Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Tiết Hùng Thái’

Kẻ lang thang

Leonid Leonov

Dịch giả Tiết Hùng Thái



KẺ LANG THANG
 (1928)

Leonid Maximovich Leonov Sinh ngày 31 tháng năm 1899 mất 8 tháng 8 1994, là nhà văn Nga nổi tiếng,  tác giả Trộm cắp (1927), Rừng Nga (1953) Kim tự tháp (1994)…Được coi là kế tục Dostoievsky ở thế kỷ 20 với chất vắn xuôi đầy suy tư trăn trở

 Trà giống như mùi cỏ mục, đường có vị dầu hỏa. Sađaép dằn mạnh chén trà uống dở xuống bàn, và lơ đãng nghe tiếng ồn ào huyên náo trong quán trọ. Thường trong những phiên chợ ngày chủ nhật cứ vào khoảng giữa trưa là sự sôi động lại tăng lên nhưng Sađaep được vây bọc bởi im lặng hoàn toàn. Anh đột ngột đứng dậy, giơ hai tay ra phía trước, bước về phía cửa sau quán rượu. Coi trọng danh tiếng không chê vào đâu được của quán mình còn hơn con mắt độc nhất của lão, lão chủ quán vội bước theo Sađaep nhưng lão đã nghi ngờ vô ích.

Trong bóng tối mờ mờ màu lục của sân sau, với những vệt sáng lọt qua những kẽ nứt, người khách trọ đang đóng yên con lừa cái của anh ta. Con lừa cái có bộ lông thẳng mượt cố níu lại khi bị kéo ra khỏi máng ăn đầy tú hụ, nhưng người khách trọ không tức giận, thậm chí không hề để ý. Tuy vậy, anh ta cúi xuống nhặt một mẩu vỏ bánh mì bị ai đó ném trên rơm bẩn. Anh ta chăm chú nhìn nó một hồi lâu rồi mới bỏ nó và túi du lịch. Thấy lạ vì hành vi bí ẩn của Sađaep, người chủ quán bước ra khỏi chỗ nấp. Sađaep trở nên luống cuống.

“Mấy con chó sẽ sung sướng thấy cái này” anh ta khẽ nói về mẩu bánh mì.

“Thế ai sẽ sung sướng được thấy anh?” lão chủ quán trả lời nheo nheo đôi mắt tinh quái cười đểu và bước vào trong quán.

Sađaep đánh lừa ra khỏi sân.

Trưa tháng Tư tràn ngập tiếng chiền chiện líu lo. Những vũng nước nhỏ lấp lánh ánh nắng, khắp nơi rầm rì những âm thanh vô nghĩa. Một cảm giác nhẹ nhõm êm dịu gần như say sưa thấm vào lòng người; nhưng với Sađaep mùa muân này, mùa xuân thứ bốn lăm của đời anh, có cái vẻ quá quắt của một thiên nhiên đang phát điên. Lấy từ trong ngực áo ra lá thư của vợ, một lá thư mà vì nó anh đã rời bỏ huyện lỵ sớm cưỡng lại mọi tiếng nói của lương tri, một lần nữa anh cố lần dò theo những dòng chữ nguệch ngoạc chất đầy lo âu của nó. “Chồng yêu quý của em” anh đọc chủ yếu bằng trí nhớ, “Em héo hon gầy mòn xơ xác vì buồn khổ… Chồng yêu quý của em, ngày nào em cũng khóc… Chồng yêu quý của em, em không biết phải làm sao cho qua ngày giờ… Chồng yêu quý của em, chúng ta…”  Những từ ngữ khôn khéo lao xao trong gió và quất vào Sađaep bằng tiếng cười vui vẻ độc ác. Với một sức mạnh như thế anh quất con lừa bằng ngọn roi và con vật thở phì phì một cách khốn khổ trên con đường mòn chán ngắt. 

Cả đời anh, anh toàn gặp vận may khiến người đời phải ganh tỵ. Trong cái năm trước khi anh được gọi nhập ngũ, anh đã cưới Katêrinka, một cô gái lúc nào cũng vui cười; cái vui vẻ trẻ trung của Katêrinka không hề giảm đi khi về ngôi nhà cổ lỗ kẽo kẹt của anh, nơi mà mỗi mùa xuân chim sáo không ngừng hót líu lo bên cửa sổ. Mặc dầu có mọi thứ để chinh phục cuộc sống, Sađaep chỉ thiếu mỗi khả năng cười; nhưng ngay cả sự bất công ấy của tạo hóa cũng mang đến thuận lợi cho anh: người ta sợ anh. Chiến tranh đã chừa cái thân anh, một thân thể cao ráo đỏ đắn trông như một cây thông đứng thẳng trên nền trời hoàng hôn, anh trở về nguyên lành, chỉ bị xây xát nhỏ. Nhưng bỗng nhiên những bất hạnh vụn vặt tầm thường như những con chuột nhắt, bắt đầu gậm nhấm anh. Anh vật lộn với nó suốt năm, tức điên lên, nhưng lũ nó cứ xông vào gặm cái gia tài có tiếng của anh. Vào những ngày tạm hưu chiến, anh cay đắng nhìn lại bản thân mà không sao tìm ra đâu là nguyên nhân khiến anh khánh kiệt. Chỉ đến lúc này, rơi vào sự trừng phạt cuối cùng của số phận, anh mới nhớ lại một cuộc phiêu lưu ở ngoài mặt trận ..và mặc dầu một người mujich thì không xấu hổ về bất kỳ tội lỗi nào được bọc trong áo lính, hồi tưởng này thiêu đốt và cắn rứt anh tận tâm can, không cách nào dứt bỏ được nó.

Vào lúc chiến tranh tạm lắng trung đoàn vô danh của anh kiệt quệ dưới ánh mặt trời phương nam. Ở đó Sađaep lấy một phụ nữ Mônđavi, một người nông dân giống như anh. Cô ấy cũng dịu dàng như Katêrinka của anh, và thật lạ, cô cũng mang cái tên ấy. Cô ta ốm o héo hắt vì mong nhớ chồng đang mòn mỏi trong tù. Cô ta là món hấp dẫn đối với sức lực miền Bắc tràn trề không ngơi nghỉ của Sađaep. Suốt ngày đêm anh ở trong ngôi nhà nhỏ dưới rặng keo của cô, anh ăn gà của cô uống rượu của cô và thường xuyên tán về cái duyên ngầm của cô gái Mônđavi bé nhỏ này với đám bạn. Tình yêu Mônđavi của cô mang lại cho anh niềm vui tạm bợ. Sađaep rời bỏ cô mà không hề tiếc nuối, và những dòng nước mắt của người thiếu phụ đã che không cho cô thấy rằng, cùng với hạnh phúc ngắn ngủi của cô, anh ta mang theo về phương bắc chiếc máy khâu của cô mà anh mê thích trong những giờ phút âu yếm của hai người. Sađaep vẫn không thể nào quên trong mười bảy ngày khắc nghiệt ấy anh đã di chuyển trên tàu hỏa như thế nào, trong giấc ngủ lơ mơ của người bệnh thương hàn, vẫn kẹp chặt lấy vật báu ăn trộm được giữa hai đầu gối. Đối với anh, nó trở nên thân thiết hơn bánh mì hay cuộc sống, bởi vì anh đang mang nó về làm quà cho Katêrinka miền bắc của anh, người mà anh quyết định coi là nền tảng của cái hạnh phúc đẹp như mơ của anh. Nhưng vào một buổi tối, lúc trâu bò về chuồng, anh bước vào đến cổng nhà anh, đói khát và nhễ nhại mồ hôi, lắc lư dưới sức nặng của món quà yêu dấu, thì Katêrinka bắt đầu khóc. Sađaep dừng lại, bằng đôi mắt mờ đục anh nhìn người đàn bà đang khóc, và bộ râu của anh biến thành lửa, như thể anh đang mang trong người dòng máu của ai khác từ chiến tranh về.

Bệnh tật và sự thức tỉnh trước cuộc sống đã mang lại cho anh những kho báu lạ lùng, mà từ trước đến nay vẫn ở bên ngoài lối sống nhạt nhẽo của anh. Anh nhìn với đôi mắt phù thủy mọi thứ xung quanh anh, và, bằng một cách không-mujich, anh mê thích ngắm nhìn mọi thứ, từ  con muỗi đang bay đến cái cây đang mọc; tuy nhiên, người mujich trong anh đã chiến thắng con người. Suốt mùa đông anh làm việc cật lực để khôi phục lại cái trại đã đổ nát, dọn dẹp vườn tược và dựng nhiều tổ sáo đá trước nhà, như cố tìm cách nhử hạnh phúc vào trong ngôi nhà tường đã mọc rêu. Nhưng lũ sáo đá không bao giờ đến ở, những cây táo bị sâu, và tính vui cười của Katêrinka bay đi cùng với tuyết. Rồi anh lo lắng chờ đợi những đứa con, nhưng cho dù đã có lần anh mơ thấy có đàn con lúc nhúc, rốt cuộc vẫn không có đứa con nào. Katêrinka thường chạy sang chơi các nhà hàng xóm, trông nàng có lẽ còn già hơn cả bà mẹ nàng. Nhưng một hôm nàng từ nơi đánh đống cỏ khô trở về trông rạng rỡ và trẻ trung; nàng lặng im buồn bã ngồi bên cửa sổ cả buổi tối. Ban đêm khi trâu bò gia súc trong nhà ngủ cả, Katêrinka bắt đầu cười trong mơ. Từ trên nóc lò sưởi bước xuống, Sađaep sa sầm mặt đứng quan sát nàng; được chiếu sáng bởi ánh trăng rọi qua khe cửa, nàng đang quằn quại lật mình trên giường. Dù cho Sađaep săm soi đến đâu qua khe hở nhìn vào bí mật của Katêrinka, đêm ấy anh cũng không tìm thấy điều gì. Xung quanh tất cả đều vắng lặng, thậm chí không có lấy một cơn gió nhẹ bên ngoài cửa sổ.

Hết mưa thì đến nắng, và nụ cười đã mất trở lại ngôi nhà. Một mình với những ý nghĩ riêng tư, Katêrinka hát những bài hát cũ của các cô gái trẻ, và mặc dầu nàng không giữ được giọng ca đến cuối bài, chồng nàng cũng hứng chí ở mỗi chỗ nàng chuyển tông. Niềm vui lại tràn ngập căn nhà kẽo kẹt này, chim véo von hót trên cây, như thể chúng được mua về để hót. Sađaep ngủ ngon lành như ngọn núi, được gió ru, và chỉ với bức thư cuối cùng này của vợ, dấu vết của một hạnh phúc khác mới đánh thức anh khỏi trạng thái lờ đờ nặng nề. Bỏ dở công việc trên thị trấn huyện lỵ liên quan đến một món nợ, anh quay về nhà, giống như về một nấm mồ không tránh khỏi.

Người chủ quán đã báo trước sự thật, ngay cả những con chó cũng chạy biến đi hết. Không có ai chào hỏi người chủ. Buộc lừa vào hàng rào, Sađaep chăm chú nhìn vào các lỗ cửa sổ gọi mãi không thấy ai trả lời. Một trụ băng dưới mái hiên nhỏ những giọt buồn bã, Sađaep giận dữ quất nó bằng roi da, và tiếp tục đợi, nhưng vợ anh không có đó. Rồi một thằng bé đang bơi thuyền trên mặt ao tan băng kêu lên với anh rằng Katêrinka đang ở khu định cư mới với Seryogia. Sađaep đóng cửa chớp lại và nhìn quanh: con lừa cái nhà hàng xóm đi tìm đực, đang cọ mình vào một thân cây, và hai bà già bên giếng nước trân trân nhìn anh với nỗi bối rối của anh.

Thế rồi, mình mặc chiếc caftan và cầm theo chiếc roi, Sađaep lên đường đến khu định cư mới, và một lần nữa hai bàn tay anh lại giơ ra phía trước, như thể sẵn sàng làm điều gì thật độc ác.

Khi đi qua khu đất nhà thờ, anh cố tìm trong Seryogia đức tính gì đã cám dỗ được Katêrinka phản bội anh. Hắn là một kẻ chơi bời phóng đãng, mơ tái cơ cấu nền kinh tế mujich để cho những quả táo bằng vàng có thể mọc ra từ một mảnh vườn chung. Vì sự phi lý đó hắn đã bị trừng phạt bằng lao động trong ủy ban hành chính huyện. Hắn sống cùng với người anh góa vợ, hai anh em chăng dây đồng lên các cột khắp xung quanh nhà. Những buổi tối mùa đông, bọn thanh niên thường tụ tập ở đó dán mắt nhìn và gật gù kính nể chiếc máy thu thanh tự tạo khi Seryogia lắng nghe những chuyện chưa ai từng nghe…Gần đến nơi, Sađaep nhếch mép cười khẩy và nghiêng nghiêng đầu nhìn ráng chiều tà đang nhuộm đỏ các lùm cây. Các bà già chen chúc trước cổng. Khi đi qua trước mặt Sađaep, ánh nhìn thù hằn trong con mắt họ còn đe dọa dữ dằn hơn cả chiếc roi da Sađaep cầm trong tay. Không có ai trong số họ dám theo chân anh vào trong bóng tối dày đặc phía trong cổng.

Đầu tiên trong tầm mắt của Sađaep chỉ có những vành tím tròn xoay nhún nhảy, nhưng trái tim anh đã đánh hơi thấy sự có mặt tội lỗi của Katerrinka. Sự im lặng không báo trước điều gì tốt lành, và anh nghi ngờ đổi từ chân nọ sang chân kia, không hoàn toàn cả quyết đi ngay vào bất hạnh của người khác. Nhưng điềm báo của anh quả không sai: từ sáng sớm, Seriogia bị một thân cây đổ rơi trúng, và bây giờ nằm trên một chiếc ghế dài giữa túp lều, hắn đang hấp hối. Gương mặt vàng khè của hắn trên chiếc gối bóng lên trong suốt, như có một ánh nến rọi vào. Hắn nằm bất động nhưng trong cơ thể vẫn có những dòng chảy li ti hối hả, và môi hắn hé ra thành một nụ cười khát khao đau đớn. Để làm dịu đi cơn đau của hắn, người ta đã đặt dưới tai hắn chiếc máy thu thanh nhỏ, và chỉ mình nó là còn vẻ sống động với một lóe sáng lạnh lẽo trong bóng tối của căn lều. Sađaep trông thấy vợ. Quỳ sát bên hắn, Katêrinka thương xót nhìn đăm đắm khuôn mặt người yêu và lặp lại từng cử động của hắn như thể chính nàng đang nghe thấy điều đã làm cho Seryogia  nở nụ cười cuối cùng.

Cuộc gặp gỡ lạ thường này đã tiếp diễn từ sáng sớm, và ngay cả Sađaep cũng không dám làm cho nó gián đoạn. Anh ho, và Katêrinka ngẩng lên nhìn quanh. Một làn gió lướt qua trên khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nàng, nàng hình như không nhận thấy chiếc roi da trong tay chồng. Nóng rực lên vì hơi ấm bàn tay nắm chặt của Sađaep, ngọn roi quằn quại cựa quậy, và phải cố gắng Sađaep mới kìm lại được chuyển động tàn độc của nó. Đôi mắt cụp xuống, Sađaep bước đến đầu giường kẻ tình địch của mình không bị gì cản lại.

“Thế nào, tao thấy mày không còn chạy rông như chó dái được nữa rồi thì phải?” Anh hỏi một cách cay đắng, mở lượng tha thứ cho kẻ không còn cần đến nó nữa. Seryogia cựa quậy, và với cánh tay run rẩy, bị cào tướp, hắn kéo mảnh chăn da cừu lên che đôi chân bị dập nát.

“Lạnh hả? Trong khi mày còn sống thì mọi thứ đều lạnh giá; nó sẽ trở nên ấm áp khi mày qua thế giới bên kia” Sađaep nói thêm một cách lạnh lùng và trịnh trọng, và – ngạc nhiên bởi cái sức mạnh nó khiến anh điềm tĩnh đến thế – anh giúp Seryogia kéo tấm chăn lên.

“Xin anh đừng nói chết chóc làm anh ấy sợ, anh ấy đã khốn khổ lắm rồi” Katêrinka thốt lên, một luồng hơi ớn lạnh phả ra từ mặt nàng khiến Sađaep im tiếng, rồi không hề sợ hãi, nàng đau đớn ép chặt thân nàng vào cái xác còn chưa được khóc thương đúng mức, như thể chỉ có nàng ở đó một mình với hắn.

Seryogia thì hình như đang ngủ, chiếc radio rơi khỏi má hắn. Sađaep lén nhặt nó lên và áp nó vào tai mình. Một âm thanh trống rỗng ngèn nghẹt vang lên, và phải gắng hết sức tập trung toàn bộ tâm trí anh mới có thể phân biệt được tiếng kèn co than thở, nó lượn vòng, kéo dài và  uyển chuyển giống như những tiếng thở dài. Tiếng nhạc đến với anh từ nơi xa xăm và bí mật, như thể vượt qua hàng trăm cánh cửa đóng kín; nhưng trong đó vẫn lộ rõ bí mật của Katêrinka, rõ ràng hơn trong cái đêm bão tố ấy nhiều. Như một phản xạ mê tín, anh giật tay ra và liếc vội xung quanh: không có ai đang nhìn anh, và một lần nữa, toát cả mồ hôi và đỏ bừng cả người, anh lại lén lút nghe cái thế giới đầy quyến rũ và kinh khủng của Seryogia. Bản nhạc thay đổi, và một giọng người rì rầm bóng gió, tra tấn Sađaep về chuyện những đứa con mà dù cầu nguyện bao nhiêu đi nữa, số phận vẫn không chịu ban cho anh. Nó tra tấn anh về chuyện những con ngưạ, niềm đam mê xưa cũ và không thể  nào bỏ được của anh, chỉ nghĩ đến nó là mặt anh lạnh buốt. Nó tra tấn anh về mọi thứ thân thiết nhất với một người đàn ông sống trên đời. Lắc đầu như thể né tránh cảnh hạnh phúc gần gũi mê hồn, anh lao ra khỏi căn lều. Ra đến cổng, anh va phải ông bác sĩ mà người anh của Seryogia mời đến. Đến tận khuya, các bà già mới đưa Katerrinka về nhà và để nàng đứng lại trước cửa. Từ trên bếp lò Sađaep trông thấy hai tay nàng quờ quạng trong đau đớn, nàng nặng nề lần vào đến giường. Lòng đầy u uất vì yêu và hận thù, Sađaep trèo xuống khỏi lò sưởi và đến ngồi bên nàng.

Trong nỗi sợ đã chai lỳ, nàng sửa soạn để sẵn sàng chịu trận, Katêrinka nhìn chằm chằm vào gương mặt méo xẹo vì giận dữ của chồng. Lúc này, gần như không dám thở, anh nghiêng xuống và ôm lấy vai nàng.

“Em bé bỏng, tội nghiệp của tôi” anh thầm thì, hết sức khổ sở vì không tìm được lời nào âu yếm dịu dàng hơn.

Nàng chậm rãi lết vào góc, nhưng khi mớ râu dài đỏ quạch của anh vừa quết vào má nàng, nàng giật phắt ra khỏi anh và gào to lên như thể bị bỏng. Bị giáng đòn bất ngờ vì tiếng thét của Katêrinka, Sađaep bối rối đi đi lại lại ở khoảng giữa căn nhà, và, thêm một lần nữa hòn than hồng của lòng khoan dung vẫn ủ lâu trong lòng chưa dùng đến lại rực lên  trong anh. Anh run rẩy bước tới lò sưởi. Vì suốt ngày qua nó chưa được đốt lên, nên lúc này nó lạnh giá và cái giá lạnh thấm vào những hình ảnh tưởng tượng thưa thớt và hoang dại của anh trong giấc ngủ mơ màng. Trong những giâc mơ khủng khiếp ấy có hình ảnh cô gái Mônđavi. Nàng đang vẫy tay ra hiệu chào biệt Sađaep và từ những bàn tay của nàng  thoát ra những âm thanh quyến rũ. Vào lúc trời sắp sắng, trong căn nhà nhỏ không khí rất ẩm ướt. Những bông tuyết tệ hại bắt đầu rơi bên ngoài cửa sổ. Katêrinka đã đi rồi. Sađaep ngồi trên ghế dài, nghe tiếng gì đó rền rĩ dưới lòng đất, rồi anh bước ra vườn, nhưng ở ngoài đó còn khó chịu hơn, nên anh lại vào nhà. Đúng lúc đó, ông chủ tịch Sôrôkin bước vào, mang theo tờ thông báo xử phạt về khoản nợ mà anh chưa chịu trả.

Lùn tịt và huênh hoang như một con chồn hôi, lão mujich này chưa bao giờ được Sađaep ưa. Lúc nào cũng thấy lão hối hả đi đâu đó và hổn hà hổn hển, như thể đang thi hành một nhiệm vụ độc ác nào đó. Lão đặt bản thông báo lên bàn trước mặt Sađaep và ra lệnh cho anh ký vào.

“Tôi chỉ biết đọc chữ in, nhưng không biết viết” Sađaep nói đơn giản.

“Cứ đánh dấu X vào đây coi như anh đã đọc, rồi ngày mai chúng tôi sẽ điền vào” Sôrôkin nói bằng giọng cáu kỉnh.

Hai đôi mắt gặp nhau, và cả hai quay đi như thể người này bắt gặp người kia đang nói dối.

“Tôi đang gặp rắc rối, ông Sôrôkin ạ” chủ nhà thú nhận giọng mờ đục “Thằng Seryogia đã mò vào giường nhà tôi”

“Thế thì có gì lạ?” ông khách lạnh lùng trả lời, thậm chí chẳng thèm đưa đẩy câu chuyện nóng bỏng này bằng một lời bịa đặt tầm phào nhất.

“Katêrinka là vợ tôi… tôi đã  ăn ở với cô ấy mười một năm nay!” Sađaep hét lên, không hiểu sao tự đập vào cổ mình; khi làm thế, bộ râu của anh bắt đầu phừng phừng lên như một bụi cây khô bén lửa.

“Vậy thì sao?” vị khách trả lời, thậm chí còn thờ ơ hơn khi gã vuốt lại cho thẳng các mép quăn của tờ thông báo.

“Tôi yêu cô ấy…” Sađaep cẩn thận nhả ra từng chữ, bằng đủ cách cố làm mủi lòng tay quan liêu này.

Sôrôkin đứng dậy.

“Anh đang nói gì thế, bất hạnh à! Anh gặp vận may thì có. Tay Seryogia chết sáng nay rồi. Bây giờ mọi việc đều ổn” Lão nói với nét mặt độc ác và chán ngấy. Vừa quay đi lão vừa dùng mấy đầu ngón tay gõ lên bậu cửa sổ như gõ trống.

Sađaep ngồi cúi gằm xuống tờ thông báo; tờ giấy sột soạt nhè nhẹ theo hơi thở của anh. Vào cái lúc anh biết tin Seriogia chết, một niềm hân hoan mãnh liệt bùng nổ trong anh, nhưng ngay lập tức anh hình dung ra điều gì sẽ đến – trước hết Katêrinka bị nỗi đau đớn hạ gục, và điều ấy phần nào làm giảm bớt nỗi căm ghét và ghen tuông của anh. Trong trí tưởng tượng bấn loạn của anh, bản thông báo to dần lên, to bằng cả mặt bàn, và cứ to lên mãi; nó giận dữ dựng đứng lên, nó xông vào đánh và bóp cổ anh…Tuân theo một sức mạnh cưỡng bức kỳ lạ, Sađaep vội vã vò nhàu tờ giấy, và bất ngờ bỏ tọt nó vào mồm và chậm rãi nhai cái món ăn bắt buộc và phát ớn này ngay trước mặt ông chủ tích mặt tái nhợt. Rồi sau khi đã nuốt, anh đưa cặp mắt trống rỗng ngó nhìn Sôrôkin, lão ta lúc này trông cực kỳ bé nhỏ.

“Anh sẽ phải trả lời chuyện này” ông khách nói sau một lúc bối rối. Lão lúng túng một lúc lâu cài các cúc áo khoác và đội mũ lên đầu, như thể nấn ná chờ sự hối lỗi cho sự nhục mạ vừa rồi.

“Ông tưởng ông ghê gớm, nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn” anh nói với theo lão ta.

Sau khi Sôrôkin đi khỏi, Sađaep lôi chiếc túi ra và bắt đầu chuẩn bị để lên đường. Trong khi chuẩn bị, anh làm vỡ một chiếc đĩa sứ, và mặc dầu không hề vội vàng, anh cũng không thu dọn các mảnh vỡ. Mặc quần áo xong, anh bước qua mảnh sân ra ngoài đường. Chẳng có gì níu giữ anh ở lại cái ngôi mồ của tình thương bị phản bội này. Hơi ấm của mặt trời bao bọc lấy con người buồn nản ra đi, nhưng dù không có nó thì anh cũng không cảm thấy lạnh lẽo, vì cơn điên giận vẫn còn đang ngùn ngụt trong người anh. Anh dừng lại trước cổng vườn huýt gió gọi mấy con chó đang ngồi bên giếng nước. Chúng vẫy đuôi và vặn vẹo mình một cách khó chịu, nhưng vẫn ngồi. Anh gọi tên chúng, bực bội vỗ mạnh đầu gối, nhưng một con chó quay lưng lại phía anh, còn con kia làm bộ như đang chăm chú nhìn một con rệp bò trên một thân cây mới đốn. Sađaep bỏ đi thẳng.

Đầu tiên anh hướng tới nhà bà chị góa chồng ở huyện bên và xin vào ở nhờ như một người làm công. Chị anh, tóc cũng đỏ quạch như tất cả dòng họ Sađaep, tóc đỏ và dáng vóc cóc cáy vì nghèo túng, gắt ầm ĩ một hồi, nhưng gắt mắng xong lại mang đến cho anh một bát xúp và chỉ cho anh một chỗ nằm chung với bầy con gày guộc của chị. Anh qua một tháng vô gia cư đầu tiên ở đây, cày đất và cầu nguyện ông Chúa mujich của anh giải thoát cho anh khỏi vô vàn những âu lo vô ích. Nhưng rồi một tờ trát đến, gọi anh ra tòa, và Sađaep biến đi phương nào không rõ.

Bây giờ những con đường mở ra trước mặt anh, và anh đến Parôsyatnhikavơ đúng vào mùa cắt cỏ. Siêng năng cần mẫn trong cương vị mới, anh hoàn toàn vừa lòng với đồng tiền công còm cõi mà chủ thí cho. Nhưng rồi một hôm anh vừa ra đến đồng cỏ đang phát cỏ như những người khác thì một người thư ký lù lù hiện ra với một tờ giấy đòi Sađaep. Công việc đang bộn bề giữa mùa thời tiết tuyệt đẹp, nên không có ai để áp giải kẻ tội phạm. Do đó người ta cho con bé Aksiusha mười tuổi đi hộ tống anh năm dặm lên hầu tòa. Lần đầu tiên trong đời, Sađaep bắt đầu cười, anh nắm lấy tay con bé và thẳng hướng lên đường.

Họ ra đi lúc trời còn sương. Gần trưa, một đám mây hồng rực rỡ bồng bềnh trên bầu trời xanh thẳm bỗng chuyển thành cơn giận dữ không sao tả nổi ầm oàng và trải dài mãi ra. Sađaep và Aksiusha  chỉ còn kịp chạy vội đến trú dưới một cây thông trong một cái trảng trước khi cơn mưa như trút đổ xuống những cánh đồng khô bụi. Con bé sợ sấm chớp, nó ép chặt người vào thân cây và run rẩy, nhưng nó không lúc nào buông tay Sađaep ra.  Rồi, lấy thân người che cho Aksiusha  khỏi làn nước, anh bắt đầu kể cho nó nghe những câu chuyện mà mẹ anh đã từng kể cho anh để quãng đời thơ ấu buồn thảm của anh sáng sủa lên đôi chút. Anh kể về những con quỷ lông lá và ngu ngốc gây ra những mối bất hòa, những mụ phù thủy và những nhà thông thái chột mắt, và trong số những con  ma vô hại mà người ta đã nhẵn mặt, chính Ilya là kẻ nắm giữ sấm sét trong tay như nắm giữ những con chim ưng. Sađaep chưa bao giờ kể như thế này cho ai, giọng anh đan xen với tiếng răng rắc trong rừng, và ý nghĩa của câu chuyện anh kể khớp với tiếng sấm và câu chuyện kể hung dữ của cơn dông tố. Aksiusha chăm chú nghe câu chuyện hoang dại của Sađaep hơn là những tiếng gầm khủng khiếp từ những đám mây dông. 

Rồi mặt trời lại bắt đầu trải lên cánh đồng một dải lụa rộng màu xanh biếc, chạm đến cả đôi chân trần của Aksiusha. Mưa ngừng rơi, những giọt còn đọng trên các cành và bay trong không khí long lanh; trong đám cỏ dưới chân họ một con châu chấu không sợ bị người ta dẫm lên, bắt đầu vui vẻ cất tiếng…và chỉ còn ở nơi rất xa, dưới cầu vồng, một cái bụng tối tăm và chưa được thỏa mãn vẫn còn sôi ùng ục.

“Thế nào, chúng ta đi chứ?” Con bé ranh mãnh liếc nhìn anh từ một bên và, nhớ lại lời khuyên răn vui đùa của những người lớn, với đầy tinh thần trách nhiệm, nó kéo tay Sađaep lên đường. Suốt quãng đường lên đến huyện lỵ, anh không trao đổi với con bé – kẻ áp giải không thể mua chuộc của anh – thêm một lời nào nữa, như thể mối nguy hiểm của cơn dông vừa qua không hề làm hai người xích lại gần nhau chút nào.

   Trước rạng đông anh trốn khỏi nhà giam huyện, và một tuần sau anh làm việc như một người gác rừng.

Các vùng miền nam đang trở thành đồi trọc cả, vì trong lãnh thổ của Sađaep dưới mỗi cây đều có một tên lâm tặc. Bọn lâm tặc này hung dữ ghê gớm trong việc bảo vệ cái quyền cướp rừng của chúng. Chúng tóm cổ người tiền nhiệm của Sađaep, thọc một cái sào qua các ống tay áo của anh ta, và tống anh ta đi lang thang ngang dọc khắp khu rừng. Khu rừng này vốn là một khu rừng rậm, hoang, từ thời xưa đã mang tiếng dữ vì những lời đồn đại rằng đến mùa thu, những hòn đá trong rừng thì ca hát, và những cây thông thì chạy từ chỗ này sang chỗ khác. Không có ai sống trong rừng, nên Sađaep nhận lấy chỗ trống. Sađaep đã làm cho người ta sợ vì bộ dạng quái đản của anh. Những kẻ ăn cắp vặt chắc sẽ không có việc làm và con cái chúng không có gì để ăn nếu không có chuyện xảy ra là một buổi tối khi anh đang ngồi chân trần bên một con mương ngắm nhìn lũ cung quăng bơi lượn trong nước, thì một bụi rậm rẽ ra và từ đó bước ra một anh dân quân mặc đồng phục mang theo một tờ lệnh bắt Sađaep. Sađaep cười và đi vào trong trạm gác để đi giày. Khi người dân quân nóng ruột đi theo anh vào, thì thấy trong trạm gác không có ai ngoài một con cú mà Sađaep đã thương hại mang từ trong rừng về hôm trước. Con cú đứng trên bàn và nhìn trừng trừng vị đại diện nhà nước, anh ta chùn lại choáng váng vì sự xúc phạm này. Sađaep đã tan biến trong bóng tối của rừng sâu.

Đây, đêm đầu tiên của cuộc đời lang thang của anh trôi qua trên một chồng gỗ. Đánh thức anh dậy là một con gián chui vào lỗ mũi nở rộng của anh. Một con chim lao như tên bắn trong không trung, và một loại chim gõ kiến đầu đỏ đã chán gõ vào thân cây, đang chăm chú quan sát vị khách mới đến. Sađaep nhớ lại sự việc ngày hôm trước và phá ra cười những con người kỳ cục cứ viết mãi về tội lỗi của anh mà không biết chán. Nhưng tội lỗi vốn thích kéo bè kéo cánh. Ngoài cái tội liên quan đến món nợ chưa trả, và ăn một cách trái phép tờ thông báo, nay lại thêm tội không chịu trình diện trước tòa án; và khi đã bỏ chạy và lẩn trốn như thế này, thì rõ ràng anh đã vĩnh viễn tự tách mình ra khỏi thế giới. Thế là kẻ lang thang ra đời.

Anh ta không còn  ở nơi nào nhất định, mà liên tục di chuyển. Anh cứ đi, và người ta cứ viết. Không ai quan tâm đến bản thân Sađaep, người ta chỉ quan tâm đến những tội lỗi của anh. Lâu lâu, chán với cảnh trơ trọi một mình một bóng vô cồng rồi nghề, anh kiếm một công việc; mùa hè thì chăn cừu, mùa đông thì làm một chân bưu tá trong huyện, mùa xuân anh đóng bè gỗ, và mùa thu tôi gặp anh trên sông nơi tôi đi tìm thứ cỏ diệu kỳ của tuổi thơ mà tôi không biết tên. Có lẽ tôi cũng bị cám dỗ bởi tiếng đập nước kỳ thú. Từ ngọn đồi nhỏ đi xuống, tôi gặp Sađaep; khi anh ta gắng sức làm điều gì trông anh ta như một người phù thủy. Anh đang nằm trên bè gỗ một tay giữ một khúc gỗ và tay kia cầm chiếc môi gỗ hình thù kỳ dị, lâu lâu lại đập chúng xuống nước. Nửa giờ sau khi chúng tôi đã thăm dò đủ về nhau và anh đã tin rằng tôi không có ý định thi hành pháp luật đối với anh, trong lúc mổ mẻ cá mới câu được, anh cười giải thích với tôi cách anh tìm bắt cá trê. Trong những ngày yên lặng, tiếng đập nước của anh vang đi rất xa. Lũ cá trê tò mò về loại tiếng động này kéo nhau đến gần, và giống như chịu một hình phạt về tội tò mò, chúng kéo nhau vào nằm trong nồi xúp của Sađaep.

Chúng tôi ngồi bên đống lửa. Trên bờ sông dốc đứng che phủ bởi những cây anh đào, cây dương tươi tốt, mùa hè đỏ ối buồn bã đang ở vào đoạn cuối cùng tàn tạ của nó. Khói làm  cay mắt tôi, và chả biết cái gì cứ bắt tôi phải liên tục ném cành cây khô vào lửa. Trong cuộc trò chuyện cực kỳ kiệm lời, Sađaep không nói một lời nào về người đàn bà Mônđavi của anh, nhưng tôi thấy dường như anh luôn nghĩ về chị ta, và một ngày nào đó, trang trọng và hiền lành, anh bước vào sân nhà chị trong khi chồng chị đang điên cuồng chửi bới một con lợn. Anh đứng đó một lúc, khiến người chồng cảnh giác chú ý, rồi anh bỏ đi mãi mãi. Tuy nhiên Sađaep không hề xác nhận những hình ảnh phỏng đoán ấy của tôi.

“Một năm nữa, tôi sẽ thành quỷ hoàn toàn, một con quỷ thật sự!” người lang thang nói một cách nặng nhọc, và tôi có cảm tưởng anh đã là thế rồi – hiện thân của một thành kiến mọc sừng. “Một con quỷ, thật đấy! Cậu có thể bước đi xuyên qua người nó, còn nó chỉ cười…”

Nồi cá đã chín, nhưng chỉ có một chiếc thìa. Tôi lên đường, tuy chưa tìm thấy lá cỏ của mình. Ngày trở nên mờ tối, cây cối trông buồn bã, con đường tím ngát màu hoa tử đinh hương, và các cánh đồng đầm đìa ướt. Tôi thấy dường như tôi không nghi ngờ gì về chuyện tôi sẽ gặp một người cưỡi ngựa phóng ngang qua tôi, tay giơ cao tờ giấy về Sađaep, trong đó chỉ thị khâu bó anh ta vào một chiếc chiếu và gửi anh về huyện để thẩm vấn. Lúc đó, tôi hầu như tin vào cái truyền thuyết của người mujich về một con gấu, rằng trước mắt kẻ chứng kiến, gần mép rừng, nó đi ra, cúi chào cái cây mà nó đã sống trong đó cả đời, rồi cứ thế đi mãi vào rừng sâu âm u không bao giờ quay trở lại.

Read Full Post »

Phá

Truyện ngắn của JOSEPH CONRAD

Hiếu Tân dịch

.

Joseph Conrad (Józef Teodor Konrad Korzeniowski) nhà văn Anh gốc Ba lan (1857- 1924). Tác phẩm chính: Chiến thắng (Victory, 1915) Lord Jim, 1900, Tên mật vụ (The Secret Agent, 1907) Một kẻ bị ruồng bỏ (An Outcast of the Islands, 1896), Cuộc đọ kiếm (The Duel), Heart of Darkness, 1899, (Nostromo,1904)

Conrad được coi là một trong những nhà văn viết tiếng Anh hay nhất, là người có phong cách văn xuôi bậc thầy đã đưa những xúc cảm bi kịch của những xứ sở ngoài Anh vào văn chương Anh.

ND

***

Người đàn ông da trắng tì cả hai khuỷu tay lên mui ở khoang đuôi thuyền, nói với ông lái:

“Chúng ta sẽ nghỉ qua đêm ở ngôi nhà của Arsat trong khoảng rừng trống. Bây giờ muộn mất rồi”

Người Mã lai chỉ lầm bầm điều gì không rõ và tiếp tục nhìn cắm xuống dòng sông. Người da trắng tỳ cằm lên hai cánh tay khoanh đặt trên mui thuyền và đăm đăm nhìn luồng nước rẽ trôi phía sau thuyền. Ở cuối con đường thẳng trong rừng bị cắt ngang bởi ánh lấp lánh gay gắt của sông, mặt trời hiện ra chói lòa giữa bầu trời quang đãng, lơ lửng trên dòng nước phẳng lừ sáng loáng như một giải kim loại. Những cánh rừng âm u xám xịt đứng im lặng bất động hai bên dòng nước rộng. Dưới gốc những cây to cao chót vót, những cây cọ nipa không thân mọc lên từ bùn bên bờ thành những cụm lá to rộng rậm rạp, che trên những xoáy nước màu nâu cuồn cuộn. Trong không khí im lìm từng thân cây từng chiếc lá, từng cành, từng tua của những cây leo, từng cánh của những bụi hoa nhỏ xíu.. dường như đang mê đi trong một cảnh bất động hoàn toàn và cuối cùng. Không vật gì động đậy trên mặt sông ngoài tám mái chèo nhịp nhàng khỏa lên xuống làm nước bắn tóe; trong khi ông lái mạnh mẽ và đột ngột vung tay chèo đều đặn sang phải sang trái vạch thành những đường bán nguyệt lóe sáng trên đầu ông. Nước bị khuấy tung bọt trắng trong tiếng kêu róc rách. Và chiếc thuyền chở người đàn ông da trắng, bơi ngược dòng sông trong sự náo động ngắn ngủi do nó tạo ra, dường như đang tiến vào một xứ sở mà ngay cả ký ức về chuyển động cũng đã bị phai mờ vĩnh viễn.

Người đàn ông da trắng, lưng quay về phía mặt trời đang lặn, ngắm nhìn khoảng trống trải mênh mông phía cửa biển. Trong ba dặm cuối cùng của nó, con sông đang ngập ngừng và lờ lững bỗng như không cưỡng nổi sự dụ dỗ từ vẻ phóng khoáng của một chân trời rộng mở, lao thẳng ra biển, lao thẳng hướng đông – cái phương đông neo đậu cả ánh sáng và bóng tối. Đằng sau thuyền, một nghịch âm mơ hồ không rõ rệt, như tiếng kêu liên hồi của loài chim, nhảy cóc trên mặt nước êm và mất hút trong cái im lìm như nín thở của cảnh vật, trước khi vào được đến bờ.

Ông lái dấn mái chèo xuống dòng nước, và giữ nó bằng cánh tay cường tráng, thân người ông nhao về phía trước. Tiếng nước réo ùng ục, và khúc sông đang thẳng bỗng nhiên như xoay đi quanh tâm của nó, những cánh rừng đu đưa nửa vòng và ánh tà dương chiếu chếch mạn thuyền bừng lên rực rỡ, in những bóng người mỏng manh và vặn vẹo trên thuyền thành những vệt dài lên mặt nước sông lấp loáng. Người da trắng quay lại nhìn lên phía trước. Hướng thuyền đã đổi thành vuông góc với dòng sông, và cái mũi thuyền chạm đầu rồng bây giờ nhằm thẳng vào một khe hẹp trong những bụi cây chằng chịt bên bờ sông. Nó lướt qua, chải qua những cành cây con buông rủ từ trên xuống, và biến mất khỏi dòng sông giống như một loài lưỡng cư mảnh mai dời khỏi mặt nước bò lên hang ổ của chúng ở trong rừng.

– 2 –

Con rạch nhỏ giống như một đường hào: ngoằn ngoèo và sâu một cách khó tin, đầy bóng tối ảm đạm dưới một dải hẹp màu xanh dương trong sáng của bầu trời. Mênh mông cây rừng vươn lên cao ẩn mình sau những diềm hoa của những bụi dây leo. Đó đây, bên bóng đen lấp loáng của mặt nước, những bộ rễ xoắn xuýt của những cây cao hiện ra giữa những mảng dương xỉ, đen và tăm tối, oằn oài và bất động, giống như những con rắn bị tóm giữ. Những lời lẽ cộc lốc của mấy người chèo thuyền bị dội lại vang lên giữa những bức tường thực vật dày đặc và tối xẫm. Bóng tối rỉ ra từ giữa những bóng cây, qua mê lộ rối rắm của những kênh rạch, đằng sau những tán lá lặng tờ hình thù kỳ quái; bóng tối bí mật và không gì thắng nổi, cái bóng tối tỏa hương thơm và độc địa của những cánh rừng dày kín mít.

Những người chèo thuyền dùng sào chống ở đoạn nước nông. Con rạch mở ra thành một giải rộng, một cái phá trì trệ lờ đờ. Những cánh rừng lùi xa khỏi bờ đầm lầy để lại một giải cỏ lau bằng phẳng màu xanh nhạt, đóng khung lấy màu xanh dương được phản chiếu của bầu trời. Một tảng mây xốp màu hồng bồng bềnh trên cao, để hình ảnh với sắc màu thanh nhã của nó trôi dưới những chiếc lá nổi trên mặt nước và những bông hoa sen ánh bạc. Một ngôi nhà nhỏ ngất ngưởng trên những chiếc cột cao hiện ra đen ngòm phía xa. Cạnh nó, hai cây cọ nibong cao vút trông như tách ra khỏi cảnh rừng làm nền phía sau, hơi nghiêng trên mái nhà bờm xờm, những tán lá dày của chúng ngả xuống như che chở, gợi một nét dịu dàng buồn bã.

Ông lái giơ mài chèo lên chỉ: “Arsat có nhà. Tôi trông thấy chiếc thuyền của anh ấy buộc giữa các hàng cột”

Những người chân sào chạy dọc mạn ngảnh nhìn qua vai cái mục tiêu của một ngày hành trình. Nếu có thể được, chắc họ đã muốn nghỉ đêm ở một nơi nào khác chứ không phải trong cái phá nổi tiếng về những chuyện ma quái và huyền hoặc này. Hơn nữa, họ không thích Arsat, trước hết vì anh ta là người lạ, và cũng vì anh ta sửa chữa cái nhà sập sệ này và trú ngụ trong đó, tuyên bố rằng anh ta không sợ sống giữa những hồn ma thường ám những nơi hoang vắng. Một người như thế rất có thể làm chệch đường đi của thần số mệnh bằng những lời lẽ báng bổ hay bất cẩn, trong khi những con ma quen thuộc của hắn không dễ bỏ qua những người khách trọ qua đường này, mà chúng đã nóng lòng chờ đợi từ lâu để trút lên họ những cơn giận hiểm ác đối với người chủ của chúng. Người da trắng không lo sợ những chuyện loại đó, họ là những người không có tín ngưỡng và họ liên kết với Chúa Quỷ, người dẫn họ qua những hiểm nguy vô hình của thế giới mà không bị hại. Trước những lời cảnh báo hợp lý, họ có thái độ tự đắc hoài nghi rất khó chịu. Vậy còn biết làm thế nào với họ?

– 3 –

Họ nghĩ vậy, và đè cả sức nặng thân người lên đầu những con sào. Chiếc thuyền lớn lập tức trườn đi êm ru không một tiếng động, về phía giải đất trống của Arsat, cho đến khi nghe những tiếng lộp cộp của những con sào ném xuống, và những tiếng rì rầm cất lên “Lạy đức Ala!” đó là lúc nó đụng nhẹ vào những cọc gỗ cong queo dưới chân ngôi nhà.

Những người chèo thuyền nghếch mặt lên kêu chói tai: “Arsat! Ơ Arsat!” Không có ai ra. Người da trắng bắt đầu trèo lên chiếc thang thô dẫn lên sàn nứa trước cửa nhà. Người lái thuyền nói giọng bực bội: “Chúng ta sẽ nấu ăn trên thuyền và ngủ trên nước”

“Đưa cái chăn và cái giỏ của tôi đây” Người da trắng nói giọng khô khan. Anh ta quỳ trên sàn để nhận cái bọc. Chiếc thuyền bị đẩy ra, và người da trắng đứng dậy, đối diện với Arsat vừa mới từ chiếc cửa thấp của ngôi nhà chui ra. Đó là một chàng trai trẻ khỏe, với bộ ngực nở và đôi cánh tay cuồn cuộn bắp thịt. Anh không mặc gì ngoài một chiếc xarong, để đầu trần. Đôi mắt to, ôn hòa của anh nhìn người da trắng chằm chằm, hăm hở, nhưng giọng của anh điềm tĩnh khi anh hỏi, mà không cần chào.

“Anh có thuốc không, Tuân[1]?”

“Không” Người da trắng giật mình nói “Không. Nhưng sao, ở đây có người bệnh à?”

“Vào mà xem” Arsat trả lời, vẫn với giọng bình thản và hơi quay người, lại chui qua chiếc cửa nhỏ. Người da trắng bỏ rơi cái bọc của mình, đi theo. Trong bóng tối mờ mờ của chỗ ở, trên một chiếc ghế dài bằng tre, một người phụ nữ nằm ngửa duỗi dài dưới một tấm chăn rộng bằng vải bông đỏ. Cô ta nằm ngay đơ như chết, nhưng đôi mắt to mở rộng lóe lên trong bóng tối, trừng trừng nhìn lên những rui mè gày guộc trên mái nhà, bất động và không thấy gì. Cô ta đang sốt cao và rõ ràng là bất tỉnh. Đôi má hơi trũng xuống, đôi môi hé mở, và trên gương mặt còn trẻ có điềm xấu, cái vẻ cứng đờ, cái vẻ chìm sâu trong vô thức của một người sắp chết. Hai người đàn ông đứng nhìn xuống cô trong im lặng.

“Cô ấy ốm đã lâu chưa?” Người du khách nói.

“Đã năm ngày đêm tôi không ngủ” Người Mã lai nói chậm rãi. “Đầu tiên cô ấy nghe có những tiếng gọi cô ấy từ dưới nước và vùng ra khỏi tôi lúc ấy đang giữ chặt cô ấy. Nhưng hôm nay từ lúc mặt trời lên cô ấy không nghe thấy gì nữa. Không nghe thấy cả tiếng tôi. Cô ấy không nhìn thấy gì nữa. Không nhìn thấy cả tôi”

– 4 –

Anh ta im lặng một lúc, rồi khẽ hỏi:

“Anh Tuân, liệu cô ấy có chết không?”

“Tôi sợ thế” Người da trắng nói buồn rầu. Anh biết Arsat đã nhiều năm nay, ở một nơi xa xôi từ những thời gian rắc rối và nguy hiểm, khi đó người ta không coi nhẹ tình bạn. Và từ khi người bạn Mã lai này của anh bỗng dưng đến ngụ trong túp nhà trên cái phá này với một người đàn bà xa lạ, đã nhiều lần anh ngủ lại ở đây, trong những chuyến đi xuôi ngược trên sông. Anh thích người bạn này, anh ta biết cách giữ trung thành trong hội đồng và biết cách sát cánh bên người bạn da trắng chiến đấu không hề sợ hãi. Anh thích anh ta, có lẽ không nhiều như người ta thích một con chó cưng, nhưng dù sao anh vẫn thích anh ta đủ để giúp đỡ mà không vặn hỏi, để đôi khi giữa những cuộc theo đuổi mục đích của mình, có một thoáng nghĩ về người đàn ông cô độc và người đàn bà tóc dài với bộ mặt gan góc và đôi mắt đắc thắng, họ sống ẩn náu với nhau trong rừng, đơn độc và sợ hãi.

Người da trắng ra khỏi lều đúng lúc để nhìn thấy cảnh mặt trời lặn như một đám cháy lớn bị dập tắt dần bởi những bóng tối mau lẹ và lén lút nổi lên như những đám hơi nước đen mờ phía trên những ngọn cây, trải ra trên bầu trời, phủ mờ ánh đỏ ối của những đám mây trôi và ánh chói lọi của ngày đang dần tắt. Phút chốc tất cả các vì sao hiện ra cao tít phía trên cái nền đen xẫm của đất, và cái phá mênh mông này bỗng nhiên lấp lóa những ánh sáng phản chiếu giống như một mảnh vá hình ôvan của trời đêm ném xuống màn đêm của một vùng hoang vu thăm thẳm và vô vọng. Người da trắng lấy ra từ chiếc giỏ bữa ăn tối, và vơ lấy mấy que củi rải rác trên sàn, nhóm lên một ngọn lửa nhỏ không phải để sưởi mà để có chút khói để xua muỗi. Anh quấn chăn và ngồi tựa lưng vào vách sậy của túp lều, đăm chiêu rít thuốc.

Arsat chui qua cửa bằng những bước chân không gây tiếng động đến ngồi xổm bên đống lửa. Người da trắng hơi động đậy đôi chân duỗi dài.

“Cô ấy thở” Arsat nói bằng giọng trầm, chờ đợi câu hỏi. “Cô ấy thở và người nóng rực như lửa. Cô ấy không nói, không nghe, và nóng rực.”

Anh im lặng một hồi, rồi hỏi bằng giọng khe khẽ và đều đều.

– 5 –

“Tuân… liệu cô ấy có chết không?”

Người da trắng nhún vai khó nhọc và lầm bầm ngập ngừng:

“Nếu đó là số phận của cô ấy”

“Không, Tuân, nếu đó là số phận của tôi” Arsat bình tĩnh nói. “Tôi nhìn, tôi nghe, tôi đợi. Tôi nhớ…Tuân, anh còn nhớ những ngày ấy không? Anh còn nhớ anh tôi không?”

“Có” Người da trắng nói. Người Mã lai bỗng đứng dậy và đi vào. Người còn lại ngồi im bên ngoài, nghe thấy giọng nói bên trong lều. Arsat nói. “Em nghe anh. Nói đi em” Tiếp sau giọng anh là im lặng hoàn toàn. “Ôi, Diamelen!” Anh bỗng kêu lên. Sau tiếng kêu ấy là tiếng thở dài sâu. Arsat lại bước ra và sụm xuống chỗ ngồi ban nãy.

Họ ngồi im trước ngọn lửa. Không có tiếng động bên trong lều, không có tiếng động nào gần nó, nhưng xa xa trên phá họ nghe thấy tiếng những người chèo thuyền từng đợt vang vang rõ ràng trên mặt nước êm. Ngọn lửa trên mũi thuyền chập chờn ở khoảng xa. Rồi tắt hẳn. Những tiếng nói ngừng. Đất và nước im lìm trong giấc ngủ vô hình, tưởng như trên thế giới này không còn lại gì ngoài những vì sao lấp lánh chảy bất tận và vô ích qua tịch mịch của đêm đen.

Người da trắng ngó thẳng trước mặt vào đêm tối bằng đôi mắt mở to. Nỗi sợ, sự thôi miên, kích thích và kinh hoàng của cái chết – của cái chết gần kề, không tránh khỏi và không nhìn thấy, làm lắng lại những bồn chồn bất yên của đời anh và khuấy lên những suy tư mơ hồ, sâu kín nhất. Nỗi hoài nghi thường trực về cái ác, nỗi ngờ vực dày vò luôn ẩn núp trong trái tim chúng ta, chảy tan ra thành cái tịch mịch bao quanh anh lúc này – cái tịch mịch thăm thẳm và lì lợm, nó hiện ra ô nhục đáng hổ thẹn, giống như cái mặt nạ lạnh tanh và khôn dò của một thứ bạo lực phi lý. Trong sự xáo trộn mãnh liệt và phù du của cuộc sinh tồn của anh, trái đất được ôm bọc trong cái thanh bình của ánh sao biến thành xứ sở tối tăm của cuộc xung đột dã man phi nhân tính, một mặt trận của những bóng ma khủng khiếp và quyến rũ, oai nghiêm hay đê tiện, vật lộn mãnh liệt để giành giật những trái tim không được bảo vệ của chúng ta – một xứ sở không yên bình và bí hiểm, của những nỗi sợ hãi và những khát vọng không thể dập tắt.

Một tiếng rì rầm ai oán nổi lên trong đêm, một tiếng rì rầm làm ta buồn bã và sửng sốt, như thể những nỗi cô đơn vô tận của những cánh rừng bao quanh đây đang cố thì thầm vào tai anh cái khôn ngoan của sự lãnh đạm dửng dưng kiêu kỳ và mênh mông của nó. Ngập ngừng vang lên và mơ hồ trôi đi trong bầu không khí vây quanh anh, chầm chậm hình thành lời, và cuối cùng êm đềm trôi đi trong dòng chảy rì rầm của những câu nhẹ nhàng và đơn điệu. Anh cựa quậy như người vừa tỉnh ngủ, và hơi thay đổi thế ngồi. Arsat bất động và như một cái bóng, ngồi cúi gục đầu dưới trời sao, đang nói bằng một giọng trầm và mê sảng

– 6 –

‘.. vì chúng ta còn có thể đặt cái nặng nề nhất trong những phiền muộn của chúng ta ở đâu ngoài những trái tim bè bạn? Một người đàn ông thì phải nói về chiến tranh và về tình yêu. Anh, chính anh ấy, Tuân ạ, anh biết chiến tranh là như thế nào, và anh đã thấy trong thời kỳ nguy khốn tôi đã đi tìm cái chết như người ta đi tìm sự sống. Một bài viết có thể bị mất, một lời nói dối có thể được viết ra, nhưng những gì ta đã nhìn tận mắt là sự thật và sẽ còn mãi trong trí óc.’

‘Tôi nhớ’ Người da trắng lặng lẽ nói. Arsat tiếp tục bằng giọng điềm tĩnh ảm đạm.

‘Do đó tôi sẽ nói với anh về tình yêu. Nói trong đêm nay. Nói trước khi cả tình yêu lẫn bóng đêm đều tan biến, và con mắt của ban ngày sẽ nhìn vào nỗi đau của tôi và nỗi xấu hổ của tôi, nhìn vào bộ mặt đen tối của tôi, vào trái tim tan vỡ của tôi.’

Một tiếng thở dài ngắn và yếu ớt, đánh dấu một quãng ngưng hầu như không thể nhận ra, rồi sau đó những lời của anh tiếp tục chảy, không một nhúc nhích, không một cử động.

‘Sau cái thời gian mọi rắc rối và chiến tranh đều đã qua đi, và anh rời khỏi đất nước chúng tôi để tiếp tục theo đuổi các khát vọng của anh, mà chúng tôi, những người dân đảo này không thể hiểu nổi; tôi và anh tôi trở lại làm những thị vệ, những người mang kiếm đi hầu đức vua như trước. Anh biết chúng tôi đều là những người đàn ông chủ gia đình, trong một dòng tộc cai trị và hơn ai hết thích hợp để mang cái biểu trưng của quyền lực trên vai phải của mình. Và trong thời kỳ thịnh vượng Si Dendring đã ban cho chúng tôi nhiều ân sủng, vì chúng tôi trong thời kỳ đau buồn đã tỏ cho ngài thấy xác thực lòng can đảm của chúng tôi. Đó là một thời kỳ thanh bình, một thời của những cuộc săn hươu và những cuộc chọi gà, của những cuộc chuyện trò vô bổ và những cuộc cãi vã ngớ ngẩn, giữa những người đàn ông bụng căng đầy và vũ khí để han rỉ. Nhưng người gieo hạt ngắm nhìn những người trai trẻ non tơ lớn lên không sợ hãi, và những người lái buôn đến rồi đi, ra đi gày guộc trở về béo tốt đi vào dòng sông thanh bình này. Họ cũng mang đến cả những tin tức nữa. Những điều dối trá trộn lẫn với sự thật, do đó không ai biết được khi nào nên vui khi nào nên buồn. Chúng tôi nghe được tin anh cũng từ bọn họ. Họ đã thấy anh ở chỗ này chỗ kia. Và tôi đã vui mừng nghe, vì tôi nhớ những thời gian sôi nổi, tôi luôn luôn nhớ anh, Tuân ạ, cho đến khi mắt tôi không còn nhìn thấy gì trong quá khứ nữa, vì nó đã nhìn thấy con người đang chết ở đây – trong ngôi nhà này.’

– 7 –

Anh dừng lại để kêu lên bằng giọng thầm – thì mãnh liệt “Ôi, Mara bahia! Ôi tai họa!” rồi tiếp tục nói lớn hơn một chút.

“Không có kẻ thù nào tồi tệ hơn và người bạn nào tốt hơn một người anh, Tuân ạ, vì người anh thì hiểu người em, và trong sự hiểu biết thấu đáo có sức mạnh của cái thiện và cái ác. Tôi yêu anh tôi. Tôi đến nói với anh rằng tôi không thể nhìn cái gì khác ngoài một khuôn mặt, tôi không thể nghe cái gì khác ngoài một giọng nói. Anh ấy bảo tôi “ Hãy mở trái tim của em ra để cho cô ấy thấy trong đó có gì, và đợi. Kiên nhẫn là khôn ngoan. Inchi Midah có thể chết hay nhà vua có thể vứt bỏ nỗi sợ một người đàn bà của ngài…Tôi đã đợi! ..Tuân ơi, anh còn nhớ người phụ nữ che mạng và nỗi sợ của đấng quân vương của chúng tôi đối với sự khôn ngoan và tâm tính của nàng. Và nếu nàng muốn người đày tớ của nàng, thì tôi biết làm sao được? Nhưng tôi nuôi dưỡng trái tim đói khát của tôi bằng những cái liếc nhìn chớp nhoáng và những lời lẽ vụng trộm. Ban ngày tôi lảng vảng trên những con đường dẫn đến những nhà tắm, và sau khi mặt trời lặn xuống sau rừng tôi trườn qua những hàng dậu hoa nhài ở sân trong ngôi nhà của những người phụ nữ. Không nhìn thấy nhau, chúng tôi nói với nhau qua mùi hương của những bông hoa, qua màn che của những khóm lá, qua những lá cỏ dài đứng lặng trước môi chúng tôi, sự thận trọng của chúng tôi mới kỹ lưỡng làm sao, tiếng thầm thì của nỗi khao khát của chúng tôi mới e ấp làm sao. Thời gian trôi nhanh và giữa những người phụ nữ có tiếng xì xào – và kẻ thù của chúng tôi trông thấy, anh tôi mặt mày ủ rũ, và tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện giết, và đến một cái chết dữ dội. Chúng tôi thuộc loại người đã muốn là làm – giống như người da trắng các anh. Có những lúc người đàn ông phải quên đi sự trung thành và tôn kính. Sức mạnh và quyền hành được trao cho những người cai trị, nhưng tất cả mọi người đàn ông được phú cho tình yêu và sức lực và lòng can đảm. Anh tôi bảo “Em phải cướp nàng đi từ giữa bọn họ. Chúng ta hai người như một.” Tôi trả lời “Làm sớm đi anh ạ, vì ánh nắng nào không chiếu trên người nàng thì em không thấy ấm áp” Thời cơ của chúng tôi đến khi nhà vua cùng đoàn tùy tùng của ngài ra cửa sông để câu cá bằng đuốc. Có hàng trăm chiếc thuyền, và trên bãi cát trắng giữa sông và rừng, những căn chòi bằng lá được dựng lên cho những người của hoàng gia. Khói bếp trông như một làn sương lam buổi tối, nhiều giọng nói vui vẻ vang lên. Trong khi họ đang chuẩn bị thuyền để đi đánh cá, anh tôi đến nói với tôi “Đêm nay.” Tôi chuẩn bị vũ khí và khi đến giờ thuyền chúng tôi trà trộn vào đám thuyền mang đuốc. Những ánh lửa chiếu sáng rực mặt nước, nhưng đằng sau các thuyền bóng tối vẫn dày đặc. Khi tiếng reo hò nổi lên và sự kích động khiến họ như phát cuồng, thuyền chúng tôi rút ra. Chúng tôi nhúng tắt lửa và bơi thuyền vào bờ, trên bờ lúc này tối đen chỉ còn rải rác đây đó những đốm lửa than lập lòe. Chúng tôi nghe thấy tiếng những nô tỳ trò chuyện trong chòi. Rồi chúng tôi tìm ra một chỗ vắng vẻ và tĩnh lặng. Chúng tôi đợi ở đó. Nàng đến. Nàng đã chạy hối hả dọc mép sông không để lại dấu vết gì, giống như một chiếc lá được ngọn gió đưa ra biển. Anh tôi nói giọng âm u “Ra đón nàng, đưa nàng xuống thuyền.” Tôi bế xốc nàng lên. Nàng hổn hển. Tim nàng đập thình thịch bên ngực tôi. Tôi nói “Tôi giành được nàng từ trong đám người kia. Nàng đến đây theo tiếng gọi của lòng tôi, nhưng đôi tay tôi đưa nàng xuống thuyền cưỡng lại cả ý trời.” Anh tôi nói “Đúng đấy. Chúng tôi là những người đã muốn gì là làm bằng được, và có thể cự lại nhiều người để chống giữ. Lẽ ra chúng tôi nên cướp nàng giữa ban ngày.” Tôi nói “Chúng ta đi thôi.” Khi nàng đã ngồi trong thuyền của chúng tôi, tôi bắt đầu nghĩ đến những người của nhà vua. “Phải đấy, chúng ta đi thôi.”Anh tôi nói “Chúng ta bị truy đuổi, con thuyền này bây giờ là nơi trú ngụ của chúng ta, biển cả là nơi lánh nạn của chúng ta.” Anh ấy vẫn nấn ná trên bờ, và tôi van anh hãy nhanh lên, vì tôi nhớ đến tiếng tim đập của nàng bên ngực tôi, và tôi nghĩ hai người không thể cự lại cả trăm người. Chúng tôi xuất phát, bơi thuyền gần bờ xuôi dòng, và khi chúng tôi qua nhánh sông nơi họ đang đánh cá, tiếng reo hò vang dậy đã ngừng, nhưng tiếng rì rầm của những giọng người nghe như tiếng vù vù của loài côn trùng bay lúc giữa trưa. Những chiếc thuyền thả nổi, cụm vào với nhau, trong ánh đuốc đỏ rực, dưới một màn khói đen. Những con người đang nói về trò vui của mình, những con người khoác lác, tán tụng, châm chọc – những con người ban sáng còn là bạn của chúng tôi nhưng đêm đó đã là kẻ thù. Chúng tôi mau lẹ bơi thuyền qua. Từ nay trên mảnh đất đã sinh ra chúng tôi, chúng tôi không còn người bạn nào nữa. Nàng ngôi giữa thuyền, mạng che mặt, im lặng như bây giờ, không nhìn – như bây giờ – và tôi không hề hối tiếc về những gì tôi đã bỏ lại, vì tôi nghe nàng thở gần bên tôi – như bây giờ tôi đang nghe.’

– 8 –

Anh ngừng lại, nghiêng tai về phía cửa, rồi lắc đầu và tiếp tục.

‘Anh tôi muốn hét lên một tiếng để thách thức, một tiếng thôi, để cho những người kia biết rằng chúng tôi là những kẻ cướp tự do bẩm sinh tin vào cánh tay của mình và tin vào biển cả. Và một lần nữa tôi lại van xin anh vì tình yêu của chúng tôi mà hãy giữ im lặng. Có thể nào tôi không nghe hơi thở của nàng gần gũi bên tôi? Tôi biết cuộc truy đuổi sẽ đến rất nhanh. Anh tôi yêu tôi. Anh ấy nhấn mái chèo xuống nước thật êm nhẹ. Anh ấy chỉ nói “Bây giờ trong người em chỉ còn một nửa người đàn ông, nửa còn lại ở trong người đàn bà kia. Anh sẽ đợi. Khi nào em trở lại là một người đàn ông trọn vẹn, hãy quay về đây với anh, để thét lên lời thách thức. Chúng ta là con cùng một mẹ.” Tôi không trả lời. Tất cả sức lực của tôi và tất cả hồn tôi dồn lên đôi tay đang nắm mái chèo, vì tôi cháy bỏng khao khát được sống với nàng ở nơi an toàn ngoài tầm với của cơn giận dữ của những người đàn ông và mối thù hận của những người đàn bà. Tình yêu của tôi lớn quá, đến mức tôi nghĩ nó có thể dẫn tôi đến một xứ sở nơi không biết đến cái chết, miễn là tôi thoát được hận thù của Inchi Midah và lưỡi gươm của đức vua của chúng tôi. Chúng tôi chèo như điên, thở qua kẻ răng. Những mái chèo ngập sâu dưới làn nước êm. Chúng tôi ra khỏi dòng sông, chúng tôi lướt bay qua những luồng nước thông giữa những chỗ cạn. Chúng tôi đi vòng qua những bờ đá đen, vòng qua những bãi cát nơi biển thầm thì trò chuyện với đất; và ánh lập lòe của cát trắng băng qua mặt nước chớp lóe qua thuyền chúng tôi. Chúng tôi im lặng. Chỉ có một lần tôi nói: “Ngủ đi Diamelean, rồi sắp tới sẽ cần đến toàn bộ sức lực của em đấy.” Tôi nghe giọng nàng ngọt ngào, nhưng tôi không quay đầu lại. Mặt trời lên và đứng yên. Nước rơi rào rào xuống mặt tôi như mưa. Chúng tôi lướt đi trong ánh sáng và hơi ấm. Tôi không ngó nhìn lại, nhưng tôi biết đôi mắt anh tôi, ở phía sau, đang trừng trừng nhìn thẳng phía trước, để con thuyền phóng thẳng như một mũi tên của thổ dân. Không có người chèo thuyền nào, người cầm lái nào giỏi như anh tôi. Nhiều lần chúng tôi đã cùng nhau đoạt giải những cuộc đua trên chính con thuyền này. Nhưng chưa bao giờ chúng tôi dồn hết sức lực như lúc này, khi chúng tôi cùng chèo với nhau lần cuối cùng. Trên đất nước tôi không có người đàn ông nào mạnh hơn và can đảm hơn anh tôi. Tôi không đủ sức quay đầu lại nhìn anh, nhưng tôi luôn nghe tiếng rít từ hơi thở của anh vang lên càng lúc càng mạnh đằng sau tôi. Anh vẫn không nói. Mặt trời đã lên cao. Ánh nắng đốt lưng tôi như ngọn lửa. Những giẻ sương sườn của tôi muốn nổ tung, nhưng tôi không còn sức hít đủ hơi vào lồng ngực nữa. Lúc đó tôi cảm thấy tôi phải dùng chút hơi cuối cùng để hét lên “Nghỉ anh ơi!” “Tốt!”Anh trả lời, giọng anh cứng cỏi. Anh ấy khỏe. Anh ấy can đảm. Anh ấy không sợ cũng không mệt. Anh tôi…”

– 9 –

Một cơn gió mạnh mà êm, một cơn gió hào sảng và từ tốn, một cơn gió làm những chiếc lá run rẩy, làm những cành cây đu đưa, xuyên qua rừng sâu rối rắm, chạy qua phá phẳng mượt nhấp nhánh ánh sao, và nước giữa những cây cột trơn nhớt mỗi lần đập vào cột lại bắn lên tung tóe. Một luồng hơi ấm mơn trớn khuôn mặt hai người đàn ông và lướt qua thành một âm thanh não nùng – một hơi thở vang và gấp như tiếng thở dài nặng nhọc của mặt đất mê mị.

Arsat tiếp tục bằng một giọng đều đều trầm trầm.

Chúng tôi kéo thuyền lên bãi cát trắng trong một vịnh nhỏ gần một lưỡi đất dài, dường như chắn ngang con đường của chúng tôi, một mũi đất dài mọc đầy cây nhô ra biển. Anh tôi biết chỗ này. Phía bên kia mũi đất có cửa vào một dòng sông. Xuyên qua rừng rậm trên mũi đất sẽ gặp một con đường hẹp. Chúng tôi nhóm lửa nấu cơm. Rồi chúng tôi nằm ngủ trên cát mịn, dưới bóng chiếc thuyền, còn nàng thì ngồi canh gác. Tôi vừa nhắm mắt thì nghe tiếng kêu báo động của nàng. Chúng tôi bật dậy. Mặt trời đã xế, và trong tầm mắt chúng tôi thấy một chiếc thuyền chiến lớn nhiều tay chèo xuất hiện ở cửa vịnh. Chúng tôi nhận ra nó ngay. Đó là chiếc thuyền chiến lớn của nhà vua. Họ đang nhìn lên bờ, và trông thấy chúng tôi. Họ đánh cồng và quay đầu thuyền chiến vào vịnh. Tôi thấy tim mình lịm đi trong lồng ngực. Diamelen ngồi trên cát và che mặt. Không có đường thoát ra biển. Anh tôi cười. Anh ấy có khẩu súng mà anh cho anh ấy trước khi anh ra đi, nhưng chỉ có một nhúm thuốc súng. Anh ấy nói rất nhanh với tôi “Đưa cô ấy chạy theo đường mòn. Anh sẽ chặn chúng lại, vì chúng không có súng tay, và đổ bộ lên đất liền ngay trước mặt một người có súng là có đứa chết chắc. Đưa cô ấy chạy đi. Ở mép rừng bên kia có một ngôi nhà của người đánh cá, và một chiếc xuồng. Anh bắn hết số đạn anh sẽ chạy theo. Anh là người chạy giỏi và chúng ta sẽ chạy thoát trước khi chúng đến. Anh sẽ cầm chân bọn chúng chừng nào còn có thể, vì dù sao cô ấy cũng là phụ nữ, không chạy được cũng không chiến đấu được, nhưng đôi bàn tay yếu ớt của cô ấy đang nắm trái tim em.” Anh ấy nấp sau thuyền. Chiếc thuyền chiến đến gần. Nàng cùng tôi chạy, và khi chạy theo đường mòn tôi nghe tiếng súng nổ. Anh tôi bắn, một..hai..và tiếng cồng im bặt. Sau lưng chúng tôi là im lặng. Giải đất ấy hẹp lắm. Trước khi nghe thấy phát súng thứ ba của anh tôi, tôi trông thấy một bờ cát thoai thoải, và tôi lại trông thấy nước: cửa một con sông lớn. Chúng tôi băng qua trảng cỏ. Chúng tôi chạy xuống mép nước. Tôi thấy một chiếc lều thấp trên bùn đen, và một chiếc xuồng con. Tôi nghe thêm một tiếng súng phía sau lưng. Tôi nghĩ “Đó là phát đạn cuối cùng của anh ấy.” Chúng tôi lao xuống chiếc xuồng, một người đàn ông từ trong lều chạy ra, tôi lao vào anh ta, và chúng tôi ôm nhau lăn trong bùn. Rồi tôi đứng dậy và hắn nằm bất động dưới chân tôi. Tôi không biết có phải tôi đã giết anh ta không. Tôi và Deamelen đẩy chiếc xuồng xuống nước. Tôi nghe tiếng thét phía sau và quay lại thấy anh tôi đang chạy qua trảng cỏ. Nhiều người đuổi bám sát sau anh. Tôi bế bổng nàng lên ném xuống xuồng rồi nhảy lao theo. Quay lại tôi thấy anh tôi đã ngã. Anh ngã rồi lại đứng dậy nhưng bọn người kia đã vây kín quanh anh. Anh ấy gào lên “Anh đến đây”, nhưng bọn kia đã đến gần anh. Tôi nhìn. Quá đông. Rồi tôi nhìn nàng. Tuân ơi, tôi đã đẩy xuồng! Tôi đẩy nó ra chỗ nước sâu. Nàng quỳ lên nhìn tôi. Tôi nói “Cầm lấy mái chèo” trong khi tôi quạt mạnh mái chèo của mình. Tuân ơi, tôi nghe anh ấy kêu! Tôi nghe anh ấy gọi tên tôi hai lần, và tôi nghe những giọng người quát lên “Giết! Đánh” Tôi không quay trở lại. Tôi lại nghe tiếng anh gọi tên tôi vô cùng thống thiết, như thể cả sự sống cùng trút ra với tiếng kêu. Tôi không hề quay đầu lại! Tên tôi.. Anh tôi! Đã ba lần anh gọi tên tôi. Tôi không sợ cho mạng sống của mình. Phải chi nàng không có trên cái xuồng đó! Và phải chăng tôi không thể cùng nàng tìm đến một xứ sở nơi không biết đến cái chết?

– 10 –

Người da trắng ngồi dậy. Arsat đứng lên: một dáng người mờ mờ và câm lặng trên đống than hồng sắp tàn. Trên phá, một màn sương mù là là trôi, chầm chậm xóa đi hình ảnh những ngôi sao nhấp nhánh. Và bây giờ một làn hơi nước trắng đang tỏa rộng che phủ cả mặt đất, trôi lạnh và xám trong bóng tối, những cơn gió xoáy tít cuốn quanh những thân cây tròn và quanh ngôi nhà này, ngôi nhà dường như đang bồng bềnh trên biển ảo mơ hồ và không ngơi nghỉ, dường như nó là vật duy nhất còn sót lại qua cuộc tàn phá của một cơn hồng thủy ma quái ngập dềnh sóng và vô thanh. Xa xa, những ngọn cây nổi bật trên nền trời sáng long lanh trông giống như một giải bờ biển tối tăm ảm đạm và gớm guốc – một giải bờ lừa gạt, nhẫn tâm và kinh tởm.

Giọng nói của Arsat rung mạnh trong bầu không khí thanh bình sâu thẳm:

‘Tôi đã có nàng. Tôi đã giành được nàng. Để giành được nàng tôi dường như đã phải đối đầu với cả loài người. Những tôi đã có nàng, và…’

Những lời nói của anh vang xa vào khoảng không hun hút. Anh ngừng lại và như để lắng nghe những tiếng nói ấy tắt dần ở khoảng cách xa xăm – xa đến vô vọng. Rồi anh nói, giọng âm thầm:

‘Tuân, tôi yêu anh tôi’

Một cơn gió làm anh rùng mình. Cao cao, trên đầu anh, và trên biển sương mù tĩnh lặng, những tàu lá cọ ủ rũ xạc xào một âm thanh tang tóc. Người da trắng duỗi chân. Cằm anh tì xuống ngực. Và anh lầm rầm buồn bã mà không ngửng đầu lên:

“Tất cả chúng ta đều yêu anh ấy”

Arsat bật ra thành tiếng thì thầm mãnh liệt:

“Tôi đã lo ai chết? Tôi muốn bình yên trong riêng trái tim tôi”

Hình như anh nghe thấy có tiếng động trong nhà, anh lắng tai, rồi lặng lẽ bước vào. Người da trắng đứng dậy. Một cơn gió thổi vào buốt lạnh. Những vì sao nhấp nháy mờ nhạt hơn như thể chúng đang rút lui vào chiều sâu thẳm giá băng của không gian vô tận. Sau một cơn gió lạnh là mấy giây im lặng hòan toàn và êm đềm tuyệt đối. Rồi từ sau cánh rừng đen âm u và dập dềnh như sóng hiện ra một cột ánh sáng vàng chói vọt thẳng lên trời và trải rộng ra thành hình dẻ quạt ở chân trời phía đông. Mặt trời đã mọc. Lớp sương mù dềnh lên, tan tác thành nhiều mảnh trôi lềnh bềnh và biến thành những vòng hoa tang mỏng manh bay bay, và cái phá không còn mạng che mặt, nằm, láng bóng và đen nhánh trong những mảng tối dày đặc dưới chân bức tường bằng cây rừng. Một con đại bàng trắng vụt bay lên bằng một đường bay nghiêng chậm chạp gặp ánh mặt trời chói chang nó sáng lóa lên trong khoảnh khắc, rồi bay lên cao nữa, thành một vệt tối và bất động, trước khi mất hút vào bầu trời xanh như thể vĩnh viễn dời xa mặt đất. Người đàn ông da trắng đứng trước cửa ngước mắt nhìn trời, nghe thấy từ trong nhà vọng ra tiếng lầm rầm bối rối và đứt quãng của những lời quẫn trí, kết thúc bằng một tiếng rên lớn. Bỗng nhiên Arsat nháo nhào chạy ra, hai cánh tay giang rộng, rùng mình và đứng lặng hồi lâu với đôi mắt vô hồn. Rồi anh nói:

– 11 –

“Nàng không còn sốt nữa!”

Trước mặt anh mặt trời tròn vành vạnh trên những ngọn cây, chậm rãi lên. Gió nhẹ thổi, một vẻ rực rỡ bừng lên trên phá, lấp lánh trên mặt nước gợn sóng. Rừng ra khỏi những bóng mây buổi sáng, trở nên rõ ràng khác biệt, như thể chúng đang đua nhau chạy đến gần, đột ngột dừng lại trong cái xôn xao của lá, cái đung đưa của cành. Dưới ánh mặt trời tàn nhẫn tiếng thầm thì của cõi sống vô thức như lớn hơn, nói bằng một giọng không ai hiểu nổi, quanh bóng tối lặng câm của nỗi buồn đau kiếp người. Đôi mắt của Arsat nhìn vẩn vơ rồi dán chặt vào mặt trời đang lên.

“Tôi chẳng thấy gì cả”

Anh nói giọng hơi lớn với chính mình.

“Có gì đâu mà thấy”

Người da trắng nói và bước ra đến mép sàn giơ tay vẫy chiếc thuyền của mình. Một tiếng kêu yếu đi qua phá và chiếc thuyền bắt đầu lặng lẽ trườn đi hướng về nơi trú ngụ của người bạn của những hồn ma.

“Nếu anh muốn đi với tôi, tôi sẽ đợi hết buổi sáng” Người da trắng nói, nhìn xa xa trên mặt nước.

“Không, Tuân ạ. Tôi sẽ không ăn hay ngủ trong nhà này, nhưng trước hết tôi phải nhìn thấy con đường của tôi. Bây giờ tôi không nhìn thấy gì cả, không thấy gì cả! Không có ánh sáng, không có hòa bình trên thế giới, nhưng có cái chết, cái chết cho nhiều người. Chúng tôi là con cùng một mẹ, và tôi đã để anh tôi lại giữa những kẻ thù; nhưng bây giờ tôi đang trở lại.”

Anh hít vào một hơi sâu và tiếp tục nói bằng giọng mơ mộng

“Chỉ một chút nữa thôi là tôi sẽ thấy đủ rõ để nghĩ ra – để nghĩ ra. Nhưng nàng đã chết… và , bây giờ tất cả lại tối đen”

Anh vung rộng hai tay để nó rơi xuống bên mình, rồi đứng yên với bộ mặt im lìm bất động và đôi mắt hóa đá, chăm chăm nhìn mặt trời. Người da trắng xuống thuyền. Những chân sào chạy thoăn thoắt dọc mạn, nhìn qua vai vào nơi xuất phát của một hành trình mệt nhọc. Ngồi cao trên đuôi thuyền, đầu quấn khăn trắng, người lái thuyền buồn bã thả cho mái chèo kéo lê dưới nước. Người da trắng tì cả hai cánh tay lên mái cỏ của khoang đuôi, nhìn những ngọn sóng lăn tăn lấp loáng phía sau thuyền. Trước khi con thuyền ra khỏi phá để đi vào con rạch, anh ngước mắt nhìn lên. Arsat vẫn đứng yên không động đậy. Trong ánh nắng tinh khôi sáng tỏ và xuyên thấu, anh vẫn đứng bất động trước nhà và vẫn nhìn qua ánh sáng rực rỡ của một ngày không mây vào bóng tối vô vọng của thế giới.

Bản Tiếng Việt ©: 2009 Hiếu Tân

[1] ‘Tuan’ trong nguyên bản

Read Full Post »