Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Quang Trung’

Trường Nghị


Sông Nhị hay Sông Hồng, Sử xưa gọi là Sông Phú Lương. Cầu phao trên sông Nhị ở đây muốn nhắc đến là cái cầu mà thời Tôn sĩ Nghị đem binh Lưỡng Quảng và Vân Quý tiến vào Đại Việt cuối năm Mậu Thân (1788).

Theo tài liệu nghiên cứu của TS Nguyễn Duy Chính (Đại Học Ivrin – CaLifornia), Tôn Sĩ Nghị (1720 – 1796), viên tướng tư lệnh lực lượng viễn chinh của nhà Thanh là người tỉnh Chiết Giang, đỗ Tiến sĩ năm 1761, từng theo Phó Hằng (cha của Phúc Khang An) đánh Miến Điện năm 1769. Hoạn lộ của Tôn sĩ Nghị thăng tiến rất nhanh. Từ một công việc nhỏ lo soạn thảo tấu chương, thư từ, Tôn Sĩ Nghị được thăng Lang Trung Bộ Hộ, rồi Đốc Học Quý châu (1770 – 1774), Bố Chính Quảng Tây, rồi Tuần Phủ Vân Nam (1775). Chẳng bao lâu sau làm Tuần Phủ Quảng Tây rồi đổi sang Tuần Phủ Quảng Đông (1785). Năm sau nhận nhiệm vụ điều động quân lương, khí giới giúp Phúc Khang An bình định được loạn Thiên Địa Hội Lâm Sảng Văn ở Đài Loan nên được thăng hàm Thái Tử Thái Bảo, được vẽ hình trưng bày trong Tử Quang Các.

Sơ lược một chút tiểu sử của Tôn Sĩ Nghị để thấy Càn Long sủng ái, tin cậy Tôn Sĩ Nghị như thế nào khi giao cho trọng trách cầm đầu lực lượng viễn chinh. Binh tướng, quân lương được Càn Long cho tổ chức như thế nào để Tôn sĩ Nghị thực hiện chuyến nam chinh ?

Mượn tiếng cứu giúp vua tôi Lê Chiêu Thống, Tổng Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị được quyền điều động binh mã không những của Quảng Đông, Quảng Tây, mà còn của 2 tỉnh Vân Nam, Quý Châu, quân nghĩa dũng Điền Châu và thủy quân Phúc Kiến. Dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị gồm những tướng lĩnh phần nhiều từng xông pha trận mạc, giỏi chiến trận, dày công trạng. Có người từng có hình trưng bày trong Tử Quang Các như Hứa Thế Hanh. Có người từng xuất thân là Võ Tiến sĩ như Ô Đại Kinh, Lý Hóa Long, Hình Đôn Hành …

Ngày 28 tháng mười năm Mậu Thân (25/11/1788), Tôn Sĩ Nghị chia binh làm 3 đạo vượt biên giới Đại Việt. Cánh quân phía đông qua ngõ Nam Quan tiến xuống Kinh Bắc do Đề Đốc Quảng Tây Hứa Thế Hanh chỉ huy, hai Tổng Binh phụ tá là Tổng Binh Quảng Tây Thượng Duy Thăng với Phó Tướng Khánh Thành, Tổng Binh Quảng Đông Trương Triều Long với Phó Tướng Lý Hóa Long. Cánh quân phía Tây qua ngõ Mã Bạch Quan tiến binh theo đường Tuyên Hóa, Tuyên Quang xuống Sơn Tây do Đề Đốc Vân Nam Ô Đại Kinh chỉ huy, hai phụ tá là Tổng Binh Định Trụ và Tổng Binh Tôn Khởi Giao. Cánh quân ở giữa là Đạo quân nghĩa dũng của Thổ Tri châu Điền Châu là Sầm Nghi Đống thống lĩnh, theo đường Long châu sang Cao Bằng tiến xuống Thái Nguyên. Ngoài 3 đạo binh trên, Tôn sĩ Nghị còn có được một lực lượng hổ trợ khác là quân tướng của Lê Chiêu Thống, dù chẳng có bao nhiêu nhưng sẵn sàng bán mạng cho thiên triều.

Chuẩn bị cho cuộc tiến quân của Tôn sĩ Nghị xuống nam, Thanh triều giao cho Tổng Đốc Vân Nam – Quý Châu là Phúc Khang An chuyên trách việc vận trù quân lương. Đường tiến quân từ Vân Nam, Quảng Tây đến thành Thăng Long, Phúc Khang An cho lập tới 70 đồn quân lương to lớn, kiên cố. Chặng tiến quân từ Nam Quan đến Thăng Long là chặng đường bị Nội Hầu Phan Văn Lân ngăn chặn ở Thị Cầu, khi Tôn Sĩ Nghị đang tổ chức hành quân thì Phúc Khang An cũng đã thiết lập được 18 đồn lương. Xem thế mới thấy qua việc tổ chức cuộc chiến nầy, thâm tâm Càn Long đã có mưu lâu dài nắm lấy Đại Việt.

Thâm tâm, mưu đồ nầy còn hiện rõ trong một chỉ dụ cho Tôn Sĩ Nghị, Càn Long vạch ra chiến lược :

“… Cứ từ từ, không gấp vội. Trước hãy truyền hịch để gây thanh thế, sau cho bọn cựu thần nhà Lê về nước tìm tự quân nhà Lê đưa ra đương đầu đối địch với Nguyễn Huệ. Nếu Huệ bỏ chạy thì cho Lê tự quân đuổi theo, đại quân của ta thì đi tiếp sau, như thế, không khó nhọc mà thành công, đó là thượng sách.

Nếu như người trong nước, một nửa theo về Huệ mà Huệ không chịu rút quân, thì phải chờ thủy quân Mân Quảng (Phúc Kiến, Quảng Đông) vượt biển, đánh vào Thuận, Quảng (Thuận Hóa, Quảng Nam) trước, sau đó lục quân mới tiến công cả hai mặt, đằng trước, đằng sau, Nguyễn Huệ đều bị đánh, tất phải quy phục. Ta nhân đó giữ cả hai. Từ Thuận, Quảng vào Nam thì cắt chia cho Nguyễn Huệ. Từ Hoan Ái (Nghệ An) trở ra Bắc thì phong cho họ Lê. Mà ta thì đóng đại quân ở nước ấy để kiềm chế. Về sau sẽ có cách xử trí khác” (chép theo Đại Nam Chính Biên).

Với chiến lược nầy, Càn Long nuôi Lê Chiêu Thống để dùng Chiêu Thống gây nên can qua, dùng người Việt đánh người Việt. Ai thắng ai bại, Ai chết ai sống mặc ai, việc đưa đại quân của Thanh triều vào nằm giữa lòng Đại Việt vẫn thực hiện được để tính kế lâu dài về sau. Nhưng khi đưa binh đến được Thăng Long một cách dễ dàng, Tôn Sĩ Nghị đã tham công, trùng trình làm hỏng cả, đã chôn vùi binh tướng dưới dòng Phú Lương nghẽn cả sông, thây chất thành đống ở Gò Đống Đa.

Nói Tôn Sĩ Nghị đưa binh đến được Thăng Long một cách dễ dàng, nhưng thực sự Tôn Sĩ Nghị đã tốn nhiều thời gian, gian nan hơn dự định, phải tổn thất một viên tướng ở chiến trận Thị Cầu là Vũ Tông Phạm. Nội Hầu Phan Văn Lân và một nghìn tinh binh của Tây Sơn dàn trận bên bờ nam sông Thị Cầu đã làm chậm bước tiến của cánh quân tướng Hứa Thế Hanh, vừa nắm được tình hình cụ thể quân lực, sức chiến đấu của cánh quân nầy, giúp cho Quang Trung Nguyễn Huệ sau nầy tổ chức công thành đồn Ngọc Hồi rạng ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (30/1/1789).

Ngày 20 tháng một (mười một) năm Mậu Thân (7/12/1788), quân Thanh vào được thành Thăng Long đã bỏ ngõ. Thủy lục quân Tây Sơn đã rút về nam lập phòng tuyến ở Biện Sơn – Tam Điệp Ninh Bình. Từ đây quân Tây Sơn có được một tháng trời để chuẩn bị cho cuộc chiến. Trong một tháng trời đó, Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long, tổ chức ngay lễ tấn phong cho Lê Chiêu Thống (ngày 22 tháng một Mậu Thân). Vua tôi Chiêu Thống cúi rạp thần phục, quân nhà Thanh được mặc sức vơ vét, nhũng nhiễu.

Tôn Sĩ Nghị hội binh ở Thăng Long, cho đạo quân Vân Quý của Ô Đại Kinh bố trí ở Sơn Tây (phía Tây Thăng Long), đạo quân Điền Châu của Sầm Nghi Đống đồn binh ở Khương Thượng (Tây Nam Thăng Long), đạo quân Lưỡng Quảng đóng ở hai bờ sông Nhị, cho làm cầu phao bắc qua sông để thuận tiện đi lại. Cái chết người là chính ở cái cầu phao nầy.

Xét theo cách bố trí binh lực của Tôn Sĩ Nghị, cánh quân của Đề Đốc Hứa Thế Hanh là cánh quân chủ lực. Hứa Thế Hanh đóng quân ở Ngọc Hồi (Thanh Trì, phía nam Thăng Long chừng 13 – 14 km), phía tiền tiêu còn có đồn Hà Hồi (Thường Tín, cách Ngọc Hồi chừng 6 – 7 km) án ngữ, xa hơn phía nam còn có đồn Gián Khẩu (trấn Sơn Nam) do binh tướng của Lê Chiêu Thống trấn giữ. Cánh quân chủ lực nầy nằm nhô xuống phía nam Thăng Long, trong khi các cánh quân của Ô Đại Kinh và Sầm Nghi Đống lại ở tư thế phòng ngự, ngơi nghỉ theo chủ trương của Tôn Sĩ Nghị là chờ sau mồng 6 tháng giêng mới cùng tiến quân xuống Tam Điệp. Từ chủ trương nầy, cánh quân của Hứa Thế Hanh dàn quân theo chiều dọc mà sau lưng là cây cầu phao bằng tre gỗ, không đủ sức chịu đựng cho cả cánh quân nếu phải triệt thoái khi bị tấn công không kháng cự nổi.

Bẻ gãy cánh quân của Đề Đốc Hứa Thế Hanh là phá vỡ bố trí binh lực của Tôn Sĩ Nghị. Để phá vỡ đồn Ngọc Hồi của Hứa Thế Hanh, Hoàng Đế Quang Trung phải chờ cho Đô Đốc Long tiêu diệt Khương Thượng của Sầm Nghi Đống xong mới từ thế bao vây chuyển sang tấn công Ngọc Hồi. Cánh quân của Thổ Tri châu Sầm Nghi Đống gồm những thổ binh người thiểu số được chiêu mộ dưới tên gọi là quân nghĩa dũng. Không phải là đội quân chính quy, quân số ít, nên lực lượng nầy phải nhờ sự yểm trợ, Tôn Sĩ Nghị bố trí cho nằm giữa 2 cánh quân Lưỡng Quảng và Vân Quý. Cánh quân Khương Thượng của Sầm Nghi Đống dù sao cũng nằm bên sườn của Ngọc Hồi. Tiêu diệt Khương Thượng là cắt đứt lực lượng tiếp cứu cho Ngọc Hồi. Phá vỡ Ngọc Hồi là phía sau sẽ rùng rùng bỏ chạy. Lúc nầy cây cầu phao trên sông Nhị gánh trên mình sự sai lầm của viên tướng viễn chinh Tôn Sĩ Nghị.

Trong 8 điều quân luật mà Tôn Sĩ Nghị ban bố trước khi xuất quân, có một điều liên quan đến phù kiều (cầu phao), theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí :

Điều thứ 6. Đại binh đi đường, nếu gặp khe suối, dòng sông, chỗ nào nước sâu thì phải lấy tre, gỗ bắc !àm cầu phao, để binh mã vượt qua cho tiện, chỗ nào sông hẹp nước nông, thì viên quan coi quân phải dò thử đích xác, rồi cho quân lính nối tiếp nhau như xâu cá mà kéo đi. Lúc xuống nước không được đem bùi nhùi, thuốc súng bạ đâu vứt đấy để bị ẩm ướt.

Hiện nay chưa có một tư liệu nào xác định rõ quy mô cái cầu phao mà Tôn Sĩ Nghị đã cho bắc qua sông Nhị. Nhưng cũng có thể hình dung được cây cầu có thể được tạo tác nên bằng tre nứa, có thể đặt trên những cái thuyền nhỏ nối kết lại với nhau. Dĩ nhiên bằng cấu tạo nào đi nữa, cây cầu cũng không thể nào chịu đựng nổi cả một đoàn quân hỗn độn thưở ấy cùng vượt qua.

Tư liệu, sách sử người nhà Thanh như Thánh Vũ Ký cho rằng chính Tôn Sĩ Nghị khi đã qua được bên kia cầu, đã hạ lệnh cho chặt đứt cầu để tránh quân Tây Sơn truy kích. Cũng giống như vậy, Thanh Sử Cảo còn cho biết thêm Võ Tiến sĩ Lý Hóa Long lọt xuống sông chết đuối khi cầu phao bị đứt. Các Đề Đốc Hứa Thế Hanh, Tổng Binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long … không qua được, giao chiến, tử trận phía nam cầu. Cây cầu phao trên sông Nhị lại mang thêm dấu tích của kẻ qua cầu rút ván.

Đại bại dưới tài cầm quân của Hoàng Đế Quang Trung, nhờ tướng Khánh Thành bảo vệ chạy về đến Nam Quan, Tôn sĩ Nghị uất ức vạch vào tấm ván gỗ trước sụt sùi của Lê Chiêu Thống :

–   Mối hận nầy không giết được Quang Bình (tên tộc của Quang Trung Hoàng Đế) không thôi (dẫn theo Lê Quý Dật Sử).

Chẳng bao lâu sau Tôn Sĩ Nghị bị triệu về kinh, bị tước cả hồng bảo thạch, song nhãn hoa linh, bị thu hồi cả tước Mưu Dũng Công được ban cho lúc cầm quân nam chinh. Phúc Khang An thay thế làm Tổng Đốc Lưỡng Quảng, Đề Đốc cửu tỉnh binh mã. Nắm trong tay binh mã của chín tỉnh, nhưng Phúc Khang An chủ trương hòa hoãn với Đại Việt. Nhà Thanh bang giao với Hoàng Đế Quang Trung, Lê Chiêu Thống chết trong tủi nhục bên đất Trung Hoa, Tôn Sĩ Nghị không thực hiện được lời thề khắc trên ván.

Tôn Sĩ Nghị thất trận, bị triệu về kinh, tưởng là con đường hoạn lộ không còn hanh thông nữa. Nhưng thật ra về kinh, Tôn Sĩ Nghị được nhận chức Binh Bộ Thượng Thư, sung Quân Cơ Đại Thần. Mùa đông năm đó (1789) triều đình bổ làm Tổng Đốc Tứ Xuyên. Năm 1791 được triệu về kinh làm Lại Bộ Thượng Thư, Hiệp Biện Đại Học Sĩ … sau là Lễ Bộ Thượng Thư, Văn Uyên Các Đại Học Sĩ (1792).

Cầu phao sông Nhị đã vùi chôn tính mạng những chiến tướng dưới trướng của viên tư lệnh vô cảm, qua cầu rút ván. Tưởng là cầu phao sông Nhị vùi chôn luôn sự nghiệp của viên tướng tư lệnh nam chinh. Nhưng Tôn Sĩ Nghị còn có một cây cầu khác để bước qua máu xương của đồng đội. Tôn Sĩ Nghị đã nhờ vào cây cầu thân cận, nhờ vào quyền lực của Hòa Thân (Hòa Khôn) để che lấp những sai trái của mình. Theo đồn đại, Hòa Thân có khuôn mặt hao hao giống một tỳ thiếp của Càn Long, người tỳ thiếp nầy đã qua đời do lỗi của Càn Long. Càn Long ưu ái, nuông chiều Hòa Thân xem như là cách giải tỏa mặc cảm tội lỗi. Nhờ vậy Hòa Thân thao túng, làm loạn chốn quan trường, Càn Long vẫn bỏ qua và luôn nghe lời Hòa Thân. Nhờ mật ngọt của Hòa Thân rót vào tai Càn Long nên hoạn lộ của Tôn Sĩ Nghị vẫn cứ thông đường, sau vẫn cứ có hình vẽ trưng bày trở lại ở Tử Quang Các.

Sau nầy vào năm 1799, vua Gia Khánh nhà Thanh (con vua Càn Long) cho hành quyết sủng thần của cha mình là Hòa Thân với tội danh tham nhũng, lạm dụng chức quyền (Wikipedia). Phe đảng của Hòa Thân, phần Tôn Sĩ Nghị lúc nầy đã mất, nên con của ông bị Gia Khánh phế bỏ tập tước, cho ra khỏi kỳ binh, trở về nguyên tịch. Theo tài liệu của TS Nguyễn Duy Chính, trong lời dụ của Gia Khánh có câu nhận định về Tôn Sĩ Nghị trong cuộc nam chinh : “… có ý tham công, trùng trình cho nên làm hỏng việc, thua trận chạy về. Lời tâu lên phần lớn chỉ là lòe loẹt bề ngoài (sớ tấu đa hữu hư sức) …”

Tôn Sĩ Nghị đã sử dụng cây cầu thân cận để thẳng bước trên đường hoạn lộ, nên Tôn Sĩ Nghị sẵn sàng, không chút chùn chân, dễ dàng bước qua những cây cầu kiểu như Cầu Phao Sông Nhị, dù cho nó làm tổn thất sinh mệnh những người đã chiến đấu bên cạnh mình. Đối với người Việt, Cầu phao sông Nhị cũng đã vùi chôn luôn võ nghiệp, nhân phẩm của Tôn Sĩ Nghị. Vua Càn Long được tiếng là một minh quân, triều Càn Long là một triều đại hưng thịnh của nhà Thanh, nhưng Càn Long không tránh khỏi sai lầm vì yếu lòng, vì những mật ngọt.

Xuân Nhâm Thìn 2012

THAM KHẢO

•     Một Võ Trạng Nguyên Trung Hoa Tử Trận Tại Việt Nam  –  Bài viết của TS Nguyễn Duy Chính
•    Tìm Hiểu Thiên Tài Quân Sự Nguyễn Huệ   –  Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng
•    Lê Quý Dật Sử  –  Bùi Dương Lịch
•    Khâm Định Việt Sử  –  Quốc Sử Quán Triều Nguyễn
•    Hoàng Lê Nhất Thống Chí  – Ngô Gia Văn Phái
•    Nhà Tây Sơn  –  Quách Tấn và Quách Giao

Read Full Post »

(ĐVO) “Huệ tiếng nói như chuông, mắt lập loè như ánh điện, là người thông minh, giỏi chiến đấu, người người đều kinh sợ”, Sách Đại Nam chính biên liệt truyện của triều Nguyễn chép.

Vương triều Tây Sơn đứng đầu là Hoàng đế Quang Trung, là triều đại phong kiến đã mang lại nhiều vinh quang cho dân tộc ta ở nửa sau thế kỷ XVIII, mà trung tâm đầu não lúc bấy giờ là kinh đô Phú Xuân.

Tượng đài Hoàng đế Quang Trung tại TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

Vua Quang Trung còn có tên khác là Nguyễn Văn Bình, quê ấp Kiến Thành thuộc Tây Sơn Hạ Đạo (phủ Quy Nhơn, Bình Định).

Là em trai của Nguyễn Nhạc, Thủ lĩnh phong trào Tây Sơn, Nguyễn Huệ (1751 – 1792) là một tướng lĩnh có vai trò quan trọng. Ðặc biệt vào năm 1785, khi đánh tan quân xâm lược Xiêm ở Rạch Gầm – Xoài Mút, năm sau (1786) Nguyễn Huệ tiến ra Thuận Hóa và chỉ trong mấy ngày, đạo quân Tây Sơn đã quét sạch quân Trịnh ra khỏi Phú Xuân; rồi trên đà thắng lợi, tiếp tục hành quân ra Bắc. Sau khi tiêu diệt xong thế lực chuyên quyền họ Trịnh, Nguyễn Huệ đã trao lại quyền bính cho vua Lê và rút quân trở về Phú Xuân…

Năm 1788, triều đình Mãn Thanh mượn cớ giúp vua Lê, đã đưa binh hùng tướng mạnh theo chân Lê Chiêu Thống cướp nước ta. Ðược tin cấp báo, tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ cho lập Ðàn Nam Giao làm lễ tế trời đất ở núi Bân để tuyên bố lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung và phát động cuộc hành quân ra Bắc đánh dẹp giặc ngoại xâm.

Với thiên tài quân sự kiệt xuất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã làm nên đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu (1789) lừng lẫy, quét sạch mấy chục vạn quân xâm lược, giữ vững biên cương của Tổ quốc, mang lại cuộc sống hòa bình cho nhân dân. Sau chiến thắng lịch sử đó, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng chỉ đạo sắp xếp công việc chính trị ở Bắc Hà, rồi kéo đại quân trở lại Phú Xuân. Suốt hơn mười năm sau đó (1789-1802), Phú Xuân là kinh đô của nước Ðại Việt thống nhất thời Tây Sơn. Tại đây, vua Quang Trung đã ban bố và thực hiện chỉ đạo nhiều chính sách quan trọng về nội trị và ngoại giao nhằm xây dựng và phát triển đất nước.

Hoàng đế Quang Trung và Ngọc Hân công chúa. Ảnh minh họa

Như vậy, công danh hiển vinh của Hoàng đế Quang Trung – hậu bối ai ai cũng rõ và kính phục. Song, có điều rằng diện mạo và thần thái của người anh hùng áo vải – đến nay vẫn là một ẩn số. Theo sách Những khám phá về Hoàng đế Quang Trung, một quan viết sử dưới thời Nguyễn đã ghi: “Huệ tóc quăn, mặt đầy mụn, có con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì thế thắng uy nghi, anh hùng lẫm liệt, cho nên mới bình định được phương Nam, dẹp phương Bắc, tiến đến đâu thì không ai hơn được… Óc thông minh đó sẽ làm nên sự nghiệp lớn, tiếng nói sang sảng như chuông sẽ là lệnh truyền hiệu nghiệm đầy sức thuyết phục. Với đôi mắt như ánh điện, thay được đèn soi sáng cả chiếu vào lúc ban đêm, có thể xuyên thấu mọi tâm can sâu thẳm của mỗi con người, của đối phương nên đã làm người người đều kinh sợ. Cái nhãn quang đó cùng bộ óc thông minh của ông đã làm nên sự nghiệp phi thường như lịch sử đã ghi lại”.

Trong Minh đô sử, hình ảnh Nguyễn Huệ ra Thăng Long diệt quân Trịnh vào năm 1786 được ghi: “Văn Huệ mặc áo ngân giáp, đầu đội mão thêu đỏ, thúc hai đội quân đột ngột xông thẳng vào quân Phùng Cơ, lúc đó đang ăn cơm không kịp sắp hàng ngũ, đành vỡ tan. Văn Huệ tiến quân đến bên Tây Long, ngồi đĩnh đạc trên chiếc tấm ván cao trong thuyền, dung mạo hùng vĩ, nhung phục chỉnh tề. Các tướng sĩ đứng vòng hai bên tả hữu trông thấy ai cũng nói: Bắc Bình Vương là vị thần sông vậy. Rồi cùng nhau tấm tắc khen ngợi mãi không thôi”.

Các tác giả trong Hoàng Lê nhất thống chí đều thừa nhận Quang Trung là “người thông minh quyết đoán. Lúc Nguyễn Huệ vào kinh đô Thăng Long, vua Lê sai các quan lần lượt đến yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng”.

Thậm chí, những kẻ đối địch cũng phải nhận xét: “Nguyễn Huệ là tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân, xem ông ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường biết. Ông bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Võ Văn Nhậm như giết một con lợn. Không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt ông; thấy ông trở tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu sợ hơn sấm sét…”.

Có thể nói, những dòng miêu tả kỹ lưỡng diện mạo, thần thái của vua Quang Trung là điều hiếm hoi trong sử Việt.

 

 

Read Full Post »

(ĐVO) Trong lịch sử cận đại Việt Nam, hễ nói đến công chúa con vua mà lại lấy hai chồng làm vua là người ta nghĩ ngay đến công chúa Lê Ngọc Hân, con vua Lê Hiển tông, gả làm vợ vua Quang Trung. Nhưng sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, Ngọc Hân được hoàng đế Gia Long lập làm Ðệ Tam cung…

Số đâu có số lạ đời
Con vua mà lại hai đời chồng vua.

Thực hư chuyện này là thế nào? Mặc dù có người đã giải thích nhân vật ám chỉ trong câu ca dao trên là Lê Ngọc Bình, em ruột của công chúa Ngọc Hân. Nhưng tội nghiệp, điều này vẫn không giải được án tình cho Ngọc Hân trong dư luận của người dân xứ Huế một thời.

Công chúa Ngọc Hân phải chịu án tình oan với vua Gia Long. Ảnh minh họa

Trang tình sử bi hùng…

Lê Ngọc Hân (1770-1799) còn gọi Ngọc Hân công chúa hay Bắc Cung Hoàng hậu ; là công chúa nhà Hậu Lê và hoàng hậu nhà Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam, vợ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Dân gian còn lưu truyền tên gọi bà là Bà Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên.

Dưới thời Tây Sơn, có hai phụ nữ nổi danh làm rạng rỡ cho truyền thống phụ nữ Việt Nam là nữ tướng Bùi Thị Xuân và nữ sĩ tài hoa Lê Ngọc Hân. Nhưng cuối cùng, cả hai bà và gia đình đều phải chịu cảnh đắng cay thê thảm hiếm có trong lịch sử.

Có thuyết cho rằng, vào năm Nhâm Tuất (1802), triều Tây Sơn bị diệt, Gia Long bắt được Ngọc Hân công chúa, thấy nàng có nhan sắc kiều diễm, có sức quyến rũ các bậc tu mi, đã không kìm được xúc động trong buổi sơ ngộ tại Phú Xuân. Gia Long đưa truyền nộp công chúa vào cung. Tả quân Lê Văn Duyệt can “không nên lấy vợ thừa của giặc” nhưng nhà vua không chịu nghe, lại đáp: “Tất cả giang sơn này, cái gì không lấy từ trong tay giặc, cứ gì một người đàn bà?”

Vào cung, Ngọc Hân sinh cho vua Gia Long hai con là Hoàng tử Thường Tín và Quảng Oai.

Như vậy, đây có thể xem là một trang tình sử bi hùng giữa công chúa Ngọc Hân và vua Gia Long – đã được thi vị hoá và hiện thực hoá – nên được nhiều người kể, nhiều người ưa nghe và có nhiều sách vở biên chép. Năm 1941, trong tập san B.A.V.H . (Đô thành hiếu cổ) xuất bản ở Huế có bài viết của Phạm Thường Việt, với nhan đề  Les caprices du génie des Mariages ou extraordinaire destinée de la princesse Ngọc Hân (Sự trớ trêu của ông tơ, bà Nguyệt hay duyên số kỳ lạ của Công chúa Ngọc Hân). Ở đây, ông Thường lần nữa lại cho rằng người lấy vua Gia Long là công chúa Lê Ngọc Hân. Tiếp đến, năm 1961, nhà sử học Nguyễn Thiệu Lâu vẫn cho rằng, Ngọc Hân công chúa đã lấy Gia Long là chuyện có thật.

… Hoàn toàn không phù hợp với sự thật lịch sử

Tất cả những câu chuyện về chung cục bi thương huyền hoặc của công chúa Lê Ngọc Hân là hoàn toàn không phù hợp với sự thật lịch sử.

Mộ Ngọc Hân Công Chúa hiện ở xã Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) .

Sau ngày đại thắng, Quang Trung về Phú Xuân tiến phong Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng hậu. Ngọc Hân được hưởng những năm tháng tràn đầy hạnh phúc bên người chồng anh hùng. Bà sinh được hai người con, một gái là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (SN 1788) và một trai là Nguyễn Quang Đức (SN 1790). Tuy nhiên, hạnh phúc đó không được bao lâu.

Tháng 9/1792, vua Quang Trung đột ngột từ trần. Mới 22 tuổi đầu, với hai đứa con thơ một lên 4 và một lên 2, Ngọc Hân trở thành goá bụa. Bà sống cô quạnh trong nỗi nhớ thương chồng. Tình cảm đau xót triền miên dần hút hết sinh lực của bà. Và  thế là 7 năm sau (năm 1799), Ngọc Hân từ trần khi mới 29 tuổi đời. Hai năm sau (1801), Nguyễn Ánh tấn công vào Phú Xuân, vua tôi Quang Toản bỏ kinh thành chạy ra Bắc Hà. Hai con của Ngọc Hân còn thơ ấu đều bị bắt.

Rõ là, công chúa Lê Ngọc Hân đã mất dưới triều vua Cảnh Thịnh, nghĩa là trước khi kinh thành Phú Xuân thất thủ 16 tháng thì làm gì có câu chuyện bà phải lâm cảnh bôn ba lưu lạc sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, để rồi phải làm vợ của hoàng đế Gia Long. Bà đã được truy tặng là Như Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu; được ma chay tống táng tại kinh thành theo đúng nghi thức vương giả dành cho một bậc mẫu nghi thiên hạ. Bằng chứng hùng hồn là bài văn tế Vũ Hoàng Hậu tìm thấy trong Dụ Am Văn Tập của Phan Huy Ích, mà Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm đã công bố trên tạp chí Tri Tân vào năm 1943 tại Hà Nội.

Một sĩ quan Pháp là Barizy theo chân Gia Long Nguyễn Ánh vào Phú Xuân, có đến nhà tù giam những người con của vua Quang Trung, đã mô tả lại trong thư của ông viết vào ngày 16/7/1801: “… Họ ở trong một căn phòng hơi tối, có tất cả 5 công chúa, một cô 16 tuổi, theo tôi là một cô gái đẹp, một em bé 12 tuổi là con gái bà công chúa Bắc Kỳ (tức Ngọc Hân), em này cũng coi được… Ngoài ra, còn có 3 con trai, có một em độ 16 tuổi da nâu nhưng nét mặt tầm thường. Còn em trai kia độ 12 tuổi là con bà công chúa Bắc Kỳ thì diện mạo rất đáng yêu và có những cử chỉ rất dễ thương”.

Sách Đại Nam thực lục chính biên chép, cả con trai và con gái của Ngọc Hân đều bị bắt khi Nguyễn Ánh tấn công chiếm Phú Xuân vào tháng 5/1801 và sau đó, bị giết vào tháng 11/1801.

Tại sao Lê Ngọc Bình bị “biến” thành Ngọc Hân công chúa?

Lê Ngọc Bình (sinh năm 1783), công chúa con vua Hiển tông nhà Hậu Lê, em ruột công chúa Lê Ngọc Hân, là Chính cung Hoàng hậu vua Cảnh Thịnh (Quang Toản) nhà Nguyễn Tây Sơn và Ðệ Tam cung của vua Gia Long.

Theo Kể chuyện các vua Nguyễn, cuộc tình duyên của bà Lê thị Ngọc Bình với vua Gia Long khá lạ kỳ. Tháng 5/1801, khi Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân, vua Quang Toản bỏ chạy ra Bắc Hà, Ngọc Bình và một số cung nữ bị kẹt lại Phú Xuân. Thấy nàng là một người con gái trẻ đẹp, ăn nói dịu dàng, dáng điệu thướt tha, Gia Long rất ưng ý. Mặc cho các cận thần nhà Nguyễn kịch liệt phản đối, Gia Long bỏ ngoài tai tất cả. Ngọc Bình được nạp làm phi và sau đó được phong làm Đệ tam cung Đức Phi (đứng thứ ba sau hai bà hoàng hậu là Thừa Thiên, mẹ hoàng tử Cảnh và Thuận Thiên, mẹ vua Minh Mạng).

Bà Ngọc Bình sinh được bốn người con. Hai hoàng tử là Quảng Oai công Nguyễn Phúc Quân (1809) và Thường Tín công Nguyễn Phúc Cự (1810). Hai công chúa là Mỹ Khê Ngọc Khuê và An Nghĩa Ngọc Ngôn. Đức phi Ngọc Bình mất vào năm 1810, sau khi sinh hoàng tử Phúc Cự. Năm ấy bà mới 27 tuổi.

Sách Quốc sử di biên và một số tư liệu khác cho hay, chị em Ngọc Hân và Ngọc Bình có nhiều điểm tương đồng rất căn bản. Hai bà đều là công chúa con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, sinh trưởng ở ngoài Bắc; lớn lên hai bà đều lấy chồng là hoàng đế nhà Tây Sơn, nghĩa là cả hai bà đều là hoàng hậu Phú Xuân. Do đó, những câu chuyện truyền tụng về cuộc đời hai bà cứ đan kết vào nhau, theo không gian và thời gian mà dần dà thay đổi, để rồi lẫn lộn và cuối cùng, chuyện có thật về người này trở thành huyền thoại của người kia. Nói rõ hơn, công chúa Lê Ngọc Bình chính là người phụ nữ lạ thường “con vua lại lấy hai đời chồng vua”.

Read Full Post »