Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Nam Thi’

 

Nam Thi

 

Ngày đầu về lại căn nhà cũ…

 

Thanh nhận ra giếng sau nhà đã được làm mới. Đó là cái giếng cổ, có lẽ được đào từ khi ông cao tổ của anh chuyển từ Kiên Thạnh lên Vĩnh An khai phá vùng đất trên bờ Bắc sông Côn nầy, như vậy đến đời anh  nó đã trải qua mười hai đời kể từ cuối thế kỷ 17. Đó là theo lời truyền khẩu trong dòng họ. Khi Thanh còn bé thành giếng và nền giếng tô bằng vôi, bong tróc nhiều chỗ phơi lộ những viên gạch thẻ.

(more…)

Read Full Post »

Mơ gặp mẹ

Nam Thi

 
.
Dầu con biết
mẹ đã qua đời
con vẫn thèm được gọi: “MẸ ƠI…”
 .
Sáu mươi năm xa mẹ
dằng dặt đời người dâu bể
tóc con bạc trắng rồi
nếu mẹ gặp lại con
không biết mẹ còn nhìn ra con không nữa
đứa con bé bỏng của mẹ ngày xưa.
 .
Chiều nay như mọi chiều
con thắp hương và nhìn ảnh mẹ
con gọi thầm: ” MẸ ƠI…”
Giá như ngày nào mẹ con ta gặp lại
Mẹ ơi!
Con biết mẹ sẽ nhận ra con
đứa con một thời bé bỏng
 .
Chắc không còn xa
không còn xa
con được nghe mẹ hát:
“À ơi…con ơi con thét cho ngoan…”

 

Mùa Vu Lan 2012.

Read Full Post »

 

Nam Thi

 

Bạn học của tôi thuở ấu thơ ở Bình Khê, sau hơn nửa thế kỷ, nay không còn mấy người, số chết trận, số chết bịnh, chết già, số còn sống cũng gần đất xa trời. Còn các thầy cô chết gần hết. Tôi may mắn có ông thầy giáo làng, người khai tâm cho tôi – lúc trước gọi là “vỡ lòng”, nay gần tám mươi nhưng vẫn còn mạnh khỏe, đang sống ngay tại làng tôi, nhờ vậy mỗi lần về quê tôi lại được thăm thầy và được thầy xem như một người bạn có thể hàn huyên tâm sự. Đó là thầy Trần Đắc.

(more…)

Read Full Post »

Đồng hành

Nam  Thi.

 

Thủy  đến ga Hòa Hưng vào lúc hơn mười một giờ khuya để đáp chuyến tàu tốc hành Nam-Bắc SE 4 khởi hành lúc 23:45. Nàng kéo lê chiếc va-li nhỏ đi ngược về phía đầu máy để tìm toa số 8. Một trong hai bánh xe nhựa của va-li bị kẹt thế nào đó không lăn được, mài xuống sàn xi-măng kêu sột soạt khiến nàng phải dừng lại. Cố tìm cách sửa nhưng thất bại, cuối cùng nàng đóng tay kéo lại để xách tay. Cũng may va-li nhẹ vì chỉ có mấy bộ quần áo, mỹ phẩm, thuốc uống và những thứ lỉnh kỉnh khác.

(more…)

Read Full Post »

Vĩnh biệt “Bôn”.

Nam Thi

 

KHI  tôi còn nhỏ học ở trường làng, khó khổ nhất của bài tập làm văn là nhập đề. Khi cắn cán bút lá tre tơi tả vẫn không tìm được ý để viết, chúng tôi thường vào bài với câu: “nhà em có nuôi một  con…” để tả con bò, con gà, con lợn… Ngay cả bài hát phổ biến trong các trường tiểu hóc lúc đó cũng có câu nhập đề y chang: “em có nuôi một con chó, trông nó ngoan như con …bò. Mai nó kêu quấu quấu quấu, trưa nó kêu quâu quâu quâu, chiếu nó kêu quầu quầu quầu…”. Ca từ chỉ có thế, đễ thuột, dễ “hét” đến khan cổ sau mỗi buổi học. (more…)

Read Full Post »

Bú Dạo

Nam  Thi

 

                   * Để biết ơn những người mẹ nhân ngày Quốc Tế Phụ Nữ 8-3

Ngày đầy tháng của cháu ngoại. Mới bốn giờ sáng bà Tâm đã thức dậy nấu nước pha trà, cà-phê chờ con rể đi đón chồng ở ga Hòa Hưng. Ông đi trên chuyến tàu tốc hành từ ga Diêu Trì. Hôm nghe tin con gái chuyển bụng bà cũng vội vội vàng vàng đáp cùng chuyến tàu đêm ấy tốc hành từ Hà Nội xuôi Nam.

Mẹ con Tuyết ngủ trong phòng. Đêm qua cháu bé ngủ say không quấy mẹ và bà ngoại. Trong khi chờ chồng, bà chuẩn bị sẵn thau tắm, tã lót, khăn bông,… để làm vệ sinh cho cháu mỗi sáng. Bà phải làm quen với những đồ dùng cho trẻ sơ sinh mà thời bà sinh con không có, chẳng hạn dụng cụ thanh trùng dùng cho bình sữa, ấm điện – bà gọi “ấm” vì loại thiết bị nầy chưa có tên Việt – dùng để hâm nóng sữa ướp lạnh đến 37 độ, nhiệt độ vốn có của sữa mẹ, thì tự động ngắt điện. Cách cho con bú sữa mẹ bây giờ cũng khác, vừa cho con bú trực tiếp vú mẹ vừa nặn sữa ra bình đem để tủ lạnh để mỗi khi cháu bé đói thì kịp đem hâm cho bú. Lần đầu thấy con nặn sữa ra bình, bà tò mò hỏi con, Tuyết giải thích rằng trẻ bú vú mẹ khó kiểm soát lượng sữa cần bú, nếu mẹ thiếu sữa thì có thể bù thêm bằng sữa bột để đảm bảo bé bú đủ và khi mẹ trở lại làm việc sau bốn tháng nghỉ hộ sản thì có thể vắt sữa cho vào tủ lạnh ở chỗ làm cuối buổi mang về. Cháu bé sẽ quen lần bú bình để khi xa mẹ thì vẫn bú no bằng bình. Còn nhiều thứ quy trình nuôi trẻ khác phải tuân thủ như đi khám định kỳ để tiêm chủng, cân thể trọng, đo chiều dài cơ thể, vân vân và vân vân tuy thời trước cũng có nhưng sơ sài hơn thậm chí thô thiển như bỏ trẻ vô giỏ để cân bằng cái cân hàng thịt.

Con rể bà vốn là kỹ sư tin học đã dựng một trang webblog riêng cho cháu bé rồi chụp hình, quay video từ khi mới lọt lòng mẹ ở bịnh viện, rồi cập nhật hàng tuần …để cháu không chỉ bắt đầu hiện diện trên đời thật mà còn xuất hiện cả trên không gian ảo. Nhau thai của cháu được gửi vào “ngân hàng” để giữ lại tế bào gốc đề phòng có khi dùng đến. Sau nầy, khái niệm về “nơi chôn nhau cắt rốn” chắc vĩnh viễn thuộc về quá khứ xa xôi. Chi mấy chục triệu cho một lần sinh, thế cũng đáng đồng tiến bát gạo. Chỉ tiếc sự chăm lo cho thế hệ sau như thế biết bao giờ mới phổ cập. Sự khác biệt giữa bà mụ vườn thời của bà, bệnh viện Từ Dũ thời các con bà với bệnh viện phụ sản “dịch vụ” và quốc tế ở Sài Gòn …thật khó tin nhưng đó là sự thật.

Giá  thời bà nuôi con mọn mà có những kỹ thuật và phương tiện như bây giờ thì đỡ vất vả cho cả mẹ lẫn con. Đầu năm 1983 khi sinh Tuyết bà phải dùng lại mấy cái tã lót bằng vải thô cứng như mo cau của Mai, chị của Tuyết, thêm mấy cái khác cắt ra từ áo cũ của bà và của chồng. Mỗi tháng được phiếu mua hai lon sữa đặc “Ông Tho”. Sau tháng thứ tư, nếu mẹ mất sữa có giấy chứng nhận của bệnh viện thì mới được tiếp tục mua hai lon sữa đặc. Bà vốn không thiếu sữa, may nhờ chị em trong cơ quan mách “mánh” làm cho mất sữa tạm thời khi đi khám. Nói là “mánh” nhưng thật ra chỉ lấy mủ lá vú sữa bôi vào núm vú mẹ thì nặn mấy sữa cũng không chảy ra. Cảm ơn trời đất đã sinh ra loài cây ấy, trái thì như vú căn đầy sữa ngọt nhưng mủ thì ngăn dòng sữa để người mẹ “mất sữa” một cách kỳ diệu như trò ảo thuật. Nhưng cũng phải cảm ơn cô y tá rất nhiều vì cô chỉ cần liếc qua chiếu lệ hai bầu sữa căng cứng của bà, rồi ghi xác nhận “mất sữa”. Có lẽ, cô biết quá rõ các mánh giả mất sữa nhưng cũng là một người mẹ cô dễ dàng “thông cảm”, và biết đâu bản thân cô cũng từng mánh tương tự. Với hai lon sữa mua ở cửa hàng bách hóa quốc doanh hay hợp tác xã tiêu thụ Phường đem bán ra chợ trời có thể mua được mấy lạng thịt bò nấu xúp cho trẻ ăn dặm.

Trong khi bà đang miên man với những hồi ức về ba thập kỷ trước thì con rể rước chồng bà về tới. Tuyết nghe tiếng cha, bồng con trai ra chào ông ngoại. Đứa bé vẫn say ngủ. Ông muốn bồng cháu nhưng sợ đánh thức nó nên hối con gái đưa cháu vào phòng để khỏi lỡ giấc nó. Sau khi giao cho chồng canh con, Tuyết bắt đầu vắt sữa với những dụng cụ đã được mẹ nàng chuẩn bị sẵn.

 

Hai vợ chồng già xa nhau gần cả tháng. Họ chia với nhau phin và-phê nóng như lúc còn ở ngoài quê.

– Bà coi bộ hơi ốm…, ông khẽ bảo.

– Tôi vẫn thấy bình thường mà…Nói thế nhưng bà biết mình gầy đi vì thiếu ngủ, bận bịu chăm sóc cháu bé, thay con nấu nướng, giặt giũ và mọi việc linh tinh khác trong nhà.

– Con Tuyết có đủ sữa không? Ông hỏi.

– Đủ. Bây giờ thiếu sữa mẹ thì có sữa bột đủ loại theo lứa tuổi, chỉ sợ thiếu tiền để mua…Đâu có như thời của mình … Bà bảo chồng.

Có lẽ, cũng như bà sữa là mối lo hàng đầu đã ăn sâu vào tiềm thức của ông. Không chỉ việc “chạy sữa” cho con nhọc nhằn khi họ làm cha mẹ mà còn là nỗi ám ảnh từ thuở họ còn ấu thơ hơn nửa thế kỷ trước. Thuở ấy, ở vùng kháng chiến tuyệt không có sữa bò…

Mẹ bà mất sữa khi sinh bà, nhưng may mắn người chị dâu cả cũng sinh con nên bà có thể bú ké với cháu. Còn mẹ ông cũng mất sữa ngay những tuần đầu và ông phải đi bú dạo khắp xóm. Những bà mẹ quê tốt bụng trên đường ra ruộng hoặc ở lối xóm khi nghe ông đói sữa khóc thét họ ghé nhà cho ông bú nhờ. Riêng thím Bốn Toại mất con khi đứa bé chỉ vài tháng tuổi thường xuyên cho ông bú. Có lẽ nhờ vậy thím bớt bị căng sữa và nguôi ngoai nỗi nhớ con.

Ông sống và lớn được nhờ bú dạo. Thế nhưng, trong đời điều ân hận nhất của ông là chưa một lần thăm nom thím Bốn. Khi ông biết nghĩ đến điều ơn nghĩa cũ thì thím đã qua đời âm thầm ở chốn quê mà ông đã rời xa.*

Nam Thi

04-3-2012

 

Read Full Post »

Nam Thi

ÔNG Phương cột xong chiếc võng vải giữa hai thân cây bạch đàn, thẩn thờ nhìn theo ba người đồng hành đang tìm đường leo lên đỉnh núi Chóp Vàng. Họ đã vượt dốc núi 45 độ cách chỗ ông dừng lại vài trăm mét và sẽ vòng sang sườn phía Nam thoải hơn để lên đỉnh. Họ gồm ba người: cô Minh, học trò cũ của ông ở trung học mấy chục năm trước, nay là chuyên viên khảo cổ; Hùng, con trai ông, kỹ sư tin học và ông Ba Xuân, nông dân địa phương, người dẫn đường, bạn thiếu thời của ông.

Gieo mình xuống võng, ông cố điều hòa hơi thở nhưng vẫn thấy đau nhoi nhói ở vùng ngực trái. Từ lâu bác sỹ đã cảnh báo tim ông có vấn đề và ông thường xuyên uống thuốc phòng ngừa mỗi sáng. Cũng là chuyện bình thường của người trên sáu mươi. Ông cảm thấy yên tâm vì trước khi lên đường ông đã uống một viên natrilix. Nằm trên võng ông có thể nhìn bầu trời xanh xuyên qua những cành lá bạch đàn thưa thớt không đủ che ánh mặt trời buổi sáng dọi xuống. Khi nhoài người qua thành võng để lấy chai nước, ông thấy một đàn kiến đen từ trong đám lá ủ bò ra. Ông thoáng ngạc nhiên vì không hiểu lũ kiến đánh hơi thấy mùi gì mà kéo đến nhanh thế, trong khi không rơi vãi bất cứ thứ gì chúng có thể ăn được do ông và các bạn đồng hành mang đến. Hay giản đơn chỉ là mùi người. Ông hơi chột dạ khi nhớ lại lũ kiến rừng đã ăn sạch những xác chết của người và và thú vật ở những bãi chiến trường mà ông đã đi qua thời trai trẻ, chỉ chừa lại những bộ xương trắng hếu.

Ông nhận ra một con đầu đàn với hai cái râu dài như hai cái antenne đang dò đường. Rồi thêm mấy con đầu đàn khác. Có thể dễ dàng phân biệt chúng với lũ kiến thợ vì chúng to con hơn, đen hơn. Chỉ một lát sau, theo tín hiệu của những con đầu đàn lũ kiến bu lại ngày càng đông quanh cái áo gió ông còn vất dưới đất. Ông vói tay lấy cái áo lên giũ cho sạch kiến. Chợt nhớ kinh nghiệm thời chiến, ông chu miệng phun nước bọt để làm mất phương hướng đàn kiến vì nước bọt làm nhòe những tín hiệu hóa học do những con đầu đàn để lại (1). Lũ kiến nháo nhác chạy lung tung nhưng rồi chúng lại tập hợp theo những lộ trình mới. Ông lại tiếp tục phun nước bọt. Nhưng nước bọt của ông ngày càng ít và loãng nên mất dần tác dụng. Vả lại ông cảm thấy mệt nên không muốn tiếp tục chơi trò vờn nhau với chúng. Ông nằm im trên võng nhìn những đám mây trắng lướt qua bầu trời xanh mặc cho lũ kiến nhung nhúc dưới đất…

Lúc nãy, lên tới lưng chừng núi, có lẽ ở độ cao hơn 200 m, ông cảm thấy mệt lã, hụt hơi, mồ hôi vã ra, … Thấy ông tụt lại, Hùng quay lại dìu ông tiến lên. Cuối cùng, ông biết mình không thể tiếp tục theo đoàn vì phía trước triền núi ngày càng dựng, nếu ông có bề gì thì phiền phức cho cả đoàn. Tuy thất vọng, nhưng ông còn đủ tỉnh táo chấp nhận sự bất lực của mình. Từ khi có ý định leo lên đỉnh núi nầy, ông đã chịu khó tập đi bộ mỗi sáng, tăng dần thời gian từ 30 phút đến 90 phút. Nhưng ông không lường trước sự khác nhau giữa đi bộ trên đường làng bằng phẳng và leo núi cao chớm chở. Ông cứ nghĩ rằng mình thừa kinh nghiệm leo núi vì trong thời chiến tranh, ông đã từng vượt bao đèo cao, núi thẳm còn cheo leo hơn hòn núi Chóp Vàng chỉ cao hơn 350m so với mực nước biển.

“ Tôi không leo nổi nữa – ông nói với đoàn. Nhưng các bạn cứ leo tiếp. Tôi nằm lại đây chờ…”. Hùng muốn ở lại chăm sóc cha nhưng ông biết con trai ông từ lâu muốn có dịp lên đỉnh núi nầy, có lẽ do sự tò mò thôi thúc khi nghe ông nói về sự tích (2) rằng trên đỉnh Chóp Vàng có dấu vết thành Uất Trì của người Chăm, nơi nhân vật huyền thoại Chàng Lía chọn làm nơi trú ẩn sau khi chạy khỏi Truông Mây, nên Uất Trì cũng được gọi là thành Chàng Lía. Truyền thuyết còn kể rằng Lía đã từ đỉnh núi ném một cái mâm đồng làm điểm tựa để phi thân, cõng theo xác mẹ  về chôn ở một đỉnh núi trên thượng nguồn sông Côn…Ông Ba Xuân tình nguyện dẫn đường và quả quyết ông đã mấy lần lên tới đỉnh Chóp Vàng, tận mắt thấy những viên gạch Chăm và những cây ăn trái. Một số người dân quê ông cũng nói như vậy.

Ông Phương giục con tiếp tục leo lên đỉnh vì nghĩ rằng mình không thực hiện được ước mơ thì con trai ông phải thay ông đặt chân lên đó rồi mang về cho ông vài tấm ảnh, mấy mẩu gạch vỡ…coi như ông đã đạt sở nguyện. Hơn nữa, không thể vì ông mà  Minh bỏ lỡ cơ hội khám phá một di chỉ do chính ông giới thiệu. Trong mấy năm qua, sau khi nghỉ hưu, quay về sống ở quê nhà, Minh đã hướng dẫn ông nghiên cứu tài liệu khảo cổ học và đưa ông đi điền dã dài ngày ở nhiều nơi. Đó là niềm vui mới của ông. Trước kia ông là thầy dạy chữ của Minh nhưng sau nầy Minh lại là cô giáo của ông về môn khảo cổ. Họ đã chia sẻ với nhau niềm vui khi đào bới các lớp đất, phát hiện những cái rìu đá, những miểng sành, những mảnh xương, những vỏ sò… lưu lại từ hàng nghìn năm trước. Căn nhà cổ của ông bên bờ Bắc Sông Côn trở thành một bảo tàng nho nhỏ của họ. Từ hiên nhà,  Minh và ông bao lần nhìn lên đỉnh Chóp Vàng mây phủ buổi sáng mùa Đông, vàng hực nắng chiều mùa Hạ. Ngọn núi và những truyền thuyết về nó đã nối kết ước mơ của họ, thúc giục họ phải cùng nhau lên tận đó…

Nhiều lần ông nghĩ rằng leo lên đỉnh núi đó là mục tiêu phấn đấu cuối cùng của đời ông sau khi đã hoàn thành những mục tiêu cho bản thân, gia đình và xã hội. Con người luôn đề ra những mục tiêu để theo đuổi, thiếu vắng mục tiêu cuộc sống sẽ hụt hẫng, nhàm chán. Đó không chỉ là mục tiêu mà còn là mơ ước của ông từ tấm bé. Ông vẫn thường mường tượng những nền tháp hoang phế, những viên gạch vỡ lẩn khuất trong đám cỏ tranh, những cây xoài hoang trái nhỏ chua lét,…Hồi còn trai trẻ, ông có thể dễ dàng leo những ngọn núi còn cao hơn Chóp Vàng nhưng thời ấy không ai dám đi sâu vào núi vài km từ quốc lộ 19, hơn nữa ông đã bỏ quê vào Nam đã lâu…

Thế mà giờ đây ông đành chấp nhận dừng lại ở lưng chừng núi. Trước khi chia tay, Minh kề sát tai ông bảo nhỏ, “ Em thay anh lên đó và sẽ mang về cho anh một món quà đặc biệt…”. Đó là lần đầu tiên Minh xưng anh-em với ông, thay cho “thầy-em” từ ngày họ gặp lại. Từ khi vợ ông qua đời ông chưa được nghe tiếng anh-em từ một người phụ nữ nào, vừa ngọt ngào vừa nồng nàn, vừa quen thuộc lại vừa lạ lẫm như nghe nhịp tim của mình thì thầm trong lồng ngực…

TỐT nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn năm 1971, ông được bổ về dạy ở Trường Nữ Trung hoc tỉnh và Minh là học trò của ông ở lớp Đệ Ngũ. Sau “mùa hè đỏ lửa”1972, có lệnh tổng động viên. Vốn là một sinh viên tranh đấu ở Sài Gòn, thời thế buộc ông phải chọn lựa cầm khẩu súng nào. Ông đã trở lại Sài Gòn liên hệ với bạn bè cũ mà ông biết là người của MTDTGP, rồi thoát ly. Hòa bình lập lại, ông trở lại với nghề giáo. Trai thời loạn thì phải cầm súng, hết giặc là “giã từ vũ khí”, trở về với đời thường. Sau mấy mươi năm đứng lớp, ông về hưu và quay về sống ở căn nhà tổ tiên  bên bờ sông Côn. Các con ông đã thành gia thất, chỉ có Hùng vẫn còn độc thân lại làm nghề “tự do” nên thường về quê thăm ông khi vài ba hôm, khi vài tuần. Ông bảo các con rằng khi nào ông thấy không còn tự lo được ông sẽ về Sài Gòn để các con tiện chăm sóc. Khi còn đủ sức khỏe, ông muốn sống quãng đời còn lại không bị ràng buộc, câu thúc nào.

Về quê được ít lâu thì Minh và vài học trò cũ khác tìm đến thăm ông. Minh đã là mẹ của hai con gái đang học đại học ở Sài Gòn. Chồng Minh là một chủ lò gạch, không may bị tử nạn giao thông. Minh phải từ nhiệm ở Viện Khảo cổ nhưng vẫn làm cộng tác viên không ăn lương. Minh vừa điều hành công việc kinh doanh của chồng vừa tiếp tục theo đuổi ngành khảo cổ. Ngoài thời gian đi điền dã, Minh còn dự những hội nghị, hội thảo chuyên ngành. Ông giúp Minh chuẩn bị tài liệu báo cáo, tham luận như một phụ tá cần mẫn. Minh thường nấu thức ăn tự tay hoặc sai người nhà mang đến cho ông. Đôi khi hai người cùng ăn cơm với nhau. Sự có mặt của Minh khiến cuộc sống của ông đàng hoàng hơn, vui tươi hơn.

Công việc thường trực ở lò gạch Minh  nhờ cậu em chồng giúp. Không biết làm thế nào Minh có thể phân thân cho hai công việc tréo ngoe như thế; việc nầy thì cạnh tranh, tính toán lời lỗ chi ly, việc kia thì tĩnh lặng, phi lợi nhuận. Càng gần Minh, ông càng hiểu rằng trong kinh doanh Minh kiếm tiền nhưng không đam mê, ngược lại Minh theo đuổi ngành khảo cổ chỉ vì đam mê. Minh đã truyền sự đam mê cho ông. Sâu xa hơn, Minh đem lại sự ấm áp cho mùa Đông của đời ông…Ông không muốn phân biệt đó là tình yêu hay nhu cầu có nhau. Chắc là cả hai. Và ông cảm nhận Minh cũng thế, dẫu rằng họ chưa bao giờ đả động gì về tình cảm.

“Em thay anh lên đó và sẽ mang xuống cho anh một món quà đặc biệt…”. Lời thì thào của Minh làm ông xao xuyến. Ông dường như còn nghe văng vẳng bên tai khi nhìn theo bóng Minh mất hút ở sườn núi phía Nam. Ông mỉm cười một mình.

Ông lấy áo khoác phủ lên mặt để che nắng và chợp mắt.

KHI Minh, Hùng và ông Xuân quay xuống chỗ ông Phương nằm, lũ kiến đã bu đen kín mặt đất dưới chiếc võng; chúng  leo lên hai thân cây bạch đàn và theo dây võng bò lên khắp thân thể lạnh ngắt của ông, nhiều con bám vào mặt, mũi và đôi mắt khép kín của ông.

– Anh ơi!…Tiếng Minh thảng thốt nghẹn ngào vang vọng rừng bạch đàn.

Minh chưa kịp trao cho ông Phương “món quà đặc biệt” như đã hứa lúc chia tay…Ngoài Minh, vĩnh viễn không ai biết đó là thứ quà gì.

Chiều đã ngã bóng trên đỉnh Chóp Vàng.*

Nguyên Tiêu- Nhâm Thìn (06-02-2012)

(1)   Hóa chất pheromone

(2)“Nước Non Bình Định”- Quách Tấn.

Read Full Post »

Con ngựa già của cha tôi

Nam Thi


HỞI là tên con ngựa già của cha tôi. Đó là con ngựa duy nhất mà tôi đã cỡi trong đời. Tôi chỉ nhớ tên nó, ngoài ra không biết gì về hình dung, vóc dáng của nó. Nghe mọi người nói lại, nó là một con ngựa hồng vì có màu lông nâu đỏ. Có lẽ, trong ngôn ngữ Việt Nam hiện đại, cách gọi khác nhau dựa trên màu lông của ngựa, của mèo, của gà, của chó…ít người còn phân biệt được, chẳng hạn ngựa có lông trắng gọi là ngựa “kim”, có lông đen là ngựa “ô” và con Hởi nhà tôi là ngựa “hồng”.

Tôi không nhớ gì về con Hởi không phải do tôi vô tình hay vì trí nhớ kém. Tôi với nó từng chung sống dưới một mái nhà của cha tôi cách nay đã hơn nửa thế kỷ rồi còn gì. Vả lại, lúc Hởi rời bỏ gia đình tôi để đi xa, tôi mới khoảng hai tháng tuổi.

Tôi là con trai duy nhất trong gia đình nên đã tập tành lễ nghi cúng quải ông bà, cha mẹ từ lúc tôi còn học tiểu học. Khi mẹ tôi qua đời, tôi đã trở thành người chủ tế. Đó là một nhiệm vụ vừa thiêng liêng vừa khó khăn đối với một đứa trẻ lên mười. Theo lệ có từ khi mẹ tôi còn sống, ngày giỗ cha tôi bao giờ cũng có một mâm cơm đặt bên cạnh bàn thờ cha tôi để cúng chú Trị và con Hởi. Sau khi khấn lạy cha tôi, tôi sang thắp hương lạy cái bàn thờ phụ ấy, lâm râm khấn chú Trị và con Hởi “sống khôn thác thiêng…”.

Người và ngựa không thể nào xếp chung một mâm được nhưng biết làm sao được vì con Hởi và chú Trị là bạn chí cốt của ba tôi trong những năm cuối đời, cả hai cùng đi với nhau một chuyến cuối cùng và cùng chết một lần. Và chắc chắn ngoài gia đình tôi, không còn ai trên đời cúng giỗ họ. Con Hởi là giống ngựa không được ai cúng giỗ đã đành, còn chú Trị lại là một con người đáng được gọi là sống khôn thác thiêng. Đó là những suy xét, đánh giá của tôi về họ khi tôi đã trưởng thành. Lúc còn bé có lần tôi đã mang một nắm cỏ tươi và một chén cám đặt lên mâm để cúng con Hởi vì tôi cho rằng cơm, cá, thịt và rượu chỉ dành cho chú Trị. Bởi lúc ấy tôi còn giản đơn phân biệt giữa người và ngựa, sau này tôi mới nhận ra những đức tính chung của “họ” là sự trung thành và thương yêu mà cả hai đã dành cho nhau và cho cha tôi. Chính vì thế họ trở thành bình đẳng trong lòng tôi.

Sau gần chín năm bị thực dân Pháp đày đi Lao Bảo, ba tôi bị chỉ định cư trú ở quâ nhà vào giữa những năm ba mươi của thế kỷ trước – thời đó người ta gọi là “an trí”, có nghĩa là hạn chế đi lại, tiếp xúc, làm việc. Cha tôi không thể trở lại Sài Gòn để viết báo, đành phải xin ông nội tôi ít vốn liếng để vào tận Rộc Trịnh, một vùng núi sâu hiểm trở Bắc Tây Sơn, để khai thác dầu rái lấy từ cây họ dầu mọc tự nhiên thành rừng nguyên sinh. Thời đó dầu rái có nhiều công dụng: có thể dùng để trét thuyền nan và đốt đèn. Trong thời kháng chiến chống Pháp ở quê tôi tuyệt không có dầu lửa, còn dầu phụng không có để ăn thì lấy đâu ra để thắp đèn. Người ta lấy lá cọ cuốn dầu rái thành từng cây to bằng cổ tay người lớn, dài khoảng hai gang tay để đốt. Người ta quen gọi là “đèn chai” nhưng với kích thước đó thì gọi bằng đuốc cũng được. Bình thường, chỉ có nhà nghèo mới thắp loại đèn này vì nhà khá giả đã có đèn dầu lửa, dầu phụng. Cho nên, mới có câu tục ngữ mô tả thân phận kẻ cùng đinh làm thuê, ở đợ: “ ăn cơm nguội, ngủ nhà ngoài, thắp đèn chai, đánh cờ chó”.

Trong hoàn cảnh “anh hùng mạt vận” ấy, con Hởi và chú Trị đã cùng cha tôi trèo đèo lội suối, ngày đêm có nhau. Chú Trị là một nông dân Nghệ An cùng ở tù chung với cha tôi ở Lao Bảo. Chú không có gia đình vợ con, tứ cố vô thân, nên đã hẹn với cha tôi khi nào ra tù thì tìm vào Tây Sơn sống với gia đình tôi. Chú trẻ hơn cha tôi, lại là nông dân khỏe mạnh nên gánh vác mọi công việc nặng nhọc của gia đình tôi. Chú lại giỏi dạy ngựa nên đã huấn luyện con Hởi từ khi nó mới được mua về. Sau này, tôi nghe kể lại rằng Hởi có thể tự ra gò trước nhà ăn cỏ, khi nghe chú Trị hoặc cha tôi huýt sáo là nó tự về chuồng. Nhiều lần đi đường xa, cha tôi hay chú Trị ngủ quên trên mình ngựa do quá mỏi mệt, con Hởi vẫn đưa họ về tới nhà an toàn. Có thể người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ nhưng chắc chắn Hởi là một con ngựa quý được chú Trị huấn luyện thuần thục.

Cách mạng Tháng Tám thành công, cha tôi và chú Trị thực sự được sổ lồng, bỏ hết công việc làm ăn để tham gia công tác ở địa phương. Sau khi ra tù cha tôi đã lập gia đình và đã có ba con gái, mãi đến năm 1947 mới “kiếm” được chút con trai “cầu tự” (là tôi). Với ông, mọi sự như thế là chu toàn: đất nước được độc lập, gia đình êm ấm. Cha tôi muốn gấy dựng cho chú Trị một mái ấm riêng, nhưng chú nhất quyết từ chối lấy bà cô họ của tôi do cha tôi mai mối vì chú không muốn “bận bịu thê nhi”.

Như mọi người đều biết, quân Pháp đã theo chân quân Anh-Ấn để chiếm lại Sài Gòn rồi lấn dần ra miền Trung và cao nguyên. Nhà tôi ở Tây Sơn cách Quy Nhơn hơn 40 km về hướng Tây, núi non hiểm trở, quốc lộ 19 là độc đạo đã bị đào đường, phá cầu nên quân Pháp không từ biển tiến lên được. Đôi lần bọn đóng đồn ở An Khê cố vượt đèo nống xuống đồng bằng nhưng đều bị chận đánh phải quay về. Vì vậy, suốt cuộc kháng chiến chống Pháp quê tôi luôn là vùng tự do. Chỉ có điều phiền phức là mỗi khi có tin quân Pháp hành quân lấn chiếm thì toàn dân phải bồng bế nhau tản cư sâu vào trong vùng núi Bắc sông Côn, thực hiện tiêu thổ, “vườn không nhà trống”.

Chính trong một lần tản cư đầu năm 1947, mẹ tôi mới sinh tôi, bà bế tôi ngồi trên ngựa do cha tôi dắt cùng với chú Trị gồng gánh lội bộ hơn 10 km từ xóm làng ở bờ sông Côn vào tạm trú ở lán trại khai thác dầu rái của cha tôi trong Rộc Trịnh. Đó là lần đầu tiên và duy nhất tôi được đi ngựa với mẹ tôi. Lúc đó tôi vừa đầy tháng.

Sau khi đến nơi, cha tôi cỡi con Hởi quay về nhà để lấy thêm đồ đạt và chở nước giếng cho vợ con uống vì nước suối rất độc. Khi cha tôi trên đường trở về trại thì trời đã tối lại mưa to. Bỗng có tiếng cọp gầm rất gần con đường mòn mà cha tôi đang đi, con Hởi giật mình tung vó, ném cha tôi giữa rừng. Cha tôi bị thương nặng. Con Hởi chạy một đoạn đường, rồi quay lại chỗ cha tôi ngã nhưng ông không còn đủ sức leo lên mình ngựa. Không biết do nó khôn ngoan hay do cha tôi ra lịnh, con Hởi bỏ cha tôi ở đó, phóng về trại để báo tin. Thấy ngựa về không có người, mọi người biết cha tôi đã gặp nạn giữa đường. Chú Trị vội nhảy lên ngựa đi tìm cha tôi. Ông được đưa về, được cấp cứu bằng xoa bóp thuốc võ gia truyền, uống mật gấu pha với sữa của mẹ tôi. Chỉ thế thôi vì trong hoàn cảnh ấy làm gì hơn được. Khi hồi cư về nhà ông đã hôn mê rồi qua đời mấy tuần sau.

Vài tháng sau, chú Trị xung phong đi bộ đội Việt Minh. Tôi nghe kể lại rằng mấy ngày trước khi lên đường, chú tìm cắt cỏ non, pha cám với nước mật mía cho con Hởi uống, đêm nào chú cũng mắc võng ngủ ở hiên chuồng ngựa. Đến lúc chú khăn gói ra đi, con Hởi đang ăn cỏ dưới bóng cây xoài, đã bứt dây chạy theo. Chú áp má vào đầu ngựa khóc ngon lành, bịn rịn không bứt ra đi được. Thấy người và ngựa quyến luyến nhau như thế, mẹ tôi nài nỉ chú đem con Hởi theo “cho có bạn” với chú và cũng có ích cho bộ đội.

Thế là con ngựa già của cha tôi cùng chú Trị ra chiến trường. Có lẽ, vong linh của cha tôi cũng đồng tình với quyết định của mẹ tôi không chỉ vì cống hiến cho kháng chiến mà còn vì chú và Hởi là đôi bạn không thể chia lìa. Vả lại, không có chú Trị còn ai chăm nom nó, nỡ nào bán nó đi.

Vào mùa Đông năm ấy, một anh bộ đội ghé qua nhà báo tin chú Trị đã hy sinh cùng với con Hởi trên chiến trường cao nguyên. Theo lời kể của anh bộ đội, trong một chuyến công tác gần đồn Tú Thủy (An Khê), chú Trị rơi vào ổ phục kích của quân Pháp, chú bị trúng đạn té từ lưng ngựa xuống con suối cạn nhưng bị thương không nặng. Lẽ ra chú có thể men theo con suối vào rừng rậm để thoát thân nhưng con Hởi không chịu bỏ chú, cứ quanh quẩn chỗ chú ẩn mình. Bọn Tây phát hiện con ngựa và tập trung hỏa lực vào nó. Chú Trị trúng thêm đạn và hy sinh bên cạnh xác con Hởi.

Không ai trách được Hởi vì dẫu sao nó cũng là một con ngựa. Vi chết cùng ngày nên nó được cúng giỗ chung với chú Trị nhưng anh bộ đội báo tin không cho biết đích xác ngày “họ” hy sinh nên đành lấy ngày húy kỵ  của cha tôi làm ngày giỗ của họ.  Có lẽ Hởi là con ngựa duy nhất mà tôi biết được cúng giỗ.

Read Full Post »

Sau khi học yêu, Nam Thi chuyển sang …học vẽ  .
Từ hồi còn bé tẻo teo, Nam Thi đã yêu hội họa nhưng không có điều kiện học. Từ cuối năm ngoái tình cờ  thấy trên mạng nước ngoài có những bài học hội họa với các video clips hướng dẫn. Anh bắt đầu tự học và thực hành bằng màu nước  trên giấy couché của những tờ lịch cũ. Học từng bài : vẽ mây, nước, biển, núi, người…từng bước một, rồi ráp lại thành bức tranh. Lâu lâu, anh nhờ họa sỹ Lê Sa Long đến xem và chỉnh sửa.
Hôm nay,nhân sinh nhật lần thứ 20 nhân 3 cộng (+) , anh chọn một số bức tranh để trình làng coi như…”báo cáo kết quả học tập” với bà con xunau.org. Anh tâm sự: “Chỉ mong chia sẻ với bạn bè – trước đây bằng thơ, văn, nay bằng tranh. Cũng là a-ma-tơ, cũng chỉ cho dzui, cho qua ngày vọng tháng… thế thôi”.
Tranh của anh lấy cảm hứng từ những bài thơ, truyện của anh đã xuất hiện trên xunau như “Siêu nguyệt” (thơ), “Nàng Apsara đang yêu” ( truyện ngắn), “Tường rêu” ( truyện ngắn). Ngoài ra, anh đã “nhìn trộm” quý bà, quý cô ở quán ca-phê rồi về vẽ lại với ít nhiều tưởng tượng. Bức phong cảnh quán cà-phê vỉa hè chính là nơi mỗi sáng anh nhâm nhi với mấy người hàng xóm của anh.
Nhân ngày sinh nhật Nam Thi mời bà con xứ Nẫu  thưởng lãm nhé
Sáu Nẫu
 

Read Full Post »

Tường Rêu

NAM THI

 

Cuối cùng, ông Minh cũng phải đi đến quyết định cho đập bỏ bức tường Đông rêu phủ để xây lại. Ngay từ khi bàn chuyện đại tu căn nhà cổ, con trai ông cũng đã thưa với ông ý định đó. Cảnh, con trai ông, trình bày: “ Nhà mình xây đã hơn bảy mươi năm rồi, tuy đã sửa chữa nhiều lần, nhưng chỉ làm phần mái và dặm vá tường, nền. Theo con, lần nầy chủ yếu gia cố nền móng và xây tường, vì nhiều chỗ bị sụt lún và nứt bể. Phần nhà trên không thay đổi gì, giữ nguyên hai gian ba chái, bây giờ người ta quý nhà cổ như nhà mình. Nhưng con xin xây lại nhà dưới, đưa bếp lên phía Tây, chỗ nhà bếp hiện nay xây một phòng ngủ mới để có chỗ cho con cháu về thăm dịp giỗ, Tết…”. Nghe con trình bày ông thấy hợp lý nhưng còn đắn đo: “ Ba đồng ý phương án sửa chữa của con đối với nhà trên, nhưng phần nhà dưới để ba nghĩ thêm…Dời bếp là chuyện hệ trọng về phong thủy, hơn nữa không nên tốn kém nhiều…”.

Căn nhà của ông trải qua nhiều đời cha truyền con nối, tính từ thời ông cao đến ông đã bốn đời, trước nữa thì ông không rõ. Nay đã đến lúc bàn giao cho con trai ông tức thế hệ thứ năm. Tre già măng mọc. Vả lại con trai ông đã gần bốn mươi, cũng làm giáo chức như ông, là hiệu trưởng một trường trung học ở một huyện khác trong tỉnh. Lẽ ra ông có thể giao cho con lo liệu mọi việc nhưng ông muốn giữ nguyên trạng căn bếp với bức tường Đông. Căn bếp do cha mẹ ông xây, còn lưu năm tháng chạm trên đầu tường: Juillet, 1937. Tường được xây bằng gạch thẻ, tô bằng loại hồ truyền thống là hỗn hợp vôi tôi trộn với chất nhờn của lá bông bụt quết nhuyễn và mật đường mía. Lớp hồ nay bị bóc từng mảng lớn và nhiều viên gạch bị thối rữa vì ngấm nước mưa trong hàng mấy thập kỷ. Khoảng năm 1967, chiến trận lan tới làng nầy, ông Minh đưa cha mẹ, vợ con lên sống ở quận lỵ, nơi ông đang dạy học. Mái nhà bị sạt một góc vì trúng đạn cối, riêng bức tường Đông của căn bếp thì lỗ chỗ vết đạn tiểu liên. Chính những vết thương ban đầu ấy làm bức tường ngày càng lở lói trầm trọng, đến nay thì không còn cứu vãn được. Khi hồi cư, sửa laị nhà ông Minh đã không dặm vá bức tường một phần vì muốn lưu lại dấu vết chiến tranh nhưng lý do chính là ông không muốn dùng ciment hiện đại. Ông có ý định mua vôi tôi, mật mía làm hồ để bức tường không bị “lai” nhưng lần lữa chưa kịp làm thì không còn tìm đâu ra mật mía vì sau nầy người ta trồng mía dọc hai bờ sông Côn chỉ để bán cây cho nhà máy đường, không còn nấu đường truyền thống nữa. Ông viện ra chuyện phong thủy và tốn kém chỉ để hoãn binh thôi. Thật lòng, ông muốn giữ lại bức tường. Còn nước còn tát.

Trên một mảng tường lở cách mặt đất gần một mét, có mọc một cây bồ đề gần hai mươi năm tuổi rồi, nếu lâu lâu ông không tỉa bớt cành chắc nó đã sum sê lắm. Lúc đầu ông Minh định chặt bỏ nhưng ông nghĩ nó vô hại, chỉ sống ké phần ngoài của tường. Kể từ đó ông cắt tỉa, tạo dáng cho cây như đối với hàng chục cây bonsai đủ loại của ông. Gốc cây bồ đề ngày càng lớn, bộ rễ tua tủa, có cái to bằng ngón chân cái. Cây bồ đề đó có đủ ba yếu tố của nghệ thuật cây kiểng là “cổ, kỳ và Mỹ”. Nó đã được hơn hai mươi năm tuổi nên cũng khá “cổ”. Nó mọc trên tường, từ vết thương chiến tranh thì hẳn là “kỳ” rồi, còn “mỹ” tức cái đẹp là do bàn tay ông chăm sóc, cắt tỉa, tạo dáng.

Dưới chân tường là một hang chuột, có từ ngày gia đình ông hồi cư vào cuối thập niên 60 của thế kỷ trước. Bao nhiêu cố gắng xóa bỏ cái hang chuột nầy đều bất thành vì nó được lũ chuột láu lỉnh đào âm dưới đất chân tường, luồn vào trong nhà, thông ra ngoài bằng nhiều ngách, lấp cửa hang nầy thì hôm sau chúng trổ cửa khác, đổ hàng thùng nước cũng không ăn thua. Cuộc chiến giữa chuột và người kéo dài hàng chục năm, lũ chuột chịu nhiều tổn thất nhưng chúng vẫn bám trụ ở đó qua nhiều thế hệ. Cho đến nay, ông Minh đành chấp nhận sống chung với chúng. Hằng ngày ông vẫn thấy hai con chuột cống ra vào kiếm ăn ngay cả khi ông ngồi uống trà hay nằm tòn teng đọc sách, báo trên võng mắc dưới gốc cây xoài quỳ cạnh nhà. Quen dần, chúng giống như con chó, con mèo ông nuôi trong nhà, như cặp cu đất trưa nào cũng gáy trên đọt xoài, có khi ông còn vất ít cơm thừa cho chúng ngay trước miệng hang.

Từ khi về hưu, trừ những khi mưa dầm, lụt lội hằng ngày ông Minh quanh quẩn dưới bóng cây xoài quỳ, cành che phủ một góc bức tường Đông. Một bộ bàn ghế đá rửa để ông thù tạc với bạn bè. Một cái võng trân đã cũ móc giữa gốc xoài và trụ bê-tông hàng rào B40 để ông nghỉ lưng sau khi tưới vườn rau, cắt tỉa cây kiểng…Ông ngắm bức tường thay đổi theo mùa mưa nắng. Mùa khô hạn, thảm rêu biến mất, để lại những mảng, vệt màu xanh xám đậm nhạt khác nhau, nhìn kỹ sẽ lộ ra những bức tranh thủy mặc. Chỗ nầy là dòng sông chảy, núi xa mờ trên nền trời lớp lớp mây vần vũ. Chỗ kia là biển khơi dậy sóng, chỗ nọ là hình một đạo sỹ với tà áo bay bay… Bắt đầu cuối thu, khi có những trận mưa đầu mùa là thảm rêu hiện ra mịn màng như nhung, bắt đầu từ chân tường lan rộng lên, nối kết nhiều mảng nhỏ, rồi màu xanh biên biếc phủ gần nửa bức tường… Lá cây bồ đề hình trái tim cũng chuyển từ màu vàng nhạt sang xanh ngắt. Những sợi rễ đâm dài xuống tận mặt đất để hút no nước và chất dinh dưỡng dự trữ cho mùa khô hạn năm sau. Bầy chuột đông hơn, chiều tối kéo ra vườn kiếm ăn. Nếu chúng không tách bầy, hoặc bị dịch bệnh hay săn bắt có lẽ dân số đã tăng cả đàn cả đống.

Hồi còn học trung học ở Quy Nhơn, hễ đến nghỉ hè là ông tụ tập lũ trẻ lối xóm để kèm ôn tập bài vở và chơi với nhau đủ trò từ sáng đến chiều. Chỗ cây xoài quỳ bây giờ hồi đó là gốc vú sữa tán rộng sum sê bị bão làm trốc gốc. Đó là sân chơi của ông và lũ trẻ: đánh vụ, đánh đáo, chơi ô, đánh nẻ…Vợ ông sau nầy là một trong những đứa trẻ đó. Khi ông đã ra trường đi dạy mấy năm thì bà cũng vào trường Sư phạm Quy Nhơn, nơi ông từng theo học. Bà ra trường thì lấy ông. Dường như họ chưa từng nói một lời yêu đương vì tình yêu của họ đã có tự bao giờ, có bức tường làm chứng. Họ cưới nhau mà chẳng cần một lời tuyên bố hay đính ước. Bức ảnh đầu tiên của họ sau ngày cưới chụp trước bức tường xanh rêu ấy. Sau nầy, bức ảnh chụp với dâu, rể, cháu nội ngoại cũng lấy bức tường làm phông. Bức ảnh cuối cùng ông chụp chung với vợ trước ngày bà mất sáu tháng mười hai ngày. Bà được giải phẫu ung thư vú hơn sáu năm trước, sống thêm được gần hai năm thì mất. Hai vợ chồng đứng cạnh nhau trước bức tường rêu như hồi mới cưới, nhưng lần nầy có cây bồ đề làm cảnh. Ngay cả bây giờ, mỗi khi nằm trên võng ngắm bức tường rêu ông còn thấy hình ảnh vợ như mới hôm qua: bà chơi ô khi còn bé ở góc kia , bà mặc đồ bộ điểm hoa cà tim tím đi ra sau giếng khi mới về làm dâu …

Vợ mất, các con ở xa, ông sống một mình nhưng không cảm thấy cô đơn. Đối diện với bức tường , ông tìm thấy lại những gì đã trải qua trong gần bảy mươi năm cuộc đời của mình. Những đêm trăng sáng, ông thường ngồi trên ghế đá chơi đàn, tiếng đàn guitar của ông  dội vào bức tường loang loáng ánh trăng, rồi vang vọng mãi tận dòng sông trước nhà. Bức tường dường như lúc nào cũng lắng nghe và thấu hiểu như vợ ông thuở nào.

Ngày bức tường bị hạ, từ sáng sớm ông Minh bỏ đi thăm bạn ở làng bên. Trước khi đi ông dặn Cảnh cố cạy mảng vôi tường có khắc chìm năm tháng cha ông xây dựng nhà, Juillet 1937, để gắn lại khi tô tường mới. Cảnh biết cha mình cố tình lánh mặt để anh tự do xử lý công việc. Tuy anh không biết hết những nỗi niềm sâu kín của cha mình nhưng anh hiểu ông gắn bó với những kỷ niệm về căn nhà nầy mà bức tường rêu là gần gũi với ông nhất. Chính anh, ở tuổi bốn mươi, đã bắt đầu biết tha thiết với căn nhà tổ tiên nên đã chắc chiu mấy năm nay để về giúp cha tu sửa nó. Nhiều lần anh đã nghĩ một ngày nào đó anh sẽ trở về đây và không bao giờ muốn lìa xa nữa…

Chiều tối ông Minh đạp xe về nhà. Căn bếp đã được tháo dỡ. Bức tường Đông đã bị đập quá nửa, gạch vôi ngổn ngang trên mặt đất.

–  Sao không đập hết bức tường, làm không kịp à? Ông Minh hỏi con.

–  Không, ba. Con chừa lại đó… Cảnh đáp. Con sẽ cho thợ dùng máy cắt phần tường cũ cho thẳng , giữ lại khoảng 1,5m, cắt bớt  cho thấp xuống, rồi gia cố phần móng và xây trụ ốp hai bên cho chắc để làm kỷ niệm. Tường mới sẽ xây tụt vô trong 1,2m để làm hành lang, phần tường cũ sẽ làm bức bình phong. Con đã cho cắt cẩn thận phần tường có khắc năm ông nội xây nhà, tuy vậy nó cũng bể ra mấy mảnh nhưng có thể sắp lại như cũ khi gắn phía ngoài bình phong.

–  Thế à …Lòng ông Minh thoáng vui nhưng ông cố giữ không để lộ ra. Ông hỏi tiếp- Còn cây bồ đề?

–  À, cái nầy thì dễ mà. Con bứng nguyên gốc, rễ để ba làm cây bonsai. Thứ nầy dễ sống…

–  Còn lũ chuột? Vừa hỏi con xong, ông Minh tự thấy mình lẩm cẩm nhưng dẫu sao Cảnh cũng đã nghe. Anh cũng thoáng ngạc nhiên nhưng cố lấy giọng bình thường tường thuật lại:

–  Bức tường đổ làm động ổ, hai con chuột cống tung ra chạy, một con bị anh thợ đập chết tại chỗ, còn con kia chạy thoát. Anh giấu việc mấy chú thợ trẻ đã nướng con chuột để nhậu lúc nghỉ trưa.

–  Thế à…

Ông Minh lẩm bẩm: “ Thật tội nghiệp…”, nhưng tiếng ông nhỏ đến nỗi con trai ông đứng bên cạnh cũng không nghe được ông nói gì*

* NAM THI

06-10-2011

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »