chửi mắng bọn bác sĩ, ma sơ, y tá. ” Một lũ mắc dịch”. Nhưng, tôi biết, dựa vào thủ tục thì họ có lý. ” Dịch hạch ! ” tôi gào lên, gào lên.” Quỉ sa tăng sẽ xé xác chúng mày!”

Nguyên  tác : Questioni ospedaliere

TRƯƠNG VĂN DÂN Chuyển ngữ

Read Full Post »

Ngả Rẽ

    Trương Văn Dân

Em thường nói, cuộc vui nào cũng tàn, bữa tiệc nào cũng chấm dứt, biết thế, nhưng, khác em, tôi  còn muốn nán lại  để  dọn dẹp những ngổn ngang ly tách  trước khi phủi tay đứng dậy.

Nhưng ước muốn nhỏ nhoi cuối cùng đó tôi đã không thực hiện được. Bỡi sáng hôm ấy,khi thức giấc đã không còn có em bên cạnh. Đêm trước ôm nhau, sáng dậy em biến mất như huyền truyện liêu trai, không một lời từ giã. Hạnh phúc bốc khói bất ngờ làm tôi rớt vào khoảng không. Tôi trôi nổi bồng bềnh, người phiêu dạt với cảm giác chơi vơi. Hụt hẫng. Ngay lúc đó, tôi chỉ mơ hồ là mình vừa mất một cái gì , nhưng chưa rõ ràng và  cụ thể, mãi đến khi sự ngái ngủ đã bị xua đi, tôi mới cảm nhận là nỗi đau trong lòng mình lớn lắm.

Suốt ngày thứ bảy  đó tôi đã hốt hoảng gọi em, nhưng chiếc điện thoại di động im ỉm suốt cả ngày. Tôi vẫn kiên trì, mãi đến khuya mới nhận được tín hiệu, nhưng em không bắt máy, hoàn toàn vô cảm trước tiếng kêu tuyệt vọng của tôi. Đến nước đó tôi mới thực sự hoang mang và hiểu rằng tình nghĩa giữa em và tôi đã hòan tòan chấm dứt. Dường như có ai đó đã nói rằng con người luôn luôn bước chậm sau nỗi khát khao, và tôi biết giờ đây chúng mình chính là  hai kẻ nhỡ tàu. Giá như …gía như đêm ấy, chỉ cần nhận một tin nhắn, hay một tín hiệu nào đó của em …thì sự việc đã được nhìn thấy khác. Dẫu em có nói  là mình đang thất vọng về tôi, đang mơ về một cuộc đời mới, hay thậm chí muốn bỏ tôi đi lấy người khác thì tôi cũng đành cam chịu và chấp nhận. Có thể tôi sẽ tự bảo: “Có gì đâu !” như vẫn thường nói mỗi khi có biến cố xảy ra. Để tự an ủi, nhưng cũng để xem thường mọi việc theo  bản tính của mình. Nhưng đêm ấy chỉ có tiếng ò e của của tiếng gọi lạc vào thinh lặng. Em có biết không ? Trong cái im ắng đến rợn người ấy tôi nghe  hết tất cả nỗi trống trải của mênh mông và sự phũ phàng của kẻ  tuyệt  tình. Dường như trong đêm còn có tiếng gió rít, hú dài, lúc mới nghe tôi cứ ngỡ đó là tiếng cười ngạo nghễ…và khi âm thanh dội vào vách vắng tôi lại nghe rất giống tiếng của mình cười, đau đớn, rồi nỗi buồn trào ra, ào ào  tuôn chảy. Nỗi buồn phun ra  như máu đang xối xả và thể xác tôi chỉ còn là một khối rỗng. Cảm giác cụ thể đến độ đang nằm trên giường mà tôi thấy mình chông chênh; như sắp té.

Sáng chúa nhật, ngủ một giấc không an lành,  thức giấc thấy cuộc tình của mình bước sang trang  khác, tôi thấy đời mình sao  bi thương quá. Tôi là gì của em? Chắc chẳng qua chỉ như một bóng mát tình cờ gặp gỡ giữa đường, và khách bộ hành, như em, tạm dừng chân giây lát rồi lại tiếp tục ra đi? Bước qua một ngã rẽ khác của dòng đời vì cảm giác bất an, vì một cuộc sống nghèo nàn sắp đổ chụp xuống đời nhau.

Chuyện đổ vỡ đã thực sự  xảy ra nhưng khi nhìn lại, tôi vẫn tưởng như đùa, khó tin quá, vì xưa nay tôi thường nghĩ, khi hết lòng yêu thương một ai đó, muốn gánh hết cho họ những nhọc nhằn của cuộc mưu sinh thì trứơc sau gì cũng được yêu thương, quý mến.Trong tâm tưởng đó tôi nhìn em như một sinh linh bé bỏng cần được bảo vệ, chở che. Rồi giờ mới giật mình, biết rằng không như vậy. Em đã đoạn tuyệt, ra đi, không để lại gì, ngay cả một mảnh giấy,vài hàng tạm biệt …vì quyết định bỏ, là đi. Chẳng cần đắn đo suy nghĩ. Người mà em nhiều lần thề thốt yêu thương, khi xuất hiện một kẻ thứ ba đã biến thành một vướng  víu mà em đã nhất  định phủi tay. Em không yêu tôi đến mức sẽ ở  bên tôi trong bất kỳ tình huống nào như vẫn thường hứa hẹn. Và nhánh cây tỏa bóng chở che đã  bị chặt đi, nhát cắt thô bạo, phũ phàng, như người ta loại một thanh củi mục. Sau, em phơi phới bỏ về với người mới, riêng mình tôi ở lại trong căn phòng trống trải, tan nát cõi lòng.

Trong nỗi đau chết lịm, tôi bùi ngùi nhìn lại đoạn đường mà chúng mình đã đi qua. Quen nhau được hai năm, em bỏ tôi, đi. Rồi quay lại. Hai năm  sau đó, em cũng lại bỏ đi. Rồi quay về. Tôi luôn thấp thỏm yêu em với tâm trạng nỗi đau này chưa vơi thì nỗi đau khác đã ập đến mà vẫn thụ động chấp nhận và tha thứ cho em. Nhưng lần này thì tôi biết là mình sẽ vĩnh viễn mất nhau….rồi  ngậm ngùi nhớ đến thời gian lúc mới quen nhau, tất cả rối tung như một số phận đã được an bài.

Ngày lễ tình yêu đầu tiên của hai đứa, em mang  tặng tôi hai đóa hồng làm bằng hoa đất  cực kỳ tinh xảo. Lời  dặn: “Giữ mải nhé anh”. Tôi vô cùng hạnh phúc và hứa  với em sau một nụ hôn cháy bỏng. Nhưng chưa đầy mấy giờ, sáng hôm sau, loay hoay thế nào tôi đã vô tình làm  rơi xuống đất, ngỡ ngàng nhìn hai bông hoa xinh đẹp biến thành trăm mảnh vụn. Em tiếp nhận sự việc với nỗi kinh hoàng .Và cũng chính trong ngày lễ ấy, tôi  mang tặng em cây bonsai  để đặt lên thành cửa sổ trong phòng ngủ. Tôi mong nó sống mãi, nhưng chỉ  mới mười ngày thì  cây đã tàn tạ, héo khô vì thiếu nước!  Như vậy là những kỷ niệm đầu của ngày  lễ tình yêu của chúng mình đều mất. Đó là điềm báo trước rằng mối nhân duyên tan rã? Chuyện tình của mình đã gượng gạo khởi đi, nhưng trước sau gì   cũng sẽ  tan như đã manh nha từ những bước đầu? Tôi hoang mang, chẳng biết cảm nhận đầy mê tín đó của em có nghĩa gì không, nhưng … vẫn cứ yêu em. Yêu đến nỗi không hề gian dối hay tính toán cho mình có được một quyền lợi nhỏ nhoi nào. Mù loà trong tình yêu, tôi đâu thấy những uẩn khuất trong  suy nghĩ  của người thương, lầm tưởng thời gian sống bên nhau là hạnh phúc, chứ đâu hiểu  thực ra đó chỉ là một chuyến buôn gian lận. Sống bên tôi mà em luôn dáo dác nhìn quanh những ngọn núi khác để sẵn sàng đánh đổi và lựa chọn.

Giờ bình tâm nghĩ lại, tôi thấy là trong suốt cuộc tình duyên với em, tôi chẳng có ai hậu thuẫn. Tất cả bạn bè, anh chị trong gia đình em đều chống đối và họ chỉ chờ cơ hội để bàn ra tán vào nhằm hủy diệt mối quan hệ của chúng mình. Họ chán, tôi biết. Bởi tôi nghèo. Một thằng kỷ sư quèn như tôi, khó nhọc lắm mới nuôi nổi bản thân, chắc  không thể cung phụng cho em  và gia đình một đời sống phung phí như gã Việt kiều giàu sang mang lại. Và số phận tình cảm của mình quay cuồng xung quanh ngày về thăm nhà của một người quen từ Mỹ. Người thân của em là tác nhân không nhỏ của chuyện môi giới, tình đến, tình đi. Họ thuyết phục em rằng đây là lối thoát, cơ hội giàu sang cuối cùng, em đừng nên đánh mất.

Tôi biết tất cả những “thâm cung bí sử” đó, nhưng không dám trách  mẹ hay anh, chị của em. Với tôi lý lẽ hay ảnh hưởng của họ chỉ có giá trị tương đối. Người quyết định cuối cùng là em, chứ không phải họ. Và em đã chọn lựa, như đã làm !

Suốt ngày chúa nhật thẫn thờ, tôi biếng ăn, mỏi mệt, rồi đêm đó mang sự trống trải và niềm đau của mình đi vào giấc ngủ.Trong mơ tôi thấy mình  nắm tay em, tung tăng trên con đường đầy hoa, nở rộ một góc trời. Trên không trung có tiếng nhạc dịu dàng, khẽ ru tôi và em vào trong niềm hạnh phúc ngất ngây, thơ mộng; Nhưng, thoắt một cái, hình ảnh trong mơ vụt đuổi nhau loạn xạ. Mây đen ở đâu bỗng kéo về. Rồi trời đổ cơn mưa. Hoa lá tả tơi dưới những tia nước từ trên cao  trút xuống. Lúc tạnh, nắng yếu ớt vừa trổi lên,  tôi lại thấy em và người chồng sắp cưới dìu nhau đi may đồ cưới. Đứng bên lề, tim tôi quặn thắt. Tiếng nhạc thanh thoát lúc đầu được thay bằng một âm điệu buồn, cay đắng: ” người vui bên ấy, xót xa nơi này…” và hình như trong mơ tôi đã cố  ghìm mình, khỏi khóc ; không hiểu sao lúc thức giấc lại thấy má mình ươn ướt.

Em có biết chăng? Tôi đã thức giấc từ một giấc mơ như vậy đó. Chết lặng. Rồi lịm dần trong cơn đau. Còn nỗi đau thì rất thật chứ không phải là mơ! Tôi nghe miệng mình đắng chát, và lần đầu tiên trong đời, vừa thức giấc, tôi đã tìm đến  rượu. Một  cốc nhỏ thôi, em biết mà, tôi đâu biết uống, chỉ định nhấp  để khoả lấp cảm giác chua chát trên đầu lưỡi. Nhưng cũng chính vì thế mà tôi chuếnh choáng, nỗi buồn không tan vào rượu mà kết tủa trên cổ họng cháy bỏng, rồi đắng ngắt trào lên đôi mắt mù mờ. Tôi loáng thoáng nhìn quanh. Mất, mất hết. Cả thực tại, dĩ vãng của những tháng ngày êm đềm xưa cũ như không còn có mặt trong căn phòng ấm cúng của chúng mình. Ngoài kia, phía bên ngoài của sổ vẫn còn những tiếng chim kêu, tiếng rì rầm huyên náo của cuộc đời muôn thủa, mà với tôi tất cả đã đổi thay, mọi vật  chao đảo, không còn dáng  dấp  của ngày nào. Tôi với em đã thực sự chia lìa. Chia lìa, chẳng có chia ly. Đưa tiễn !

Thiếp trong mê man, lúc tỉnh dậy thì buổi chiều đã muộn lắm rồi. Tôi đứng bên cửa sổ, nhìn dòng kênh  dưới nhà như trôi đi chậm dần. Bỗng dưng tôi muốn nó trôi nhanh hơn, cuốn trôi nỗi bực dọc  bừng bừng, nhưng đốt hết điếu thuốc này rồi điếu khác, lồng ngực vẫn nặng nề, u ám. Những tia nắng của buổi chiều đang xuống bắt đầu nhạt nhoà. Có tia sáng làm đỏ quạnh một vùng trên mặt nước. Tôi thẫn thờ nhìn như kẻ bị thôi miên. Bất động. Lòng vẫn hy vọng, đợi chờ, sự chờ đợi bằng nhớ nhung và ấm ức. Đến khuya, lịm đi vì mệt mỏi, giữa đêm  trăn trở tìm giấc ngủ và cơn mơ chập chờn gần sáng, lòng vẫn thầm đợi tiếng “tíc” của một mẩu tin ngắn ngủi mà một lúc nào đó em  nghĩ lại và nhớ đến tôi. Nhưng vô vọng.

Sỏi đá vẫn cần… nhưng tôi biết là từ đấy cho đến ngàn năm …mình sẽ không còn có nhau, nữa!

Tôi tự trách mình vụng về nên không giữ được em, nhưng vẫn thầm hỏi là lòng em có bình an không, sau khi làm tổn thương lòng tự ái và để lại trong tôi những mặc cảm, cùng nỗi ê chề của kẻ bị hất hủi, bỏ rơi?

Hào quang tỏa xung quanh thần tượng tình yêu mà tôi tôn thờ, ngay đêm ấy, vụt tắt. Đôi cánh thiên thần đã gãy. Ánh sáng đang chói chang bỗng  tối sầm, bóng tối âm u từ đâu đó tràn về và hình tượng chỉ còn là cái bóng mờ, dữ dội. Lòng yêu thương biến thành kinh hãi. Tôi như chợt tỉnh cơn mê. Paul Valéry có lần đã viết: ”Cách tốt nhất để thực hiện giấc mơ là sự tỉnh dậy “ và tôi như bừng tỉnh. Thì em vẫn là em, tôi vẫn là tôi. Nhưng mọi tương quan lúc này giữa chúng mình đã khác. Chúng ta cần phải làm lại tất cả mọi thứ. Tôi hiểu là trong đời, trước  hoặc sau gì thì mình cũng sẽ nhận đúng những gì mà mình xứng đáng được nhận. Dĩ nhiên  “…sống trong đời sống cần có một tấm lòng…“ vì không có  nó con người sẽ không có lối thoát trong sự tham lam ngu xuẩn và cay nghiệt với nhau. Với tôi, em đã sống với một tấm lòng? Tôi hoang mang và ngờ vực quá. Và tự hỏi là  mình có cay đắng quá không khi  xem sự  khinh khỉnh khước từ đối thoại của em là một thái độ kiêu căng, miệt thị. Như một cố tình xúc phạm !

Ý nghĩ thà chia tay còn hơn sống để “giết đời nhau“ đã manh nha từ hôm ấy, nên bây giờ , ba tháng trôi qua từ bữa đó, gã Việt kiều đã lặng lẽ bỏ đi ; em có muốn quay về bên tôi thì  cũng đã trễ rồi. Niềm tin  xưa mà tôi dành cho em đã sụp đổ. Hoàn toàn.

Tôi không quên là hôm qua em đến gặp tôi. Khuôn mặt đẹp của em buồn não nùng. Nó vừa lạ, vừa quen như  thóang hiện lên từ một cõi xa xôi huyền bí nào trong cuộc đời óai ăm này.Ngồi bên cửa sổ, dưới bóng cây hoàng  lan tỏa hương ngào ngạt trong sân một quán cà phê quen thuộc. Tôi yên lặng quan sát những giọt nắng xuyên qua cành lá soi lóm đóm trên mái tóc và khuôn mặt em thành nhiều vùng đen, trắng. Đó phải chăng là hai  mặt phản diện phải trái, đúng sai, hung thần, ác quỷ  của cuộc đời?  Đó phải chăng là niềm đau, hạnh phúc, hợp tan tan hợp của tình yêu ? Của những xẻ chia, dâng hiến hy sinh, lọc lừa, tráo trở trong những quan hệ phức tạp nhất giữa hai con người. Đen Trắng như Nam  và Nữ. Như Âm và Dương? Như nước mắt vui mừng, như nụ cười tê tái  của những cảm nhận chồng chéo không rõ ràng, đúng sai không dễ gì  phân biệt.

Em cầm tách cà phê, nâng lên, đặt xuống mà chẳng hớp  một ngụm nhỏ nào. Có lẽ thái độ im lặng của tôi làm em ray rứt. Vì em hiểu rằng tôi đã chẳng cần em gỉai thích điều gì nữa. Chúng mình chẳng còn gì để nói. Mọi hy vọng tái hợp như bị đập tan tành. Em nhớ không? Chúng ta ngồi bên nhau như hai người bạn lâu ngày gặp lại. Có lẽ những buồn vui xưa giờ chỉ là chuyện xa vời….Có bóng mây bay qua, vũng tối mờ ảo phủ lên cả hai khuôn mặt. Xa xôi. Chung quanh ngừng lặng. Em có khó nhọc lắm không? Đôi mắt  thường mở to nhìn đời đầy tin tưởng ngày xưa, mà tôi vẫn cho là tha thiết… sáng đó nó như ánh lên nỗi chờ đợi của kẻ sắp chìm, đang cố với lấy tấm gỗ mục trôi nổi bồng bềnh. Không chộp được nó tất cả  sẽ chấm dứt. Quá khứ, vị lai sẽ trở thành vô hình, vô tướng. Tình yêu, hạnh phúc sẽ  tan vào hư vô …

Có lẽ vì những ý nghĩ đó mà tôi không mấy ngạc nhiên khi mới gặp em đã nhắc đến kỷ niệm.Trước đây mỗi lần chợt gợi, em hay  loáng thoáng vài câu rồi lảng sang chuyện khác. Nhưng lúc này tôi đâu có muốn nhắc lại  chuyện xưa, dù có bao điều nếu được nói với em chắc tôi  sẽ nhẹ lòng hơn. Nhưng chuyện tình cảm của chúng ta đã rã nát đến nước này thì  còn gì  nữa mà giãi bày, hỡi em yêu ?

Tôi không quên mẩu tin nhắn  của em, tuần lễ trước khi chúng ta gặp mặt, khi tôi rời thành phố để về miền thuỳ dương cát trắng. Xưa nay khi tâm hồn căng thẳng tôi thường về với biển. Dường như tiếng rì rào của biển giúp trái tim đa cảm của tôi bình tĩnh, quên đi những căng thẳng của nhịp sống dập dồn. Đứng trước mênh mông, mọi đau buồn như tan vào cõi bát ngát muôn trùng, trong đó những uất ức, lắt léo của dòng đời như  bị hoà nhập rồi tự xoá. Thói quen đó, em biết, có từ thời thơ ấu, trong những đêm trăng, tôi thường kể với em là  hay đi chân trần trên cát, đẫm mình trong thứ ánh sáng huyền hoặc, thả hồn bay bổng. Tin nhắn viết : “Anh yêu thương. Tình cảm của anh dành cho em đã vơi đi nhiều chưa? Xa anh rồi, bây giờ em  thấy buồn, suy nghĩ. Quyết định của em làm anh đau, giờ em chẳng biết nói sao ngoài câu xin lỗi. Đừng buồn em nữa nhé, anh”. Em vẫn còn quan tâm đến tôi sao? Tôi chẳng nhớ ai đó đã nói rằng sự xa cách thổi bùng tình yêu lớn và  dập tắt những tình yêu nhỏ, nhưng tôi chẳng tin là ba tháng xa nhau đủ để em lắng đọng và xác định lại tình cảm của mình rồi có thể làm  bùng lên một ngọn lửa, lớn. Đối với tôi, nó đã tắt như chiếc nến trước cơn bão tố.  Tuy nhiên lòng tôi không khỏi vương vấn với những tin nhắn kế tiếp của em :   “Anh khoẻ không? Sao  anh không nhắn tin cho em? Lo, buồn  lắm. Không biết người ta có còn nhớ đến mình không? Em biết có quá nhiều chuyện đã làm anh buồn, chắc anh khó tha thứ cho em lắm. Em xin lỗi về mọi việc”. ”Nhớ anh quá. Lần chia tay này có phải là mãi mãi mình xa nhau không anh? Chúc anh hạnh phúc.” Tôi giữ yên lặng, không trả lời, mãi đến khi nhận được tin nhắn này mới gọi điện để cám ơn em:        “ Hôm nay Chúa nhật, em  mới đi dự thánh lễ, cầu xin mọi sự bình an luôn đến với anh. Ước sao được nghe lại những lời yêu thương của anh “.

Tôi chỉ cám ơn em và không biết phải nói gì thêm. Em còn chờ đợi tôi nói những gì khác nữa chăng? Suy nghĩ thế nào là tuỳ, nhưng xin em đừng nói là tôi chọn lựa. Vì thực ra tôi có chọn lựa gì đâu!  Nói đúng ra là tôi  đành phải chấp nhận  bản phán quyết mà em đã dành cho tôi. Tôi nào có quyết định gì, chẳng qua đó chỉ là sự cam lòng hứng chịu!  Còn nếu như em vẫn cố cho rằng tôi đã chọn con đường không quay lại, thì em ơi,  hãy hiểu đó chính là sự chọn lựa đau đớn và  bất hạnh nhất mà tôi đã phải làm.

Thú thật, bây giờ tôi chỉ muốn được yên thân. Tôi muốn được tĩnh lặng một thời gian để có thêm cơ hội tìm hiểu chính mình và nghĩ suy về mọi quan hệ giữa người. Có thể tôi sẽ cô đơn và héo hắt như thân cây thiếu bóng mặt trời trong một khoảng trời riêng nào đó, nhưng cũng có thể là thời gian sắp tới, tôi cũng sẽ  đi tìm một tình cảm mới. Để khoả lấp khoảng trống mênh mông. Xưa nay, em cũng biết là tôi vẫn nghĩ rằng, ai đó sẽ bất hạnh lắm nếu không có tình yêu. Thiếu nó, tôi nghĩ rằng cuộc sống sẽ phẳng lờ, vô nghĩa, đời sống sẽ tẻ nhạt,chẳng có chiều sâu và con người sẽ chỉ đứng bên lề, vì không yêu nên chẳng được thương. Albert Camus  có lần viết: “Không được yêu chỉ là một xui xẻo nhỏ. Không yêu nữa mới là bi kịch lớn”. Chối bỏ xúc cảm thì cũng như  từ chối cuộc đời. Tâm hồn khô cằn, không còn rung cãm thì  khác chi cái chết? Nó là một phí phạm lớn, vì  “Cuộc đời đó có bao lâu…mà hững hờ ”. Và trong nhận thức đó, vai trò của em trong chuyến hành trình của tôi giữa cõi đời có lẽ đã thật sự chấm dứt.

Tôi đã nghĩ như thế dù vẫn chưa quên  tin nhắn cuối cùng của em : “Nói chuyện với anh xong, em thấy buồn thêm, buồn thẫn thờ luôn đó.Nhưng không dám trách anh. Em luôn mang lại cho anh niềm đau. Nhiều quá. Em không biết làm sao để anh không buồn nữa. Mọi chuyện đều do em gây ra và phải chấp nhận thôi. Chúc anh vui khoẻ, hạnh phúc “. 

Bây giờ em lại trách tôi sao? Chính em  là người đã dành cho tôi số phận cay đắng “để giải thoát đời nhau“, để tìm một “danh phận”, mà!  Còn tôi?  Tình cảm của tôi trước nay vẫn không thay đổi . Nói trắng ra là vẫn còn yêu thương em, nhưng tôi biết là từ biến cố ấy, chúng ta sẽ không đủ can đảm gặp lại mà mang trên người bộ mặt bình thản như xưa. Sau cơn đau chí tử chắc tôi sẽ nhìn em bằng con mắt đầy sợ hãi, vì bản tính thất thường, sống với em mà lòng tôi luôn lo sợ chút hạnh phúc mong manh sẽ bất thần biến mất. Mọi chuyện đau buồn đã đốt cháy niềm tin và chúng mình không thể trở lại bên nhau, bởi trên cuộc đời này làm gì có phép lạ có thể biến những khổ đau mất mát hôm qua thành niềm hạnh phúc ngày mai?

Bây giờ thì ….Thời gian ba tháng đã trôi qua, nhưng nghĩ lại tháng ngày xưa cũ của chúng mình thì nỗi đau vẫn không tắt mà càng ngày càng dày nặng trong tâm hồn tôi; Và nếu đau buồn là một cái gì cụ thể thì chắc nó sẽ nặng như đá tảng. Hạnh phúc đã qua, nỗi buồn vẫn âm ỉ cháy và tôi càng thấm thía về lời nhận xét sâu sắc của Albert Einstein: “Khi nghĩ  về hạnh phúc thì hạnh phúc đã mất. Nhưng nhớ đến nỗi đau, thì nỗi đau ấy vẫn còn.”

Nhưng dù sao thì tôi cũng xin cám ơn em. Vì nhờ em mà tôi có được một khoảng đời hạnh phúc. Được thấy ánh hào quang của nỗi đam mê, say đắm. Vì có biết bao người trên cõi đời này vẫn sống, vẫn ăn, vẫn ngủ…nhưng chắc gì đã hưởng được cái không khí ngất ngây của ái tình. Vì đã có mấy ai suốt cuộc nhân sinh có được những giây phút xuất thần như thời gian tôi sống cùng em? Tôi yêu em đến vắt kiệt tâm hồn, nhưng cũng chính quãng thời gian mình là  “máu thịt của nhau “ tâm hồn tôi đa dạng và  phong phú nhất. Đó là một an uỉ, dù ngoái lại, nó đã đốt cháy tuổi trẻ, dằn vặt, đớn đau nhưng cũng đã mang theo những khoảnh khắc hạnh phúc hơn tất cả.

Gặp em xong, suốt đêm qua tôi không sao ngủ được. Đêm, tôi nằm nghe tiếng lá cây xào xạc, rồi hoang mang, trăn trở với những ý nghĩ  đốt cháy cõi lòng. Chuyện tình của chúng ta lướt nhanh qua trí nhớ như một đoạn phim buồn, trước mắt tôi hiện lên khuôn mặt em tranh tối, tranh sáng, chớp tắt, xanh rờn như soi bỡi ánh lân tinh của bầy đom đóm. Hạnh phúc cũng tràn trề nhưng khổ đau cũng nhiều khi bùng dậy, quất mạnh, như bão thốc lên thể xác, linh hồn. Tôi chẳng biết quyết định ra sao, thấy mình lênh đênh dật dờ trên đỉnh cao cơn sóng và chỉ muốn quên hết mọi điều.Tôi không ngủ, có lúc mong chờ ánh sáng ban ngày mau đến để soi rõ ý tưởng mình phải làm gì, nhưng cũng có lúc  thẫn thờ bước ra ban công, mắt đăm đăm nhìn mảnh trăng lưỡi liềm treo lơ lửng trên bầu trời thăm thẳm. Hình như có lúc tôi đã thấy một ánh sao băng, rơi xuống rồi tắt lịm như một chuyện tình nào đã và đang mờ dần trong trí nhớ.

Thật lòng, có lúc tôi tự trách mình đã làm em thất vọng và bỏ đi. Nhưng gia cảnh tôi nghèo quá, ngoài những nỗ lực mà tôi luôn cố gắng để vươn lên, để vượt qua số phận của chính mình, tôi còn biết làm thêm gì khác? Thôi thì đành chấp nhận, nhưng trước khi mất nhau vĩnh viễn tôi vẫn còn vương một thắc mắc, là, sống bên tôi, em đã đổi dạ  từ bao giờ? Từ bao lâu, em tin rằng một gã Việt  kiều, chưa gặp, từ  Mỹ về sẽ mang đến cho em giàu sang và hạnh phúc? Từ bao lâu, em đã âm thầm liên lạc qua mail, “chat” với gã? Em đã hoàn toàn thông cảm và trong vài lần gặp đã “yêu” người đó? Hay chỉ tự ép mình theo một sự tính toán của gia đình, gạt bỏ những tình cảm đang có với tôi? Em  bằng lòng kết hôn, tìm chút “danh phận” với người ta vì thật sự yêu thương, quý mến hay chỉ đặt mình trong khuôn khổ, chấp nhận sống suốt đời với một người chưa chắc hiểu được em. Để chịu đựng nhau? Để có một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn những gì mà tôi mang lại? Ôi chao, xưa nay đã mấy ai có thể bó buộc tình yêu phải phục tùng theo những con tính mà sống chung hạnh phúc? Chắc em cũng biết  là không có tình yêu, ăn đời  ở kiếp chỉ là một cuộc ép xác, chứ làm gì có được niềm vui? Em thừa thông minh để đánh giá đúng những “được””mất “ này mà !

Một sáng thứ bảy em đã bỏ  tôi, bây giờ lại muốn quay về? Em  trở lại vì gã Việt kiều đã cao chạy xa bay hay vẫn còn “yêu thương” tôi?  Vì tôi là người hiểu em hay thật sự vì tôi vẫn còn “sáng giá” hơn những người đàn ông đang vây quanh em lúc này?

Đã quyết đoạn tuyệt, chia lìa, đã biết là mình không thể trở lại, tình cảm chúng ta sẽ rất nhạt mờ, nhưng không biết sao trong lòng tôi vẫn còn cố tìm một lời giải thích. Giờ đây, sự việc đã an bài, tìm hiểu nguyên nhân để làm gì nữa? Phân tích, tìm hiểu…có khác nào tôi vẫn còn muốn biện minh và còn cố tình bào chữa cho em? Thế nghĩa là sao, em? Nếu không phải, là dù không  thừa nhận, trái tim tôi vẫn còn thương yêu em, lắm lắm! Giải thích, để khỏi day dứt? Bám vào lý lẽ cố tìm như một cái phao, để vững tâm hơn về những quyết định, hay chỉ để chứng tỏ sự thiếu niềm tin vào lối rẽ của mình… vì cứ thấy tình cảm mù mờ, còn lý lẽ càng viện dẫn càng chưa thuyết phục và cuối cùng rơi vào mê lộ. Tất cả chỉ có lẽ là  từ rất lâu  em đã trở thành một phần của đời tôi, và thú thật, cho đến giờ này tôi cũng chẳng biết làm sao để xoá chúng đi trong trí nhớ! Chỉ mới đêm qua thôi, nằm trăn trở và nhớ lại những lời yêu thương xưa vang vọng từ một cõi tận cùng trong ký ức… tôi có cảm giác như những mũi kim chích vào trái tim trống rỗng. Vị ngọt xưa không còn nữa, cái còn lại chỉ là  những dư vị chát đắng  lan toả và thấm trong từng sớ thịt để cảm nhận trọn vẹn tiếng nấc trong lòng mình đau đớn. Đó phải chăng … dù muốn buông xuôi , nhưng trong đáy sâu tâm thức, trái tim tôi vẫn còn gắn bó da diết với mối tình vừa tan vỡ.

“Anh ơi, em không biết nói bằng thứ ngôn ngữ mầu nhiệm nào để làm vơi đi nỗi thống khổ và tiêu tán nỗi đau mà em đã tạo cho anh”. Tôi đã im lặng lắng nghe, lòng liên tưởng đến những điều bình thường mà chỉ khi mất đi  người ta mới chợt hiểu rằng cần thiết. ” Mình trở lại với nhau đi anh. Xa anh rồi em mới hiểu được tình cảm đã dành cho anh. Chưa ai có được! Lúc nào anh cũng có trong em. Xa anh rồi em mới quý tình yêu.Tất cả những mất mác em gặp cũng không bằng đã để mất anh.Về lại với em đi anh. Em sẽ không để mất anh nữa đâu. Em yêu anh. Bây giờ thì em biết chắc điều ấy”. Gịong nói của em tha thiết và dịu dàng, say đắm và thương yêu, trong đó có chút hối tiếc, khổ tâm, hoà vào nhau, quyện vào nhau ,vừa vỗ về vừa quyết liệt. Chưa bao giờ tôi nghe thấy trong giọng nói của em có cái âm sắc như  hôm ấy.   “Em rất ân hận vì những việc đã làm.  Tha thứ cho em đi anh. Cho em xin lỗi ! ”  Tha thứ? Xin lỗi? Chỉ  thế là xong sao? Thì ra …em vẫn tham lam như ngày nào. Chỉ tiếc là phù phép của em  giờ  đã không còn hiệu nghiệm. “ Em còn muốn nói thêm gì nữa? Trở lại với nhau? Khi yêu, tôi có thể chết vì mất em. Lúc em bỏ đi, tôi như đã chết. Nhưng giờ nếu em  về  tôi sẽ không sống lại. Bởi người ta chỉ chết có một lần. Lúc cô đơn, tôi đã nghiệm ra rằng, hạnh phúc phải tự mình cảm nhận chứ đâu phải do em mang lại. Nó độc lập. Từ tâm mình . Lệ thuộc vào bất kỳ ai  thì trước hoặc sau gì cũng chỉ nhận được những thất vọng và khổ đau”. 

Có lẽ em đã nhìn thấy nét đau đớn hiện lên trên khuôn mặt nhăn nhúm của tôi, nhưng giọng nói  của tôi sao thật bình lặng. Và, trong nỗi bình lặng ấy, có lẽ chỉ có tôi mới âm thầm nghe hết tất cả nỗi nhức buốt vì quyết định của chính mình.

Tôi sẽ đau lòng lắm với quyết định này, nhưng dầu sao thì cũng phải cố quên em, bỡi quan hệ tình cảm của anh em mình là một mê cung , trong đó chúng ta đã bị dòng xoáy làm cho quay cuồng, đôi khi tự đánh mất mình lúc nào không biết. Rồi trên quãng đời phiêu du vô định này đây, nếu có khi hoàn cảnh trớ trêu buộc chúng ta phải rẽ vào một lối khác, tôi chỉ thầm mong và hy vọng là cho đến cuối đời, phút nhắm mắt xuôi tay  chẳng  có gì phải ân hận, day dứt.. để không bao giờ  rơi vào tình huống “sẩy chân một bước hận nghìn thu”.

Sự chọn lựa cuối cùng, lần này là của tôi, không biết có đúng không ? Ai  mà biết được ! Tôi chỉ hy vọng là mình đã suy nghĩ kỹ . Thời gian  chung sống vừa qua có thể đã làm những viên thuốc bọc đường  tan ra, độc dược ngấm vào máu , lan toả đến tim và não, tình yêu của chúng ta khó thể sinh tồn. Hơn nữa, anh em mình khác nhau quá nhiều, chỉ còn nước đành đọan chia tay và ngậm ngùi chia cắt. Như thể tôi là giống rồng,  còn em thuộc giống tiên, dù chưa có trăm con nhưng không thể tiếp tục sống chung, kẻ lên nguồn, người phải xuống biển mới có thể sống còn. Đó là thân phận của dân tộc Việt , của tình yêu đôi lứa đã trót  sinh ra và lớn lên trên mảnh đất khổ đau và đầy chia rẽ này./.

Trương Văn Dân

Viết tặng P,U.

Read Full Post »

Quyển sách

 

                                                                                    Trương Văn Dân

Có lẽ cho đến khi nhắm mắt tôi cũng không thể nào tha thứ cho mình. Dù đã bao lần cố tình biện hộ, nhưng chưa bao giờ tôi tìm ra một lý do chính đáng để tự trấn an.Tôi biết mình không phải vô ơn, cũng chẳng bạc tình, nhưng không hiểu sao lại vô tình mắc phải những lỗi lầm  như thế để niềm  ân hận cứ bám  theo và ray rứt không thôi.

Bao  năm qua, cuộc đời đã trải nhiều thăng trầm dâu bể, tôi đã cố tìm quên. Nhưng mỗi khi ký ức lắng đọng tìm về, tôi lại thấy lòng mình quặn thắt. Nỗi niềm đó ít khi tôi kể lại cho ai, ngay cả với những người thân nhất, nhưng hôm nay không hiểu sao tôi lại viết ra đây. Có thể trong tiềm thức, viết là để giải toả những ẩn ức chìm lắng trong một góc kín đáo nào đó của tâm tư, nhưng  cũng có thể  khởi đi từ một ước mong khiêm tốn là có người đọc nó, để niềm đau của tôi không đến nỗi thành vô ích.

*

Khi anh Quang theo học năm đầu khoa báo chí Vạn Hạnh thì đất nước đổi thay. Trong biến loạn 1975, gia đình mất hẳn tin anh. Cả mấy tháng sau đó cũng chẳng ai biết thêm gì. Dù mong manh ý nghĩ là có một điều bất thường nào đó đã đến với anh, nhưng không ai dám nghĩ là mất  anh vĩnh viễn.

Kinh tế đổi thay, tôi phải bỏ học đi làm để phụ giúp gia đình.Thời gian sau tôi lấy chồng, sinh con đẻ cái. Cuộc sống khá chật vật và khó khăn, nhưng tôi vẫn bền gan phấn đấu, rồi sau đó cũng dần dần ổn định.Thủa ấy không lúc nào là tôi không nghĩ đến Quang, người anh trai mê sách, mê đến nỗi những khi cúp điện lúc nào anh cũng có sẵn một mớ đèn cầy để đốt và đọc thâu đêm. Nhiều hôm bị ba tôi bắt gặp, bảo tắt đèn đi ngủ, anh lại trùm chăn che ánh sáng và đọc tiếp nên có lần bị cháy xém một mảng tóc mà ngày thường anh rất nâng niu. Cuối cùng phải cạo trọc, bị  các bạn gọi là “ đầu đà thi sĩ ”, anh chỉ mỉm cười, không giận, nhưng  suốt mấy tháng liền trên đầu anh lúc nào cũng dán chặt  chiếc mũ vải.

Anh Quang vui tính và rất hay kể chuyện nên tôi thường quấn quít bên anh. Giọng anh trầm trầm, chậm rãi bắt từ chuyện này sang chuyện khác, chứng tỏ một kiến thức rất dồi dào, thu lượm được qua hàng nghìn trang sách .Thỉnh thoảng anh chen vào những nhận xét tế nhị hoặc nói vài câu pha trò làm tôi cười lên vui vẻ. Nhưng những kỷ niệm  tươi đẹp ấy giờ đã tan rồi. Anh Quang của tôi  đã biến mất như bóng chim tăm cá. Chẳng biết anh lưu lạc về đâu hay có một bất hạnh kinh khủng nào đã đến với anh ?

Nhưng khi niềm tin và đợi chờ của gia đình sắp kiệt thì lại có thư về. Anh không nói rõ bằng lý do nào đã thoát ra ngoại quốc, chỉ kể là thời gian đầu có qua Mỹ nhưng sau vài tháng anh lại xin chuyển hồ sơ qua Pháp.Trên phong bì có đóng con dấu bưu điện Nice, một thành phố miền nam nước Pháp, nằm trên bờ biển Côte d’Azur, gần vương quốc Monaco. Hôm đó nhà tôi tưng bừng mở hội. Phép lạ đến bất ngờ như một sự hồi sinh.

*

*     *

Những gói quà và tiền bạc sau đó do anh thường xuyên gửi về đã làm thay đổi cuộc sống của gia đình tôi. Nhờ tháo vát và bén nhạy với tình hình tôi đã mau chóng tạo vốn và bắt đầu thành lập một cơ sở kinh doanh nhỏ. Gặp nhiều may mắn và thuận lợi nên công việc làm ăn của tôi phát triển đều.

Lúc đầu tôi cũng rất  ái ngại vì công sức của Quang. Tôi định bàn với gia đình khuyên anh ấy nên dành dụm để lo cho mình vì bên ấy đâu có ai thân thích. Nhưng suy đi, tính lại tôi lại thôi. Thời điểm đó cũng chính là lúc người ta vượt biên rất nhiều, ai định cư ở nước ngòai có vài tháng cũng đều gửi hình về, chụp bên cạnh những chiếc xe hơi bóng lộn. Người ta đua nhau kể chuyện dễ  thành công trong xã hội Tây phương, ai cũng có công ăn việc làm và hái ra tiền.

Thực ra trong thâm tâm tôi cũng chẳng tin những chuyện này. Ba tôi cũng thường bảo là trong xã hội vật chất Âu Tây, muốn có tiền phải trả giá đắt chứ không sao dễ được. Nhưng chồng tôi thì lại nói : “  Anh ấy có trình độ nên chắc dễ thành công hơn người khác- vả lại bên đó bỏ vài trăm quan mỗi tháng thì có nhằm nhò gì ! ”. Em dâu tôi cũng bảo : ”Lo gì, Anh ấy tự động gửi chứ chúng ta có đòi hỏi gì đâu! Vả lại, nếu không dư dả thì chắc anh ấy  đã không gửi đều đều như thế ”. Bà chị họ tá túc trong gia đình góp ý : ” Cậu ấy biết liệu cơm gắp mắm chứ ! Dì đừng lo hão ! ” Em trai tôi không nói gì. Mẹ tôi chỉ than “ Tội nghiệp thân nó !” . Còn tôi dù chưa thật an tâm, nhưng những lời của chồng và của em dâu, chị họ đã giúp tôi trấn áp được nỗi lo.

Đúng ra thì qua những bức thư anh Quang chưa bao giờ than thân trách phận.Thư anh chỉ nói chung chung, còn thì khuyên vợ chồng tôi ăn ở với mẹ cha sao cho có tình có nghĩa, yêu thương nhau,cố gắng làm ăn nhưng phải dành thì giờ để dạy cho con cái học hành, hướng dẫn chúng đi vào con đường tốt. Anh thường nhắc, cái đầu tư lớn nhất là tạo kiến thức và khả năng cho con cái. Dẫu thời thế có đổi thay, tiền bạc địa vị có thể mong manh, đảo lộn, nhưng nếu chúng còn sống thì bản lãnh có được sẽ không bao giờ mất. Nhưng máu kinh doanh đã làm tôi lạc vào mê hồn trận. Nhìn đâu đâu cũng  cảm thấy bị ám ảnh bỡi bạc tiền và danh vọng.Tôi xem những lời khuyên của Quang như là những lời nói hão huyền, không thực tế .

Anh Quang ít nói về mình, về những công việc đang làm. Chỉ thỉnh thoảng, và chỉ thỉnh thoảng thôi, anh mới than buồn vì không có bạn bè để đàm luận văn chương hay tán gẫu chuyện đời. Người Việt nơi anh sống quá ít, sách vở Tây phương anh đọc khá nhiều nhưng rất thèm sách tiếng Việt mà lại khó kiếm, có tiền cũng không dễ gì mua được. Anh ví von như người đã ăn đủ thứ cao lương mỹ vị, nhưng cuối cùng dưa muối quen thuộc đầu đời vẫn là món ưa thích nhất.

Những dịp tết tôi vẫn thường gửi thiệp chúc mừng anh. Nhiều lần tôi có ý mua vài số báo xuân, bài vở phong phú mà ngày xưa anh rất thích…nhưng cuối năm công việc rất nhiều, chuyện bán buôn, sổ sách, nợ nần vay mượn dập dồn…tôi không có thời gian nên cuối cùng lại quên đi mất . Sau đó nếu có nhớ, thì chỉ đành chép miệng thở dài. “Thôi, chờ dịp khác !” .

Công việc kinh doanh của tôi mỗi ngày một thêm phát triển nhưng tiền bạc và quà cáp anh Quang vẫn thi thoảng gửi về. Lúc này những món quà ấy không còn cần thiết cho cuộc sống của tôi như xưa nữa,nhưng nhiều năm qua nhận nó đã trở thành một thói quen. Vả lại có mất gì đâu ! Tôi mặc nhiên chấp nhận và gần như xem đó là một bổn phận không thoái thoát được của Quang. Thật thế, sau này nghẫm lại tôi vỡ lẽ ra là tất cả những ân huệ ban đầu, những ơn nghĩa thường xuyên, với thời gian người nhận vô tình bạc nghĩa như tôi thường  xem đó chỉ là những điều bắt buộc.

Tôi sung sướng thả đầu óc mình ngụp lặn trong những toan tính làm ăn và tự hào về những thành đạt của mình. Tôi hãnh diện thấy chồng mình uy nghi trên những chiếc xe đời mới, luôn  cập nhật để nở mặt với đời. Thời buổi này có tiền mà không chưng ra cho thiên hạ lé mắt thì thà không có còn hơn. Tôi không còn thì giờ để lo cho con cái nữa. Chồng tôi thì tương đối rảnh rang. Anh có thừa thì giờ để đi tắm biển,chơi bi da, tennis… và phó thác mọi việc lên vai tôi. Không hiểu sao anh Quang lại biết chuyện này,và có lần khuyên tôi nên sắp xếp cho hợp lý nhưng tôi thấy ở Việt Nam chuyện vợ làm chồng chơi là một chuyện bình thường. Ai cũng thế  mà ! Mình cam phận phục tùng chứ có ai bắt buộc đâu. Tuy thế  cũng có lần, trong một bức thư, anh Quang viết bóng gió là tại sao lại có  người  không biết tự ái  và vô trách nhiệm  với vợ con đến thế.

Mấy năm trước, có lẽ do một chuyện không vừa ý trong gia đình, tôi chợt nhớ đến anh.Nhớ da diết.Tôi bùi ngùi hồi tưởng đến những kỷ niệm  ngày xưa, rồi thấm thía với nỗi buồn ly biệt. Những câu chuyện cũ anh kể cho tôi lại lờ mờ hiện đến,đoạn nhớ đoạn không. Tôi lang thang trên bờ biển một mình rồi chợt nhớ là từ ngày xa cách đến nay tôi chưa hề gửi một món quà dù rất nhỏ cho anh. Cuống cuồng, tôi bươn bả chạy vào hiệu sách, nhưng không biết mua gì. Lâu nay tôi nào có thì giờ rớ vào sách vở nên biết đâu mà chọn. May có cô  bán sách là một tay mê truyện, đã chọn hộ cho tôi bộ tiểu thuyết hai quyển và một tuyển tập truyện ngắn. Tôi hối hả mang về . Đang định viết cho anh một bức thư dài  để gửi kèm thì nhà lại có khách.

Bẵng đi mấy tháng, khi tình cờ kiểm lại các sổ kinh doanh tôi lại thấy ba quyển sách vẫn nằm yên trong hộc tủ.Tôi vừa định lôi ra bao bì để đi bưu điện thì chuông cửa reo vang. Khi ra mở cửa thì thấy ông Vĩnh Phát. Ông  là một thương gia lớn bậc nhất thị xã, đến thăm và để đề nghị một áp phe. Suốt đêm ấy tôi không tài nào chợp mắt, lòng miên man nghĩ đến những mưu kế làm ăn.

Cứ thế việc kinh doanh của tôi cứ tiến triển đều và công việc phát triển bao nhiêu tôi lại càng bận rộn bấy nhiêu.Tôi dành hết thì giờ cho công việc và đầu óc không còn chỗ cho những điều vặt vãnh khác. Cơm nước và các việc gia chánh tôi đều phó thác cho người làm. Còn con cái thì năm khi mười hoạ tôi mới ngó ngàng đến và nếu tình cờ thấy chúng xớ rớ thì cũng chỉ hỏi qua loa về chuyện học hành, nhiều khi chưa kịp nghe các câu trả lời nhát gừng của chúng tôi đã thả hồn vào những chuyện làm ăn. Chồng tôi thì vắng mặt suốt ngày. Mới đầu tôi cũng có hỏi nhưng sau cho đó là một thói quen, một chuyện tự nhiên… mà dẫu có cho là bất thường đi chăng nữa thì tôi cũng đâu có thì giờ để quan tâm đến.

Anh Quang vẫn gửi quà và tiền bạc liên tục cho tất cả mọi người trong gia đình. Chồng tôi khen : ”Anh Quang tình cảm thật. Đáng phục! Đâu phải như mấy đứa em nhà anh qua Đức mấy năm mà chả có thư từ gì “. Em trai tôi thường hay im lặng, tính nó ít nói nhưng đứa em dâu và bà chị họ thì cũng khen không tiếc lời :” Anh ấy thật chu đáo, không bỏ sót một ai “ ; “Người tình cảm như vậy thật hiếm. Hy vọng cậu ấy sẽ kiếm được một cô vợ đảm đang “.

Phải, cô vợ đảm đang. Quái thật, anh Quang khá lớn tuổi, nhưng anh chưa bao giờ đề cập đến chuyện tình cảm của mình.Và chúng tôi cũng ít khi nhắc nhở, nếu có cũng chỉ hỏi qua loa vì tò mò thôi.Thì giờ đâu ! Chuyện mình lo chưa hết, hơi sức đâu lo chuyện bên Tây. Sau này, khi tất cả mọi chuyện đã qua, xét lại lòng mình tôi thấy vô cùng hổ thẹn. Có lẽ có một giai đoạn nào đó trong đời chúng tôi đã có lần thầm mong là anh cứ ở vậy, đừng lập gia đình để có thì giờ lo cho tất cả chúng tôi trong đại gia đình còn kẹt lại bên này.

Bỡi quà cáp và tiền bạc gửi về đều đặn quá nên chúng tôi cứ nghĩ là anh Quang có cơ sở kinh doanh hái ra tiền.Và có lẽ do vậy nên anh không bao giờ dám đề cập đến ? Nhưng ba tôi thường trầm ngâm và gạt phăng giả thuyết này : ”Thằng Quang là thằng thông minh và tháo vát nhưng không có máu làm ăn. Nó nặng tình  nên hết lòng chứ không có cơ sở gì đâu. Ba nghĩ đó là mồ hôi của nó “. Người ta hay nói “biết con không ai bằng cha” và dù không ai dám cãi vì kính trọng cha, nhưng lũ chị em chúng tôi không đứa nào tin. Lẽ dễ hiểu là chúng tôi không muốn tin điều đó. Vả chăng phải có lý do thầm kín gì nên anh mới giấu kín chuyện làm ăn của mình chứ. Trong các bức thư ngắn ngủi gửi cho anh, chồng tôi còn chỉ cho tôi gợi ý một cách khéo léo là cần nhiều vốn để kinh doanh.

Thời gian sau, cũng là dịp gần Tết, tôi lại tình cờ thấy ba quyển sách nằm chình ình hứng bụi trên góc tủ. Lần này tôi không định viết thư nữa, thôi thì viết vài hàng trên buu thiếp để gửi kèm cho anh cũng được. Tôi đóng gói và cột dây cẩn thận, nhưng vừa  ghi tên   người gửi thì  thình lình có khách đến thăm. Bác Tường, giám đốc sở thuế. Công việc làm ăn của tôi xưa nay tiến triển cũng là nhờ công ơn bác.

Gần năm sau, ba tôi mất bất ngờ sau một cơn bạo bệnh. Anh Quang không về kịp. Lúc đó những người vượt biên chưa được phép về rộng rãi. Anh viết một bức thư thật dài nói lên những bi thương và đau đớn của mình.Trong đó có một câu mà có lẽ suốt đời tôi cũng sẽ không sao quên nổi  “ Nếu phải đổi mười năm tuổi thọ của anh để một lần từ biệt với  ba anh cũng sẵn lòng” . Rồi sau đó gia đình gần như bặt tin anh.Tôi biết anh đau xót lắm.Trong gia đình anh gắn bó với ba tôi nhất và hay tâm sự với ba như một người tri kỷ. Vắng ba, anh không còn ai để tâm sự nữa. Những vấn đề mà anh quan tâm,về triết lý cao xa, chúng tôi không ai tha thiết nên không biết viết gì cho anh. Anh đã không còn ai để kể lể tâm tình. Điểm tựa vững nhất để anh  bám vào quê hương đã không còn nữa. Thư anh có viết thì cũng chỉ vài hàng ngắn ngủi, gượng ép kể chuyện vặt vãnh khác hẳn nội dung sâu xa như trước. Chỉ một lần duy nhất là anh có than buồn và đề cập đến chuyện nhờ tôi mua giùm một mảnh đất, hay một ngôi nhà thật nhỏ, để lúc già anh có thể được về chết trên quê hương. Anh nói lá rụng phải về cội. Lần ấy tôi xót xa và thương anh vô hạn.Tôi mường tượng hiểu là cái chết của ba đã xáo động cái mặt hồ yên tĩnh như tấm lòng nhạy cảm của anh.

Rồi những bí ẩn về cuộc đời tình cảm cuả anh cũng được phơi bày. Một hôm, thu xếp lại những giấy tờ của ba, tôi bắt gặp một phong thư anh viết khá dài. Có lẽ ba tôi đã ngấm ngầm dọ hỏi và như mọi lần, anh đã không ngần ngại tỏ bày với ba những suy tư thầm kín trong ruột gan mình.

Anh cho biết là anh chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện lập gia đình. Anh không muốn vướng bận vào những ràng buộc nào khác, bỡi anh còn có bổn phận phải lo cho những người thân còn kẹt lại Việt Nam. Đời sống bên nhà khó khăn, hiện tại anh là người duy nhất có khả năng  phụ giúp. Anh xem đó như là món nợ tinh thần đối với những người thân, bỡi trong lòng không lúc nào xoá bỏ được cái mặc cảm tội lỗi đã bỏ rơi gia đình trong lúc gian nan và biến động kinh khủng nhất. Hãng xưởng bị kiểm kê, nhà cưả, tài sản bị trưng thu, cha già bị giam hãm… chỉ còn  anh là con trai trưởng, chưa dính dấp gì đến chính trị, không tham gia vào chính quyền cũ, bạn bè đông…có thể xoay xở và an ủi gia đình thì lúc đó lại cao chạy xa bay, phó mặc cho mọi người chịu trận. Anh viết cho ba là sẽ không bao giờ dám tạo cho mình một mái gia đình, vì một khi đã quyết định chia ngọt xẻ bùi với người bạn trăm năm, anh không thể đã không mang được gì cho người ta mà lại còn buộc người ta phải trả món nợ của riêng mình…Tôi rơi nước mắt. Quái! Cuộc sống đầy những lọc lừa, lường đảo  – đời tôi chỉ thấy người ta quịt nợ chứ chưa thấy ai tình nguyện nhận nợ như anh ! Tôi giữ kín tâm sự này và chỉ kể lại với đứa em trai mà thôi. Khi nghe chuyện anh, nó chỉ yên lặng không nói gì. Nhưng nét buồn hiện lên trên khuôn mặt hiền từ của cậu ấy còn khổ đau hơn những lời bi thiết nhất.

Việc làm ăn của tôi vẫn tiến triển khả quan. Chẳng mấy chốc cơ sở làm ăn của tôi đã trở thành một trong những công ty lớn nhất thành phố. Bạn bè của tôi toàn những kẻ tai to mặt lớn, loại có máu mặt, đầy quyền thế, nhất hô bá ứng. Tôi bận rộn vô cùng. Liên lạc đầu này, giao tế đầu kia, tổ chức việc đầu tư này,thi hành kế hoạch nọ. Tôi làm việc đầu tắt mặt tối mới lo cho xuể những sáng kiến hái ra tiền. Người tôi gầy rạc đi nhưng tôi thật vô cùng mãn nguyện.Tiền vô như nước. Xung quanh tôi bao nhiêu người quanh quẩn,như những vệ tinh bay vòng quỹ đạo. Họ sẵn sàng chờ lệnh tôi và răm rắp tuân hành.

Dạo đó, đôi khi tôi cũng có nghe một vài tin gián tiếp về Quang. Một người quen sống ở Paris , trong dịp tháng tám đi nghỉ hè ở miền nam có gặp anh Quang. Ông ta nói  lúc này anh  gầy lắm vì phải làm hai việc, vừa tan sở nơi này lại tranh thủ làm thêm buổi tối ở một cơ quan khác. Anh bận bù đầu . Ông ta có mời anh đi ăn cơm nhưng anh không hứa chắc và cuối cùng không đến. Chồng tôi không tin, cho là ông ta ghét nên nói xấu và rủa anh Quang. “ Chắc chắn anh ấy có cơ sở làm ăn  chứ đi làm công cho người ta thì sao có thể dư dả để gửi nhiều tiền như thế”. Em dâu tôi cũng cùng một nhận định. Mặc dù thời gian gần đây ở Việt Nam người ta cũng bắt đầu biết những khó nhọc của những đồng hương sống ở nước ngoài, nên tôi nghĩ số tiền anh thường gửi đâu phải là ít ỏi . Nhưng chồng tôi quả quyết :” Khả năng gửi tiền như vậy không thể là của một người  đi làm công. Thằng cha Thanh láo khoét ”. Cô em dâu tôi cũng tán đồng : ” Miệng đời thiệt  độc địa ! Lâu nay anh ấy cố tình  không tiết lộ  công việc chắc cũng có lý do riêng…”. Tôi thật phân vân.

Rồi một hôm khi tình cờ xếp lại những hồ sơ, giấy má, tôi bắt gặp một gói giấy rơi sau bộ luật pháp kinh doanh trên kệ sách. Gói giấy màu vàng hình chữ nhật, có cột dây gai thành chữ thập. Bên góc trái có ghi tên người gửi.Tên tôi. Lạ quá. Có lẽ tôi đã định gửi mẫu hàng gì cho ai đây rồi bận việc, quên đi. Tôi cố tình moi óc và nghĩ mãi mà không biết mình định gửi cho nhà buôn nào.

Khi lấy kéo cắt dây thì bên trong hiện ra ba quyển sách. Trời ơi ! Tôi bàng hoàng vì cho đến lúc ấy  tôi vẫn chưa gửi  3 quyển sách cho Quang.

Suốt buổi chiều hôm ấy tôi thẫn thờ như người mất trí. Một chút lương tri còn sót lại và nỗi ân hận đang âm thầm dày xéo lòng tôi. Thôi, thà muộn còn hơn không.Tôi đập đập một góc sách bị mối ăn nham nhở  lên cạnh bàn rồi thay giấy gói lại. Suốt đêm tôi không tài nào chợp mắt, lòng tôi nóng như lửa đốt, chỉ mong đến sáng để gửi sách cho anh. Sáng hôm sau chưa kịp điểm tâm tôi đã đích thân ra bưu điện. Mãi đến khi làm xong thủ tục gửi bảo đảm, lúc về nhà lòng tôi mới hân hoan trở lại.

Rồi những ngày sau đó, công việc dập dồn đã đưa tôi trở lại cường độ cũ. Tôi quay cuồng trong nhịp điệu đam mê của bạc tiền, danh vọng.Tôi lại quên Quang đi. Nhưng lương tâm của tôi cũng đã ổn rồi, tôi đã gửi sách cho anh và như thế là món nợ tinh thần với anh coi như đã trả xong.

Cuối năm đó, những may mắn của đời tôi bỗng nhiên xoay lưng lại. Sau những đợt đầu tư thất bại vì tình hình thay đổi, cơ sở làm ăn của tôi bắt đầu xuống dốc. Nhưng vố đau đớn nhất của tôi là số lớn vốn liếng dành dụm được lâu nay đã bị chồng tôi lén lút đem nướng  trên chiếu bạc đỏ đen. Lúc  tối cần để xoay xở gỡ gạc tôi lại không còn một xu dự trử. Hạnh phúc gia đình tôi có nguy cơ bị lung lay. Bất hoà và lo nghĩ như một mảng lưới đen ngòm phủ  chụp xuống gia đình tôi.

Anh Quang lúc này lại bặt tin. Quái ! Mấy tháng gửi sách chắc đã đến tay rồi sao anh ấy lại không viết vài hàng để báo cho tôi biết.

Công việc làm  ăn của tôi  mỗi ngày mỗi thêm bết bát. Gỡ nhỏ, thua nhỏ; gỡ lớn,mất lớn… Chẳng bao lâu cơ sở chỉ còn có nợ. Bạn bè kinh doanh ngày xưa, kẻ xa lánh, người rút vốn, kẻ đòi lại phần hùn.Thậm chí có kẻ còn lợi dụng sự bối rối của tôi để quịt nợ và lường gạt nữa. Còn những tay chân thân tín, như những vệ tinh thình lình mất đi hấp lực, rơi lả tả như lá mùa thu. Tôi bơ vơ và trơ trọi ngay trên chính quê hương mình.

Đến lúc này tôi mới tha thiết nghĩ đến Quang. Chỉ có anh là điểm tưạ duy nhất còn sót lại của tôi. Vợ chồng tôi bàn tính rồi hội ý viết một bức thư thật lâm ly cầu cứu, mượn anh một số tiền để gầy dựng lại. Nhưng thư đi mà chẳng có tin về. Sốt ruột, chồng tôi nổi cáu :” Bộ thằng chả mất hết cả lương tâm rồi sao ? Hai mươi năm sống bên đó chắc đã thành Tây lai rồi. Người gì đâu mà bạc bẽo ! “. Lòng tôi nhói đau lên, nhưng tôi vẫn im lặng, không một lời biện hộ cho Quang.

Rồi một hôm tôi nhận được một bưu phẩm từ thành phố Nice. Mừng rú lên. Đó là một gói giấy có cột dây gai. Nhưng lạ quá, tên người gửi lại đề tên tôi. Khi đọc mảnh giấy gửi kèm  của bưu  điện tôi mới biết điạ chỉ gửi cho Quang không còn người nhận nữa.

Thế là thế nào ?

Tôi không biết làm gì hơn là chờ đợi. Nhưng tin Quang một lần nữa lại bặt vô âm tín. Chồng tôi nóng ruột, nổi khùng :” Nhất định là thằng chả làm ăn khấm khá nên đi mua villa rồi . Mới  nghe hỏi tiền nên  làm bộ trả sách về để  dàn cảnh cho dễ trốn đó thôi.Bộ chả tưởng lấy vải thưa mà che mắt thánh được à  ? Đúng là đồ ích kỷ và vô trách nhiệm  !“  Lòng tôi  hoang mang và vô cùng  bối rối.

*

Người đàn bà dừng lại như để lấy giọng, nhưng mãi thật lâu vẫn không thấy bà lên tiếng.Tôi sốt ruột nhưng không dám giục, kiên nhẫn chờ bà đọc nốt phần cuối câu chuyện.

– Thú thật viết đến đây chị như không còn đủ can đảm để viết thêm. Bao nhiêu năm dâu bể đã qua, nhưng cứ mỗi lần ngẫm lại, lòng chị lại buốt đau như có ai vừa cắt từng khúc ruột. Chị đã muốn đốt đi những trang giấy và chôn kín tâm sự trong lòng, nhưng thời gian đâu có phải là dòng suối giảm  đau.

“Sau đó thì tôi nhận được tin Quang. Nhưng lần này lại không do anh viết. Tin đó qua trung gian một người bạn Pháp mà tôi nghĩ là một người bạn gái rất yêu anh. Trên trang thư có lấm tấm những vòng tròn bằng đồng xu có lẽ đó là những giọt nước mắt giờ đã khô giòn. Người mà tôi nhờ  phiên dịch  khó khăn lắm  mới đọc được những  dòng  chữ nguệch ngoạc  và  run rẩy trên trang giấy mỏng :

Đầu mùa đông năm ấy anh Quang bị sưng phổi nên phải vào bệnh viện. Tháng sau khi đã tạm bình phục, bác sĩ khuyên anh nên ăn uống và nghỉ ngơi điều độ, cấm hẳn việc làm ban đêm, sợ đi khuya về lạnh có thể làm bệnh tình tái phát.

Nhưng anh vẫn bướng bỉnh không nghe. Ra viện, anh phải thuê một căn nhà nhỏ  và thiếu tiện nghi hơn vì vốn liếng dành dụm đã chi phí thuốc men, nên không thể trang trải tiền thuê căn nhà cũ vốn không lấy gì sang cả lắm.  Anh vẫn tiếp tục đi làm hai việc để  gửi tiền về phụ giúp chúng tôi. Sức khoẻ anh suy sụp  và vơi  dần như cái chai bị nứt . Một đêm tháng giêng, khi tan việc thì đã khuya, anh lái xe về nhà, phần mệt  mỏi, phần sương mù , trong một  cơn buồn ngủ xe lao vào cột điện, lăn mấy vòng rồi bốc lửa. Bị cột thắt bỡi dây an toàn, xác anh bị cháy thành than. “

Đọc đến đây bà Trâm cuốn tròn quyển nhật ký cho vào túi xách rồi  đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt. Dưới những lọn tóc chớm bạc đang bay bay loà xoà trên trán  là đôi mắt vô hồn, sâu thăm thẳm. Tôi yên lặng cảm thông nỗi thống khổ của bà. Lòng tôi xót xa trước những cảnh ngộ trớ trêu của những kiếp người. Thời gian mong manh hữu hạn nhưng hình như chúng ta không dành cho cuộc sống, cứ mãi chạy theo những ảo ảnh hão huyền và lầm lạc. Rồi đến khi mất mát, dẫu  ân hận vô bờ cũng không làm sao kéo lại.

Sau  tiếng thở dài , tôi tò mò hỏi :

-Vậy quyển sách gửi đi cuối cùng chị vẫn còn giữ ?

-Vâng, chị sẽ  giữ mãi, để tự nhủ lòng mình.

-Thưa chị , quyển tiểu thuyết  đó tên gì  ?

– “ Một tấm lòng vàng”

Tôi thấy bà lấy khăn chặm hai dòng nước mắt vừa ứa ra hai bên má, rồi sau tiếng thở dài bà chép miệng : “Dù sau này có ai thông cảm và tha thứ cho tôi,nhưng chính tôi không bao giờ có thể tự tha cho mình được.”

TRƯƠNG VĂN DÂN                                                                                                                                                                             Milano 01-1998

Vài hàng cuối truyện :

Thưa chị…, câu chuyện mà chị chỉ “viết cho riêng mình”,không muốn cho người đời thóc mách, 8 năm sau “bị” em biên tập lại. Dĩ nhiên là em có thay đổi tính danh và chỉnh lại một vài chi tiết .Nhớ lời chị dặn trong chuyến về thăm Vũng Tàu năm 1990 , nên dù hòan  tất đã lâu nhưng em vẫn để yên bản thảo trong hộc tủ.“ Chị “phải” đọc cho em nghe, nếu không chắc sê nổi điên. Nhưng xin em đừng kể lại cho ai .”

Bây giờ dưới lớp bụi thời gian,15 năm qua đã là chứng nhân biết bao thay đổi :  Bác gái và chị đều đã qua đời vì bạo bệnh và những người liên quan đã không còn ai sống ở VN nữ a: Chồng chị và các cháu được gia đình bảo lãnh qua Canada, gia đình người em trai sinh sống ỏ Na Uy còn người chị họ về sau lấy một việt kiều và hiện giờ định cư ở Mỹ…

Dù không quên lời dặn và không muốn phản bội niềm tin mà chị đã gứi gắm cho mình, nhưng lúc này thì em  lại nghĩ rằng câu chuyện trên trang nhật ký đó, trên thực té nó chẳng phải là của riêng ai, mà là một cách sống có thực  của một thời, của một giai đọan khó khăn và tình người đảo lộn, nên quyết định gửi bản thảo cho một tạp chí văn chương. Em hy vọng là ở bên  kia thế giới chị cũng sẵn sàng chia sẻ với suy nghĩ của em , còn nếu không thì em ngàn lần xin linh hồn chị thiêng liêng thứ lỗi. (Tháng 8-2006)

Read Full Post »

Trương Văn Dân               

                               

Chuyến về Việt nam lần ấy, Quang mang trong lòng nhiều nỗi lo âu.

Mấy năm qua tình hình Âu châu đã trải qua rất nhiều chuyển biến. Việc loại bỏ biên giới để  liên kết các nước thành viên trong một tổ chức chung đã kéo theo nhiều xáo trộn về kinh tế. Thêm vào đó việc sát nhập các đại  công ty còn làm thặng dư nhân lực. Công nhân bị sa thải, các hãng nhỏ bị phá sản và bóng ma thất nghiệp lâu nay chập chờn ẩn hiện đang dần dần lộ ra rõ nét, trở thành nỗi ám  ảnh cho mọi người. Công việc cố định và đời sống bảo đảm, một đặc tính truyền thống lâu đời của nước Ý cũng đang dần dần biến chất. “Tăng di động”, tiếng gọi thôi thúc theo mô hình Mỹ đang là một triết lý về phát triển kinh tế ở đây. Nhưng nếp sống của người Mỹ, vốn thờ ơ  với nơi sinh trưởng và hời hợt trong quan hệ láng giềng , nay sống tiểu bang này, vài tháng sau lại khăn gói lên đường chạy về tiểu bang khác, không đợi thời gian bén rễ…liệu có dễ thích ứng với những tập quán của mình chăng? Quang suy nghĩ miên man và mấy tháng qua đầu óc anh vô cùng căng thẳng. Công ty anh đang làm có nguy cơ bị sáp nhập vào một tổ chức siêu quốc gia đã và đang thực hiện sự  tập trung kinh tế, nhằm bảo đảm độc quyền phân phối trong chiến dịch toàn cầu.

Bởi thế, sau hơn ba mươi năm sống và làm việc ở Âu châu, trong chuyến về thăm nhà lần đầu Quang vừa muốn nghỉ ngơi, vừa muốn tìm một cách nghĩ Á Đông nào đó khả dĩ giúp anh quên đi nỗi  ưu tư về một tương lai mù mịt, lâu nay  cứ  ám  ảnh trong hồn.

Ngồi trên máy bay Quang nhớ lại cuộc đối thoại giữa Trung và Hưng vài hôm trước ở nhà mình. Hai người bạn có quan điểm hoàn toàn trái ngược. Khi Trung chỉ trích xã hội hiện tại thì Hưng đã hùng hồn biện hộ :

– Tao thấy không nên phủ nhận xã hội hôm nay. Bọn mầy không thấy là điều kiện vật chất đã hoàn toàn tiến bộ trong những thế kỷ sau này sao? Ngày xưa phần lớn trẻ em chết  yểu ở những năm đầu và rất nhiều phụ nữ từ trần trong thời kỳ sinh nở. Lúc xã hội còn phôi thai đời sống thực nhọc nhằn và khốn khổ.  Người ta sống trong những căn nhà không sưởi ấm, ăn uống thiếu thốn, trẻ em không được học hành và sinh mạng luôn luôn bị đe dọa vì bệnh dịch. Hôm nay tất cả những vấn nạn đó đã được giải quyết nhờ tiến bộ kỹ thuật và phát minh y học.  Những việc nặng nề, lập đi lập lại hôm nay đã không còn nữa; các phương tiện lưu thông  đã  thành cực nhanh và trong nhà đâu có thiếu những máy móc giúp chúng ta tiết kiệm thời gian  trong  những công việc lặt vặt và chán ngấy mà trước đây chúng ta phải bỏ ra hàng giờ mơi lo cho xuể. Đừng!  Tao mong rằng bọn mầy đừng luyến tiếc quá khứ, mang nặng cái tinh thần hoài cổ để làm chậm bước tiến hoá của loài người.

Không! Không thể nào sống như quá khứ. Xã hội nhất định  không thể đi lùi , nó phải đi tới và nếu cần, sửa chữa những sai lầm để vươn  lên. Tao mong là bọn mày hãy từ bỏ những quan điểm lạc hậu. Còn tao, tao tin là với sự trợ lực của computer, loài người sẽ còn tiến bộ hơn, không phải chỉ để sinh tồn mà còn để sống một cuộc sống tốt đẹp. Bọn mầy không thấy là toàn thế giới đã bị “ tóm”  vào một mạng lưới đó sao? Ngồi thoải mái trong căn nhà ấm cúng mà chúng ta vẫn có  thể đi từ thư viện Nữu Ước, viện bảo tàng Luân Đôn đến việc viếng thăm một ngôi chuà cổ ở Bắc Kinh trong thời gian thực?

Nhưng lập luận của Trung cũng không kém phần sắc bén :

– Không ai phủ nhận sự tiến bộ kỹ thuật. Nhưng sự tiến bộ ấy dùng để làm gì? Đời sống xã hội chỉ chạy theo vật chất và bỏ quên con người. Chính vì thế mà nguy cơ tha hoá đã và đang xuất hiện, sự ô nhiễm môi sinh, thất nghiệp lan tràn và những khoảng cách không thể nào lấp nổi giữa những xã hội giàu sang với những nước kém mở mang. Hiện nay trên thế giới có hơn 800 triệu người nghèo đói, và trong đó  có khoảng 200 triệu trẻ em dưới 5 tuổi đang thiếu ăn, suy dinh dưỡng. Phương tiện di chuyển tối tân, thông tin nhanh chóng để làm gì, khi những bất công này càng ngày càng trở nên trầm trọng?

Nhưng ngay trong lòng xã hội Tây phương cũng không phải không có  những phần tử kém may mắn, bị hất sang bên lề vì không hội nhập được với đời sống mới. Họ lạc lõng  và bơ vơ trong một nền văn hoá càng ngày càng sa đoạ và chủ nghĩa vật chất đang phát triển đến độ hung hãn nhất. Mầy không thấy TV và ciné chỉ thuần chiếu những phim khêu gợi dục tình và bạo lực đó sao? Chúng ta đang hưởng thụ một cách thô bạo và giải trí  bằng cách xem giết chóc với sự  tàn nhẫn  ở mức cao nhất. Xã hội băng hoại này đã phát sinh ra chính trường đầy những kẻ đầu cơ chính trị, tham lam, những bác sĩ chỉ nghĩ đến chuyện kiếm tiền thay vì chữa trị, lớp quan toà chỉ thích hạch hỏi để biểu thị quyền uy hơn là thi hành công lý, còn hãng xưởng thì đầy rẫy những kẻ kiêu căng, nịnh bợ, đầu óc lúc nào cũng mang một ước mơ tiến thủ và làm sao chèn  ép  để đè bẹp đồng nghiệp, bạn bè mình.

Thú thực có đôi lúc tao cảm thấy nghi ngờ cái mỹ từ gọi là văn minh tiến bộ. Trên phương diện vật chất  chúng ta đã đi một bước khá dài so với những thế kỷ trước nhưng về phương diện tinh thần thì vẫn nghèo như xưa, chả tiến được chút nào; bằng cớ là chúng ta vẫn tiếp tục những sai lầm quá khứ. Những lỗi  lầm đó tao thấy càng ngày càng nặng nề thêm, hậu quả tất yếu của  hoạt  động kỹ nghệ nên chưa bao giờ chúng ta ý thức về sự hiện hữu của đời mình hay đặt lên nghi vấn là tại sao mình mãi làm như thế. Toàn bộ thời gian chúng ta tự giam trong cô độc, xung quanh chỉ toàn máy móc mà vắng bóng con người, để quần quật sản xuất và tích lũy cho nhiều sản phẩm. Rồi với nhịp độ càng ngày càng tăng, một ngày nào đó chúng ta sẽ đồng hoá với nhịp máy, trở thành phẩm vật, để cuối cùng âm thầm biến mất, như hàng triệu  đồ vật đã ngày đêm  tạo ra hay mua sắm.

 Những năm gần đây các cơ quan truyền thanh và báo chí còn không ngừng nhắc đến toàn cầu hoá nhằm thúc đẩy sự tiến đến một nền kinh tế duy nhất trong đó các lục địa sẽ liên kết với nhau qua mạng lưới điện tử. Chưa ai hình dung được xã hội đó sẽ như thế nào, nhưng tao chắc chắn là con người sẽ càng ngày càng ngăn cách  nhau hơn, sự tiếp-xúc-Thực-giữa-người-và-người sẽ  giới hạn vì đã được nối-Ảo-với-nhau trong một vũ-trụ-siêu-kỹ- thuật. Con người lúc ấy sẽ biến thành một công cụ kinh tế, ai ai cũng suy nghĩ và hành động giống nhau, cùng cúi đầu vận hành theo những giáo điều có sẵn. Và các sắc dân sẽ vĩnh viễn mất đi bản sắc dân tộc của mình.

Thực là phi lý cái hệ thống kinh tế mà người ta tin là tiến bộ và sẽ cứu thế giới: Nó không đặt  căn bản trên tinh thần cộng tác mà chỉ khai thác nguyên lý cạnh tranh, nhằm nâng cao lợi nhuận. Thương trường thành chiến trường, đó là triết lý sống  mà xã hội Tây Phương đang áp đặt lên toàn thế giới.

Cuộc tranh cãi sôi nổi, và hôm ấy Quang thấy mình thật khó mà tán thưởng bên này hay phản đối bên kia. Ai cũng có lý riêng, nhưng nghĩ kỹ  anh thấy mình  tâm đắc với những suy nghĩ của Trung hơn. Nhiều lần anh cảm thấy hoang mang về đời sống Tây phương. Không phải anh là loại người mang nặng lòng hoài cổ, nhưng gần đây với sự phát triển ào ạt  của computer, đôi lúc anh có cảm giác là đời sống của con người đã bị bỏ quên, dễ dàng bị xoá đi như một file trong bộ nhớ.

Ngày xưa mọi chọn lựa đều có một giới hạn, con người chỉ có một ý nghĩ, một con đường. Hôm nay khả năng chọn lựa có nhiều, nhưng bù lại anh thấy mình như mất định hướng và phân vân hơn về ý nghĩa đời mình. Ngay việc mua sắm cỏn con anh cứ cảm thấy mình bị giằng co vì trăm lời mời mọc. Các phù thủy hiện đại, những nhà “tiếp thị” đang tung buà hoá phép để tạo sinh một Tôn Giáo Tiêu Dùng: Thứ tôn giáo chủ trương tích luỹ vật chất, du lịch hàng loạt. Nó không cần nhà thờ hay chùa chiền vì đã có các trung tâm thương mại: để gặp gỡ  và sinh hoạt, để trao đổi, bán buôn. Đó là nơi vui chơi, giải trí. Tất cả mọi nơi trên thế giới đều như nhau. Và giống nhau.

Thế giới hiện đại hình như đang đánh mất tất cả những nấc thang giá trị và không còn gì nữa, không còn lý tưởng, không còn niềm tin, không còn điều gì vĩ đại để tin theo, vì xung quanh chỉ có một ước muốn duy nhất: kiếm tiền để thoả mãn vật chất.

Nhưng quả thật đời người chỉ có một mục đích duy nhất ấy hay sao? Có lúc nhìn quanh anh cảm thấy đời mình như vô nghĩa. Anh luôn mệt mỏi vì nhịp sống máy móc, ràng buộc bỡi nhiều thứ bổn phận khác nhau. Những chiếc hoá đơn chạy đến dồn dập, đôi khi trả giá cho những nhu cầu không-thật-sự-cần-thiết. Trong khi đó mọi  quan hệ công việc càng ngày càng giả tạo, khó khăn. Xung quanh anh, bạn bè lúc nào cũng thiếu – hay tưởng mình thiếu – thì giờ, và chẳng bao giờ có lúc dừng chân. Không lúc nào anh không cảm thấy cô độc và bất an, vì những điều này, điều nọ phải làm, vì những hoá đơn này, chi  phí kia phải trả. Cuộc sống của anh và bè bạn luôn chìm ngập trong âu lo hay  trực diện với những tháng ngày buồn nản, đều đều, trống trải, có khi anh thấy như đi vào bế tắc. Sau một ngày căng thẳng vì công việc, đêm về với giấc ngủ trăn trở, sáng thức dậy là chỉ nghĩ đến chạy. Như một phản xạ. Và tất cả đều chạy. Mà chạy đi đâu? Không ai biết . Nhưng đã có mấy ai bình tĩnh dừng chân? Đổi hướng. Hay can đảm  đi tìm một lối sống khác.

Quang về đến Việt nam  ngay giữa thời mở cửa. Thời đại kinh tế thị trường. Ai ai cũng bàn về sự bùng nổ về xây dựng. Những hàng cây trước căn nhà của  người anh ở Sài Gòn đã bị đốn ngã để mở rộng lòng đường. Thành phố bắt đầu mọc lên những toà nhà chọc trời bằng bê tông. Quang chợt nhận ra  là càng ngày chúng ta càng sống xa rời thiên nhiên. Hình như Âu châu đang bắt đầu nhận ra sai lầm đó và đang tìm cách cứu vãn trong khi thành phố Sài Gòn lại đang muốn trở thành một thành phố Tây phương, nhập cảng vô tội vạ những mô hình phát triển của người mà không chút đắn đo, gạn lọc.  Mỗi năm hàng nghìn người dân quê rời bỏ ruộng vườn… để sống chui rúc trong các khu ổ chuột bên lề thành phố, trong những toà nhà ciment, trong các chung cư một, hai  phòng…

Một buổi chiều khi đi ngang trường cũ Quang trông thấy những đứa bé mình trần trùng trục đang bươi bươi đống rác dưới chân cầu Trương Minh Giảng. Có em bốc bằng tay để tìm những đồ thừa  giữa một mùi xú uế bốc lên lợm giọng. Bên cạnh đó, một bà lão khệnh khạng, bước thấp bước cao, tay cầm xị rượu uống từng ngụm, rồi chốc chốc lại cười lên khanh khách.

Quang rồ máy chạy đi, nhưng về phía chợ  anh còn thấy một thanh niên cụt cả hai chân, chiếc nón mê đeo trước cổ, vừa lết vừa ca một bài ca não ruột . Phía bên phải , trên lề đường, trước một căn nhà đóng cửa, có hai người nằm ngủ, co ro dưới một mảng thùng giấy rách bươm đắp lên tận cổ. Quang xót xa nhìn những sản phẩm của  cuộc chiến chưa được lãng quên và sản phẩm của thời đại kinh tế hôm nay, rồi cảm thấy là cả hai đều có cùng một cường độ  tàn ác như nhau.

*

Những ngày đầu sống gần gũi với gia đình thật là vui vẻ. Nhưng, giống như những lần trước, chỉ  hơn tuần lễ chung đụng Quang buồn bả nhận ra những va chạm khó thể hàn gắn lại trong gia đình và thân tộc. Không khí có khi  căng thẳng nặng nề. Chiến tranh lạnh âm ỉ giữa bà con, cô, chú thì anh có thể phớt lờ, nhưng cuộc tranh cãi khá gay gắt giữa mẹ và chị dâu đã làm anh  đứt ruột. Không biết tại sao họ luôn luôn mâu thuẩn với nhau như thế. Nhiều khi anh thấy thực không có gì đáng để xung đột cả. Anh chưa bao giờ bận tâm phân tích để tìm xem  ai trái ai phải, vì  anh  thấy cả hai đều hẹp hòi và cố chấp những điều rất nhỏ nhoi, do những thành kiến bắt nguồn từ thủa xa xưa nào. Nhưng anh thấy mẹ thật tội nghiệp. Dẫu sao bà cũng đã lớn tuổi, thường tủi thân và nhiều nước mắt, cả ngày chỉ biết lên chuà lễ Phật rồi về nhà nặng nhọc leo lên lầu thắp nhang  trước bàn thờ người chồng vắn số. Thời gian còn lại bà lặng lẽ ngồi thu hình  ở góc nhà như một cái bóng , không ai gợi chuyện, hỏi han. Anh ứa nước mắt.

Nếu một mai mẹ có mệnh hệ gì, chắc cũng chả ai hay !

*

Chán ngán cuộc sống  tù túng và không khí ngột ngạt của Sài gòn nên Quang đã đáp xe lửa về Quy Nhơn  sớm hơn dự định. Nhưng ngay hôm vừa đến, cái nóng  oi nồng của thành phố đã làm anh uể oải. Buổi chiều anh lấy xe Honda của em gái chạy dọc theo đường Nguyễn Huệ. Bãi biển lúc ấy khá vắng người. Anh dựng xe trong sân một quán nước và gọi ly chanh muối.

Quang nằm duỗi chân trên ghế bố, gió biển hiu hiu mát nên anh thiêm thiếp. Bỗng một bọn trẻ ở đâu ào tới, vừa văng tục với nhau vừa giành nhau mời anh mua kẹo, mua báo mua vé số…

– Đi ra chỗ khác !

Bà chủ quán vừa cầm cây chổi vừa tiến tới với bộ dáng đầy hăm doạ. Lũ trẻ chạy tán loạn. Bà nhìn Quang như phân trần :

– Ông coi chừng bọn nhãi này. Vừa làm  ồn vừa hay cắp vặt.

Nói xong bà đi cất chổi và trở lại quầy, nhưng sau đó có lẽ thắy vắng khách nên bà đi sang quán bên trò chuyện.

– Mời chú mua…

Một thằng bé chừng 11-12 tuổi đang tiến đến. Không hiểu có phải tại  vết thẹo dài trên mắt trái đã làm Quang có ác cảm  hay bực mình vì sự yên tĩnh bị quấy rầy. Anh lớn tiếng:

– Không bán mua gì cả! Đi chơi chỗ khác.!

Thằng bé sững sờ nhìn anh. Vết thẹo bên mắt trái nở to hơn nên trông nó càng đáng ghét. Nhưng lạ thay, giọng nói của em lại vô cùng lễ độ :

– Cháu mời chú, chú không mua thì thôi chứ sao lại mắng cháu?

Quang chưng hửng. Đột nhiên anh thấy mình vô lý. Nhưng giọng lý sự của thằng bé làm anh tự ái nên chỉ yên lặng chứ không mở lời xin lỗi. Mặt anh vẫn còn hầm hầm nhìn nó.

Đó là một thằng bé ốm tong teo, tóc hớt ngắn, mặc một chiếc quần đùi đã bạc và trên người khoác một chiếc áo nhà binh hơi quá khổ. Trông dáng điệu có vẻ xốc xếch nhưng không  dơ bẩn .

– Cháu ngồi chỗ kia, không làm phiền chú đâu. Khi nào  đói bụng, mời chú mua dùm cho cháu nhé !

Giọng nói lễ phép đã làm nguội nỗi bực dọc của Quang. Nhưng anh không nói gì thêm, quay nhìn ra phía biển rồi lim dim đôi mắt.

Lát sau khi Quang tỉnh ngủ, anh thấy thằng bé vẫn còn ngồi dựa lưng vào một gốc dừa đang chăm chú viết, thúng  quà bánh được đậy nắp và bỏ qua một bên.

– Này, em bán gì đấy ?

Thằng bé vội xếp sách, ôm thúng quà chạy tới .

-Dạ bắp nấu. Mời chú mua dùm cho cháu. Vừa nói em vừa lưạ một trái đưa cho Quang.

Vừa  ăn bắp Quang vừa hỏi chuyện. Cõ lẽ sau khi nghỉ ngơi một lát, tinh thần khoan khoái nên giọng anh ôn hoà:

– Lúc nãy chú thấy cháu viết gì đó?

– Dạ thưa cháu đang làm bài tập.

– Cháu học lớp mấy ?

Mặt em bé hơi sững lại. Quang thấy  em buồn buồn .

– Dạ lớp bảy. Rồi em hạ thấp giọng và nói tiếp :

– Nhưng hai năm nay cháu không có thời giờ đến trường nữa.

Quang  ngạc nhiên.

– Ủa ! Không đến trường sao cháu còn làm bài tập ?

– Thưa chú, cháu muốn đi học nhưng không có thì giờ đến trường. Cháu muợn tập của bạn để học thêm lúc rảnh.

Quang ồ lên một tiếng. Giờ anh mới vỡ lẽ. Trong một thoáng anh chợt nhớ tới  những đứa trẻ cùng tuổi Âu châu, giờ này đang ở trong một căn phòng ấm cúng và đầy đủ tiện nghi, đang say sưa điều khiển những trò chơi điện tử. Chúng không cần chơi với ai và cũng không chịu học.

Trước mắt anh giờ đây là một thằng bé chững chạc, và hoàn toàn khác hẳn  những đứa bé thị thành  mà anh từng gặp trên đất Ý. Đây là hình ảnh của một người đã trưởng thành, là một thứ trái-cây-chín-sớm bỡi gió bão cuộc đời .

– Cháu tên gì ? Quang vừa hỏi vừa lựa thêm vài trái bắp nữa bỏ vào túi nylon.

– Dạ tên Bảo .

Quang đưa tiền cho Bảo. Thấy em đang đếm tiền để thối lại, anh bảo thôi, cứ giữ lấy nhưng Bảo vẫn dúi số tiền đã đếm vào tay anh. Quang hơi bất ngờ, nhưng thấy thằng bé biết tự trọng anh không nài thêm; tuy nhiên anh nhanh trí mua thêm một trái nữa  rồi bỏ hết số tiền thối vào túi Bảo.

– Cám ơn chú . Chiều mai  chú xuống tắm nhớ mua dùm  cho cháu nhé!

Chiều ấy ở biển về, Quang thấy lòng lâng lâng vui vẻ. Khi đi qua công viên, anh chia bắp cho một bọn trẻ con đang đánh bi dưới  bóng cây. Lũ trẻ reo lên mừng rỡ. Quang mỉm cười bước đi và đầu óc anh cứ vương vấn hình ảnh Bảo. Hình như trong trí anh lúc này, chiếc thẹo  không những đã không làm cho  em xấu xí mà trái lại, nó còn làm nổi bật lên đôi mắt đầy nghị lực, tự tin ở sức mình và chất chứa trong lòng một niềm tự trọng.

Sáng hôm sau ra biển thì Quang lại gặp Bảo. Lúc này em đang bán báo. Anh mua hai tờ và cũng như hôm trước, khi trả tiền, anh đành phải lấy thêm mấy tờ khác nữa thì Bảo mới chịu nhận lại số tiền thối mà anh đã quyết định  chối từ.

*

Suốt một tuần ngày nào cũng thế. Buổi sáng Quang  thấy Bảo bán báo và buổi trưa thì bán các thứ quà vặt. Lúc nào anh cũng thấy em vui vẻ và lễ phép. Những lúc rảnh anh để ý thấy em chăm chú đọc sách hay hí hoáy làm bài tập.

*

Một buổi tối sau khi tan  buổi trình diễn văn nghệ, Quang vừa bước ra thì thấy Bảo đang ngủ gà ngủ gật trước rạp Trưng Vương. Gần nửa đêm rồi. Gió khuya không lạnh lắm nhưng anh thấy em bé đang run run dưới manh áo mỏng. Quang hỏi :

– Bảo ,coi bộ cháu mệt rồi sao không về nghỉ ?

– Không . Cháu chưa mệt. Cháu chờ vãn hát để bán cho hết số bánh chưng vì để lâu rất dễ bị hư. Thường thường khi tan hát khán giả sẽ mua hết.

Quang định hỏi  thêm, nhưng đông người quá anh thấy không tiện. Làn sóng người đang ào ạt  túa ra.

Sáng hôm sau  gặïp Bảo ở biển. Anh hỏi :

– Chú thấy cháu  làm việc nhiều như vậy. Lúc nào chú cũng thấy cháu bán hết thứ này đến thứ khác, từ sáng đến tối. Cháu dành tiền để làm gì?

Anh thấy mặt thằng bé tái đi. Em mở to mắt nhìn Quang, không đáp, rồi quay nhìn ra biển.

Quang hỏi dồn  :

-Bộ cháu  tính tiêu gì lớn lắm  hả? hay dành tiền mua xe gắn máy?

-Dạ thưa không. Cháu cần rất nhiều tiền, nhưng không phải để tiêu hoang.

Rồi như nghĩ sao em nhìn anh một giây rồi ngập ngừng:

– Dạ cháu có ý…

Nhưng đột nhiên Quang đọc thấy trong mắt em một cái nhìn ngập ngừng của một kẻ chưa sẵn sàng thổ lộ một tâm sự. Anh hơi ân hận, nên vội ngắt lời để em khỏi phải khổ tâm :

– Chú  chỉ tò mò vậy thôi. Cháu không bắt buột phải trả lời!

*

Bẵng đi vài ngày, vì lên Pleiku thăm thân nhân nên Quang đã không còn nghĩ đến thằng bé. Nhưng khi về lại Quy Nhơn thì một buổi sáng anh lại gặp Bảo ở biển.

– Này Bảo, chú sắp đi rồi. Chú có thể giúp cháu được gì không ?

Quang thấy nét mặt em hơi buồn, nhưng cuối cùng em lắc đầu, nhìn anh :

– Bấy lâu nay chú mua giùm hàng cho cháu là cũng đã giúp cho cháu nhiều rồi vậy .

Rồi em quay đi. Quang không biết nói gì thêm. Anh yên lặng nhìn theo, và sau đó  chỉ còn nghe tiếng rao của em như chìm trong gió biển.

*

Một buổi chiều chúa nhật lúc Quang lái xe Honda chạy dọc theo bờ biển  để hóng mát trước khi rời quê hương thì  thấy Bảo. Mới đầu anh định kêu em, nhưng không hiểu sao  lại đổi ý. Có lẽ tại Bảo hôm nay rất khác thường. Em mặc một chiếc áo sơ mi trắng, aó bỏ trong chiếc quần Jean đã bạc màu. Trên tay phải em cầm một gói giấy và tay trái cầm một bó hoa nhỏ. Quang bỗng nổi ý tò mò. Nhất định là chiều nay em không đi làm, và trông bộ dáng  tung tăng kia thì chắc là em đang vui lắm. Giữ khoảng cách, anh chậm rãi đi theo, dù trong tâm anh không tin là em bé mới lớn kia đang làm gì mờ ám .

Khi đến trước cổng bệnh viện thì Bảo rẽ vào trong. Quang không biết làm sao, nhưng rất nhanh, anh vội vã đi gửi xe Honda rồi hớt  hải chạy  theo.

Quang vừa đi trên con đường lát gạch vừa quan sát khu bệnh viện. Mấy dãy lầu thấp một tầng, quét vôi vàng trông cũ kỹ và buồn thảm. Đã nhiều năm không tu bổ gì thêm nên bệnh viện Quy Nhơn trông như hoang phế.  Anh theo thằng bé bước lên lầu. Vừa đi hết cầu thang, anh đã nghe mùi cồn hoà với mùi thuốc sát trùng xông lên khứu giác. Trên những chiếc giường sơ sài trải chiếu, nhiều người bệnh la liệt nằm tréo đầu lại với nhau. Một số mặc pigiama trắng, băng bó quấn trên đầu hay tay chân đang đi lại ngoài hành lang. Có vài người chống nạng. Vài cô y tá bưng chiếc khay đã sờn, trên đó nằm loe hoe vài lọ thuốc. Tất cả vẽ nên khung cảnh của một bệnh viện nghèo. Rất nghèo. Quang lần bước đến bên cửa nhìn vào và trông thấy thằng bé đang loay hoay bên một chiếc gường kê ở góc phòng. Trên  chiếc bàn con gần đó có một bó hoa cắm trong ly, một đĩa cam sành và vài hộp tân dược. Sát đầu giường anh còn thấy  dựng một đôi nạn gỗ. Lúc ấy Bảo đứng một bên, đang xoa bóp cho một người đàn bà có khuôn mặt rất giống  em. Bà ta khoảng  chừng bốn mươi tuổi. Quang chú mục nhìn vào. Không bao giờ anh quên được đôi mắt  của người đàn bà đó. Cái nhìn đầy âu yếm và trên môi đang nở một nụ cười như vừa kiêu hãnh vừa mãn nguyện.

Quang biết chắc đó là hai người hạnh phúc nhất trần gian.

Nếu không tự kiềm chế  thì có lẽ Quang đã bước vô để góp vào niềm vui của họ, nhưng anh thấy mình không có quyền xen vào để làm rối cuộc họp thân mật của gia đình của Bảo.  Anh yên lặng đứng nhìn và lòng cũng vui lây.

– Thưa ông tìm  ai ạ?

Quang giật mình, quay lại. Đó là một người đàn bà mặc áo trắng, khuôn mặt hiền từ, đang bước về phía anh . Anh ra dấu để bà ta yên lặng và hạ thấp giọng :

-Dạ, tôi theo một em bé vào đây? Vừa nói anh vừa ra dấu chỉ vào phòng.

-Uả, ông có quen với em Bảo hã?

Quang ngạc nhiên. Ở đây người người la liệt, làm sao mà một bà y tá  luôn bận rộn  lại nhớ cả tên một em bé vô danh như vậy? Anh vắn tắt kể đã quen biết Bảo trong trường hợp nào, và hôm nay  vào đây chỉ do một sự tình cờ.

-Đó là một em bé tuyệt vời. Bà y tá chép miệng.

-Uả, bà biết  em Bảo rõ lắm sao?

-Ở đây ai mà không biết Bảo. Tất cả đều thương mến và cảm phục em.

Thấy Quang trố mắt ngạc nhiên, bà y tá dịu giọng nhìn  anh:

– Nếu ông muốn nghe chuyện em Bảo thì mời ông vô đây.

Quang theo bà bước vào phòng. Sau khi cầm phích nước rót trà vào chén để mời Quang, bà cũng hớp một ngụm rồi chậm rãi kể:

Bảo  không phải là người Quy Nhơn. Hình như  cha mẹ  em ở Đồng Phó hay Định Quang gì đó, tôi không còn nhớ rõ. Cha Bảo sinh sống bằng nghề thợ may nhưng hình như vì thời buổi khó khăn, ở quê không ai may vá gì nên khoảng năm 82-83 ông dẫn gia đình  về Quy Nhơn sinh sống. Nhà em ở trong khu sáu. Cha Bảo là một thợ may khá lành nghề nên đời sống gia đình tương đối sung túc, Bảo được  cha mẹ cho ăn học đường hoàng. Nhưng đầu năm 90, lúc Bảo vừa lên sáu, cha em bỏ đi đâu biệt tích. Có người đồn là ông ta đã  đi theo vợ bé vào Sài Gòn, có người nói là ông ta đã bí mật làm hồ sơ để đi bảo lãnh với  một tình nhân trẻ tuổi. Thực  không ai biết đích xác là chuyện gì đã xảy ra. Tuy  đứt ruột nhưng mẹ Bảo vẫn tiếp tục tảo tần nuôi em ăn học, chỉ tiếc là thời gian sau này kinh tế khó khăn, em phải bỏ học để đi làm giúp mẹ.

Nhưng bất hạnh không dừng lại ở đó. Mấy tháng trước mẹ em gánh hàng rong đi bán thì  bị  một tên say lá xe Honda hất ngã, lưng bà đập vào lề đường và từ đó một chân bị liệt, không đi đứng gì được nữa. Kinh tế gia đình đang lúc khó khăn giờ lâm vào  cảnh vô cùng túng quẩn. Hiện nay em không còn ai là người thân, trừ người mẹ bệnh tật mà ông vừa thấy đó.

Bà y tá rưng rưng nước mắt :

– Không ai tưởng tượng nổi sự can đảm vả đức chịu khó của em. Sau khi mang mẹ đến bệnh viện, em phải quần quật  làm việc suốt ngày để tự kiếm sống, ngoài ra còn phải thăm nuôi và  kiếm tiền để thuốc thang cho mẹ. Một mình  cáng đáng mọi việc nhưng lúc nào em cũng vui vẻ, không bao giờ than thân trách phận. Thì giờ rảnh  em còn tranh thủ học thêm  nên ai thấy cũng đều thán phục. Mỗi chiều chủ nhật em thường đến đây tự tay săn sóc mẹ, và ông biết là từ sau giải phóng, bệnh viện đâu có kinh phí nhiều, hầu hết  thuốc men đều phải mua ngoài. Thuốc tây thì đắt đỏ, vậy mà tuần nào em cũng mua được cho mẹ những toa thuốc cần thiết mà bác sĩ đã ghi. Thời gian gần đây  em còn thố lộ với tôi là sẽ cố gắng kiếm nhiều  tiền để có thể mang mẹ vào Sài Gòn chữa trị cho chóng khỏi.

Câu chuyện kể đến đây thì cả Quang và bà y  tá cùng lặng thinh. Thời gian như ngừng lại và không gian như yên tĩnh lạ thường. Quang mơ hồ như nghe thấy một tiếng chuông chùa từ xa đưa lại và những điều vừa nghe như gợi dậy trong anh một sự hồi sinh. Bỗng dưng Quang xấu hổ nghĩ rằng lâu nay mình đã để cho niềm thất vọng lôi cuốn và đã đánh mất niềm tin ở con người. Giờ thì anh nhận ra niềm an vui là sống thế nào để có ích cho người khác và dẫu nghèo khổ đến đâu, khi biết yêu thương, người ta sẽ hạnh phúc. Đó là một điều đơn giản. Nhưng lòng anh lâng lâng và thanh thoát như vừa khám phá  một chân lý cao siêu.

Cảm xúc lạ lùng và kỳ diệu ấy đã bắt nguồn từ  sự hy sinh quên mình của một đứa trẻ.

Quang lấy xe Honda và chạy về phía biển. Anh dựng xe lên bãi cát  rồi bước dọc theo mé nước, có khi dừng lại, đứng ngắm một hồi lâu. Trời đã bắt đầu tối, những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời  và trên mặt biển có những làn hơi nước bốc lên như một làn sương mỏng.

Đêm ấy Quang cứ suy nghĩ mãi.  Mình có thể làm gì để có thể đổi thay số phận của nhiều người? Có thể làm gì để  gỡ bớt  gánh nặng oằn vai của một đứa trẻ đầy phẩm giá?  Anh phân vân vô kể. Mấy năm trước anh thường tự hào – và tự phụ – là có thể cáng đáng mọi gánh nặng cho những người thân còn sống ở Việt nam. Nhưng thực tế  phũ phàng đã làm anh đứt ruột. Nhiều đêm anh lặng lẽ khóc ray rức bằng trái tim rướm máu của mình. Thôi. Có lẽ không nên tự cưu mang cho mình những món nợ tinh thần  là hay hơn cả. Mỗi người đều có một định mệnh và chỉ có thể sống theo cách của họ mà thôi…

Nhưng buổi sáng trước khi rời Quy Nhơn anh chạy đi tìm Bảo để đưa cho em tất cả  số tiền còn lại. Bảo ngơ ngác chưa biết phản ứng ra sao. Khi em cố  chạy theo để gọi       “ Chú ơi, con không dám nhận đâu! “  thì Quang đã rồ máy Honda chạy mất. Gió thổi bạt về phía sau, tiếng anh khàn và đục  “Giữ đi cháu, cháu sẽ xử dụng nó một cách xứng đáng hơn chú nhiều.“

Trưa hôm ấy chuyến xe lửa  từ Ga Diêu Trì mang Quang về thành phố và  buổi tối khi ngồi trên máy bay về lại Ý anh  thấy lòng  thanh thản, như vừa trút xong những lo lắng của mấy tháng vừa qua. Từ chuyến về thăm nhà lần ấy, nếu làm một cán cân kinh tế, Quang thấy anh là người có lợi .  Anh chỉ cho Bảo một số tiền nhỏ mà đổi lại, Bảo đã dạy anh một bài học yêu thương, nhân nghĩa, hiếm hoi lắm trong thời đại hôm nay.

      

Milano 9-1996

Read Full Post »

« Newer Posts