Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Đỗ Văn Minh’


[*] Tập truyện ngắn gồm 17 tác phẩm, được NXB Hội Nhà văn ấn hành, năm 2019.

Đỗ Văn Minh (Gia Lai)

.

Nhắc đến văn chương của Hoàng Thanh Hương, chúng ta nghĩ ngay đến một thế giới nghệ thuật vừa mang những nét đặc trưng rất riêng biệt, lại vừa có những hướng khai thác phù hợp với khuynh hướng sáng tác mới, không những nhằm để bắt kịp với giọng văn thời đại mà còn để nhà văn khẳng định phong cách, cá tính sáng tạo, đem “vân chữ” (chữ của nhà thơ Lê Đạt) của mình sánh bước trên con đường/tiến trình phát triển của văn học nước nhà. Bên cạnh thế mạnh của nhà văn là sử dụng chất liệu từ lớp trầm tích văn hoá dân gian thì việc làm quen với các thủ pháp nghệ thuật, tư duy và cảm thức thẩm mĩ mới cũng phần nào giúp những tác phẩm của chị đứng vững trên văn đàn và lưu giữ trong tâm hồn thế hệ độc giả hữu duyên. Một trong số đó, không thể không kể đến dấu ấn hậu hiện đại và cảm thức hiện sinh rõ rệt, có phần xuyên suốt trong tập truyện Mở mắt ngày đã trôi.

Nhà văn Hoàng Thanh Hương được biết đến với chất văn dung dị, chút đau đáu nhân sinh trong giọng điệu, kết cấu linh hoạt, nghệ thuật trần thuật lôi cuốn, hệ thống các nhân vật đa dạng nhưng liền mạch và có hệ thống, sử dụng tương đối phong phú các thủ pháp sáng tác. Hoàng Thanh Hương là nhà văn quê gốc ở Phú Thọ, hiện sống và làm việc tại Gia Lai, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội VHNT các DTTS Việt Nam. Ngoài là một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, chị còn là cây bút chuyên về thể loại thơ ca (với 3 tập thơ Tự cảm, Lời cầu hôn của rừng, Mùa gió hát) và văn xuôi, với 5 đầu sách văn xuôi đã được ra mắt công chúng, và có những thành tựu đáng kể. Đây là tác giả có sức sáng tạo mãnh liệt, có đóng góp nhất định trong dòng chảy văn chương nước nhà ở một số phương diện, mà tiêu biểu trong số đó là phải kể đến việc dấn thân và thể nghiệm trên các thủ pháp sáng tác, phương pháp tư duy thẩm mĩ riêng lạ, có sự kết hợp nhuần nhị giữa chất liệu văn hoá dân gian/vùng miền vừa đem lại cho người đọc một không gian nghệ thuật đầy cá tính và sáng tạo.

Đến với tập truyện ngắn Mở mắt ngày đã trôi, chị đã mở ra một mô hình thế giới nghệ thuật khiến chúng ta phải suy ngẫm với những phận đời/phận người đầy éo le, trắc trở, ngang trái đến nghiệt ngã. Trong văn chương của chị nói chung, mà cụ thể qua tập truyện ngắn trên, chúng ta thấy những đặc trưng có ý nghĩa xuyên suốt ở một vài phương diện/chiều kích như: chất liệu gắn liền với với sinh hoạt, văn hoá, tín ngưỡng bình dân bản địa hiện diện dày đặc trong cảm thức phồn thực mang hơi hướng của chủ nghĩa phân tâm học, với việc bóc tách các giá trị trong tầng tầng lớp lớp trầm tích văn hoá; chú trọng kết cấu ngẫu nhiên và bất ngờ trong nghệ thuật trần thuật; điểm xuyết thêm vào là yếu tố liên văn bản, cảm thức phi lý (dấu ấn của khuynh hướng sáng tác hậu hiện đại), và phải kể đến lối thông diễn mang màu sắc đậm nét của chủ nghĩa hiện sinh. Cái hay, cái lạ trong văn của Hoàng Thanh Hương là dấu ấn hậu hiện đại và cảm hứng/thái độ/cảm thức hiện sinh được bộc phát một cách tự nhiên/vốn có, như là một nhu cầu tự thân trong sáng tác/làm mới văn bản văn học. Khác hoàn toàn với sự dụng ý sâu xa của các nhà văn chuyên sử dụng các phương pháp theo khuynh hướng hậu hiện đại như là một cứu cánh/đích đến (kể ra như: Hồ Anh Thái, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê,…). Cho nên, độc giả/siêu độc giả phải tinh ý mới nhận ra. Nhờ vậy mà, văn chương của chị không rơi vào sự khô khan, thuyết lý, diễn giải; mà toát lên vẻ mượt mà, lãng mạn, trữ tình.

Thứ nhất, chúng ta nhận diện một vài phương diện cơ bản trong tác phẩm văn xuôi của chị có yếu tố/thủ pháp/khuynh hướng hậu hiện đại. Dấu ấn đó được thể nghiệm thông qua yếu tố liên văn bản, thủ pháp của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo gắn liền với các yếu tố phi lý.

Như đã đề cập, đổi mới là một nhu cầu tự thân trong hoạt động nghệ thuật. Không đổi mới đồng nghĩa là tự đào thải, chết khi đang sống. Cho nên, yếu tố liên văn bản trong văn chương Hoàng Thanh Hương cũng được nhận diện đúng bản chất như vậy. Dù cố tình hay vô ý thì việc hiện diện các yếu tố đó có tác dụng kích thích sáng tạo của nhà văn và đón nhận từ độc giả. Tuy nhiên, trong tập truyện trên, nhà văn sử dụng các yếu tố liên văn bản một cách ngẫu hứng qua nghệ thuật trần thuật, tự do trong kết cấu các sự kiện, sự việc, và qua giọng điệu tung tẩy/vô tư/tự nhiên/mượt mà, chậm chất trữ tình. Yếu tố liên văn bản của chị không bao giờ rời xa cảm hứng, chất liệu dân gian. Chị nhặt nhạnh, nâng niu các câu cửa miệng, khẩu ngữ, có khi là tục ngữ, thành ngữ dân tộc: “Thiên hạ độc mồm, thối mồm: “Cây độc không trái, gái độc không con”” (Nơi chốn). Việc vận dụng yếu tố liên văn bản ngẫu hứng, tự nhiên đến mức độc giả sẽ không nhận ra dụng ý của nhà văn, các nhân vật được người kể chuyện tọc mạch về mình, hoặc các nhân vật tự kể về cuộc đời chính họ, và họ bất ngờ cất lên lời ca tiếng hát đầy bất ngờ, thảng thốt: “Lòng ta có khi, tựa như vắng ai/ Nhiều khi đã vui cười, nhiều khi đứng riêng ngoài”, trích lời ca của Trịnh Công Sơn (Nơi chốn), một đoạn văn khác trong tác phẩm trên thì nhân vật lại ngẫu hứng thả hồn vào bài hát Chị tôi của Trần Tiến. Hay như tác phẩm Ngày bình thường trở lại, nhà văn để nhân vật Nàng ngân nga khúc hát bằng một chất giọng ru êm để như tự tình như ai oán về phận đời/phận người trái ngang. Cũng có đoạn thì, nhà văn tái hiện các mô típ lãng mạn trong phim ảnh Hàn Quốc bằng ngôn ngữ văn chương nhằm đối lập, làm nổi rõ số phận nhân vật. Như phân tích trên, văn chương của chị hiện diện khá rõ nét dấu ấn hậu hiện đại về phương diện thủ pháp, hình thức. Còn về bình diện nội dung thì văn chương hậu hiện đại đề cao tính dân tộc trong việc thể nghiệm đề tài, chủ đề, tư tưởng. Điều này, trong văn xuôi của chị lại càng rõ nét hơn bao giờ hết. Bởi với tư cách là một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian thì cảm hứng văn hoá, yếu tố và chất liệu dân tộc được chị đặt lên hàng đầu. Tính cách và tinh thần dân tộc Việt được bộc bạch qua điểm nhìn của nhân vật Chị trong tác phẩm Nơi chốn, nhân vật Nàng trong Ngày bình thường trở lại, nhân vật người mẹ (nàng) trong Điều ước,…

Văn chương hậu hiện đại được xác lập rõ ràng nhất thông qua chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Nói như TS. Phan Tuấn Anh: “quá trình tiếp/thừa nhận chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ở Việt Nam ngoài những ý nghĩa tự thân, còn có vai trò quan trọng trong việc khẳng định sự tồn tại của chủ nghĩa hậu hiện đại[i]. Đặc biệt, trong tập truyện ngắn này, dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo gắn liền mật thiết với yếu tố phi lý. Chúng liên kết, đan xen đến mức nhuần nhị với nhau, khó tách bạch ra được trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu. Chẳng hạn, trong tác phẩm Điều ước, cuộc gặp gỡ định mệnh có phần hoang đường, kì ảo, như chỉ tồn tại trong giấc mơ/hoang tưởng lại làm cho độc giả phải chạnh lòng, cảm thông sâu sắc. Thông qua dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và yếu tố phi lý, nhà văn muốn truyền tải thông điệp nhân sinh: Hạnh phúc khi con người dám mơ, cho dù giấc mơ ấy có hoang đường đi chăng nữa; hạnh phúc của con có khi đến từ việc điên rồ của người mẹ: “Mọi người mẹ trên thế gian đều có thể làm những điều điên rồ miễn sao con mình hạnh phúc, an toàn dẫu chỉ chốc lát”. Chính những yếu tố phi lý đầy rẫy trong cuộc sống mà điều ước mới có cơ hội tồn tại và khẳng định. Đối với Hoàng Thanh Hương, chỉ có những điều phi lý trong cuộc sống mới đáng được đưa vào văn chương; bởi ở một góc độ nào đó, những điều phi lý lại có giá trị hơn trăm ngàn điều nghĩa lý, chỉ có nó mới giải quyết được những bất ổn, đau thương trong cuộc sống hiện đại, “Đứa trẻ nào cũng phải lớn, cũng phải già dặn gai góc theo thời gian nhưng nàng cứ ước mãi những điều phi lý” (Điều ước).

Ngoài ra, nhà văn sử dụng các yếu tố phi lý (như là một dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại, kiểu dẫn dắt đầy ma mị, và ám ảnh của Franz Kafka) kết hợp với thái độ hiện sinh đã tạo nên hiệu ứng tích cực, nhằm đi sâu giải thích, khám phá các chân lý nhân sinh quan, nhờ vậy mà, tác phẩm của chị luôn hấp dẫn độc giả. Có thể ví dụ ra, niềm vui và nỗi đau luôn đồng hành, đan cài, giải thích cho nhau trong Nơi chốn; tình yêu và chia li như mèo vờn chuột trong Gió ngàn; hay“cái kiểu nàng bấu thờ ơ vào lưng anh khi anh đang yêu nàng như điên” trong Ngày bình thường trở lại. Yếu tố phi lý như làm tiền đề/gợi hứng/bệ đỡ cho những thái độ hiện sinh (một trong những dấu hiệu cơ bản, mang tính triết luận của chủ nghĩa hiện sinh). Sự phi lý dẫn đến thái độ ấm ức, bất bình: “Đảng viên thì không được có thai à?” (Nơi chốn), phi lý dẫn đến thái độ, cảm giác bất lực ngay trong nội tại bản thân: “nàng không thể quên anh, không muốn rời xa anh. Nhưng anh nhất định muốn rời xa nàng. Nàng không hiểu nổi bản thân” (Ngày bình thường trở lại), xưa nay ai cũng bảo cảm xúc là chân thật, nhưng không: “Ôi đến cảm xúc cũng cần phải nhanh, phải dối gian thế ư?” (Ngày bình thường trở lại). Trong tác phẩm liền trên, có những câu văn so sánh, tưởng chừng phi lý nhưng nó đang hiện hữu ngay trong cuộc sống của chúng ta: “Cố mà không vô cảm. Con người hiện đại vô cảm gần bằng máy móc cũng nên”.

Thứ hai, trong trang văn của Hoàng Thanh Hương, chủ nghĩa hiện sinh chưa bao giờ lại nổi bật và xuyên suốt đến thế. Có thể nói, chủ nghĩa hiện sinh như là cứu cánh cho tình thế văn chương Việt Nam; cũng như một tín hiệu tích cực, mang nhiều ý nghĩa và giá trị phản ánh qua văn xuôi của chị. Đúng như GS. Huỳnh Như Phương từng nhận định: “Giờ đây, những ray rứt hiện sinh trong khung cảnh một đời sống hoà bình với nhiều nghịch cảnh đã trở lại bằng con đường hình tượng[ii] bằng việc trần thuật các đề tài, chủ đề, nội dung chạm khắc vào nỗi cô đơn, lạc loài, vô vọng, dấn thân, đau thương, phi lý, nổi loạn,… được chị thể nghiệm gần như trọn vẹn qua các tập truyện ngắn đã xuất bản.

Trước hết, chủ nghĩa hiện sinh trong tập truyện Mở mắt ngày đã trôi được thể hiện qua những khắc khoải về phận đời/phận người. Đây là nội dung, đề tài mang tính bản chất không riêng gì của chủ nghĩa hiện sinh, mà cả chủ nghĩa hiện thực, và chủ nghĩa hiện thực phê phán. Nhưng trong văn của Hoàng Thanh Hương, phận người được khắc khoải, trăn trở như là mệnh lệnh của con tim nhà văn, nên nó càng dằn vặt, đau đáu, không thể nào nguôi ngoai, ám ảnh đến rùng mình: “Chị quá ba mươi rồi, chị thèm phát rồ cái cảm giác được ễnh bụng uể oải, nặng nề, đau thắt đáy lưng, thèm cái cảm giác ôm ấp, ngấu nghiến hôn hít đứa con do mình hoài thai sinh nở, cái cảm giác đó ám ảnh chị hết năm này qua năm khác, khiến chị cộc cằn, héo hắt” (Nơi chốn). Đối với nữ nhà văn Hoàng Thanh Hương, những nỗi đau thể xác, những khắc nghiệt của hiện thực chưa là gì so với những quằn quại, dằn vặt, chất chứa, tổn thương từ bên trong tâm hồn. Nó được nhà văn đi sâu khám phá bên trong nội tâm nhân vật, những ám ảnh, uẩn ức, khao khát của người phụ nữ mang dáng dấp của yếu tố phân tâm học: “giấc mơ nào cũng là hình ảnh anh. Một khu vườn có những khóm trúc nhật nở hoa tím, có những bụi bóng nước hồng theo mùa, và hoa păng xê chị thích, con gái chạy tung tăng, váy trắng bồng bềnh như thiên thần” (Nơi chốn).

Thái độ hiện sinh trong từng trang văn của chị còn nhận ra ở giọng điệu trần thuật mang một nỗi buồn vời vợi trước biến thiên vô thường của quy luật nhân sinh và vũ trụ. Xưa nay, con người luôn tìm cách trốn chạy, lảng tránh cái chết. Lão giáo bỏ công tìm phương thức để trường sanh bất tử. Khổng giáo lại khuyên con người nên lập danh, lập ngôn để đời. Phật giáo hướng con người thoát ra khỏi những tục luỵ để giác ngộ, hạnh phúc. Nhưng mấy ai có thể làm được điều đó. Bởi thế, trong văn Hoàng Thanh Hương, các nhân vật của chị luôn khắc khoải, lo âu trước cái chết không chừa một ai, chết do ung thư, chết bởi trầm cảm được nhắc đến trong tác phẩm Nơi chốn, Ngày bình thường trở lại,…  Hay trong thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Trương Đăng Dung cũng thế, cõi chết/cái chết luôn hiện diện khắp nơi để nhắc nhở con người rằng, cuộc đời ngắn ngủi, vô thường, nên phải sống gấp, sống lạc quan, và có ý nghĩa. Cũng vậy, sau cái đăm chiêu nhân tình thế thái, nhân vật Chị trong Nơi chốn lại mạnh mẽ, rực rỡ và kiêu hãnh: “Chị đã chuẩn bị sẵn sàng cho mùa sinh nở của riêng mình”. Đăm chiêu về cái chết là để tự nhủ lòng phải sống tốt hơn: “Cứ sống tốt đi đã để ngày mai có chết đi sẽ khỏi thấy mình cô đơn và lãng phí thời gian” (Ngày bình thường trở lại). Bởi sự sống quá mong manh, vô thường, nên phải chăng “hạnh phúc là khi đang còn thở và sống cuộc đời mình đang sống” (Ngày bình thường trở lại), và chỉ khi nhân vật nàng trong Ngày bình thường trở lại chứng khiến cái chết đột ngột của người bác sĩ từng thương thầm nhớ trộm mình thì nàng mới chợt nhận ra cuộc sống thật đáng trân trọng, hơi thở đáng quý biết bao nhiêu.

Tính chất hiện sinh trong văn của chị luôn được đẩy lên cao trào, đỉnh điểm qua các tình tiết, sự kiện đan cài nhau, có “thắt nút” mà không có “mở nút”, số phận của họ éo le như một vở kịch không hồi kết. Tình yêu của cô gái Mường với anh công an tên Thanh tưởng chừng sẽ đón nhận cái kết đẹp, nhưng rốt cuộc lại “Rõ chán, yêu nhau như thế mà chả đến bờ đến bến. Vô lý” (Gió ngàn); hay niềm mong ước vẫn mãi mông lung, cao vời, khó chạm tới trong Điều ước. Cũng từ đó, thái độ hiện sinh được bộc lộ rõ ràng nhất, cao nhất. Để các nhân vật hướng đến lối sống tốt/tích cực/ý nghĩa thì “con người hãy nhận thức chính mình” (Socrates). Trước tiên là hiểu bản tính con người xung quanh ta: “Người với người ngồi sát nhau mà âm mưu thủ đoạn ngập bụng, bao lừa lọc, bon chen, giành giật được kín đáo giấu che sau tóc, sau môi”, “Biển sâu dò được chứ lòng người làm gì có đáy”, “đàn bà dễ chết say những ngọt ngào đàn ông phát ra từ miệng, mà nhiều khi những ngọt ngào đấy chả bắt đầu từ tim” (Nơi chốn). Mà trong nhận thức chính mình, không gì bằng hiểu được cảm xúc, hành động bản thân; bởi ý nghĩa triết luận của chủ nghĩa hiện sinh nằm ở cảm nhận, hành động của nhân vật trước tình trạng mất định hướng, khả năng giải quyết trước cuộc sống. Ví như, nhân vật vợ Tùng trong Ngày bình thường trở lại từ xa lánh tránh mặt mẹ chồng đến gần gũi, yêu thương, đồng cảm khi hiểu được quá khứ, con người thật của bà; và nàng càng hiểu chuyện bao nhiêu càng thương mẹ ruột của mình bấy nhiêu bởi nàng đã cảm nhận, ngộ ra: “Mẹ bảo đời mẹ khổ đau mãi rồi, nhất định đời con phải sung sướng”, “Những đứa con gái thường gánh trên vai ước mơ chưa thành của mẹ”. Sau cùng, nhân vật nàng (vợ Tùng) đã nhận ra, hạnh phúc chính là mình đang khóc, đang cười, đang thở, và những chân lý từ sự giản đơn: “Những giọt nước mắt khi rỏ ra một mình là chân thật nhất”. Bởi trong tư duy nghệ thuật tiếp nhận/ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh thì con người cần được kéo/đưa/nhận diện về đúng bản chất vốn có của nó, nhiều khi đến mức nghiệt ngã, ám ảnh, xót xa: “sung sướng nhất đời người có lẽ là ở quãng trẻ con”, “cuộc đời có những sự việc chẳng ngờ”, “thiên hạ giàu nứt đố đổ tường còn mẹ con nàng nghèo rớt mồng tơi” (Điều ước).

Khép lại trang văn của Hoàng Thanh Hương, ta có thể nhận ra rằng, đằng sau những phận đời/phận người éo le, nghiệt ngã, đó là một sự hướng đạo cho lối thoát của con người hết sức nhân văn, ý nghĩa. Đây mới là tinh tuý, cốt lõi của văn chương nói chung và dấu ấn hậu hiện đại, chủ nghĩa hiện sinh trong tập truyện ngắn trên nói riêng. Truyện càng trở nên có sức hút với độc giả bởi cách thể hiện điểm nhìn trần thuật linh hoạt, lời người kể chuyện và lời nhân vật liên tục được thay ngôi đổi vị. Kết cấu tự nhiên đến bất ngờ, ngẫu nhiên đến mức tất yếu, phi lý đến mức có lý. Giọng điệu vừa trầm lắng, nhẹ nhàng vừa nhiễu nhại, phê phán sâu cay. Thái độ hiện sinh luôn song hành, trở thành kim chỉ nam cho nghệ thuật trần thuật đó. Cũng như trong các tác phẩm của Franz Kafka, văn xuôi Hoàng Thanh Hương có chút cảm hứng mỉa mai. Nhưng có điểm khác là, nếu như trong mô hình thế giới nghệ thuật của Franz Kafka, các nhân vật đều có cái nhìn không mấy lạc quan thì các nhân vật trong truyện ngắn của chị lại có cá tính mạnh mẽ, thường “đạp lên” dư luận mà sống, và sống rất kiêu hãnh. Mang chút hơi hướng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, chút cảm hứng từ thủ pháp liên văn bản, giã vào thật nhiều vị sâu cay của dấu ấn/thái độ hiện sinh, thêm chất mượt mà/lãng mạn/trữ tình qua nghệ thuật trần thuật đầy biến ảo và ngẫu nhiên, lại được hướng đạo bởi giá trị nhân đạo của tác phẩm, tất cả tạo nên một bữa tiệc văn chương khó cưỡng lại khi đọc những trang văn của nữ nhà văn đến từ vùng đất cao nguyên đại ngàn – Hoàng Thanh Hương./.

                                                                                                                       Đ.V.M


[i] Trích Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiến trình tiếp nhận văn học phương Tây ở Việt Nam, đăng trên Website Khoa Ngữ văn, Trường Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh.

[ii] Dẫn theo Sự hiện diện của cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam sau 1986 của Trần Nhật Thu, đăng trên Website Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học – Huế.

Read Full Post »

 

Đỗ Văn Minh (Gia Lai)

Văn hoá là mảnh đất màu mỡ cho nghệ thuật nói chung, nhưng không phải nghệ sĩ nào cũng cày xới và gặt hái những quả ngọt từ đó. Bởi yêu cầu nội tại của nó cũng đặt ra những ranh giới nhất định, không đam mê, không am tường và không căn cơ, duyên nghiệp thì khó vượt qua để thành công. Tự thân Hoàng Thanh Hương là một nhà nghiên cứu văn hóa dân gian -người đã có vốn liếng ít nhiều để chinh phục, nhờ đó đem đến cho cây bút này một dấu ấn phong cách khó trộn lẫn. Đặc biệt là, qua tập truyện ngắn vừa xuất bản Phía mùa rực rỡ, độc giả lại hơn một lần cùng suy nghiệm những “trầm tích” văn hoá dân gian ấy không thể chân thực, sinh động và phong phú hơn.

Nói đến Hoàng Thanh Hương, bạn đọc gần xa không còn xa lạ với chất trần thuật hấp dẫn, điểm nhìn đa chiều kích, với sự kiện và đề tài mang hơi thở dân gian đương đại. Hoàng Thanh Hương quê gốc ở Phú Thọ, hiện sống và làm việc tại Gia Lai, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội VHNT các DTTS Việt Nam. Chị là cây bút chuyên về thể loại truyện ngắn, với 4 đầu sách văn xuôi đã được ra mắt công chúng và có những thành tựu đáng kể. Đây là tác giả có sức sáng tạo mãnh liệt, có đóng góp nhất định trong dòng chảy văn chương nước nhà ở một số phương diện, mà tiêu biểu nhất là điểm nhìn trần thuật, cách phối ngẫu trong cấu trúc của một thiên truyện.

Tập truyện ngắn Phía mùa rực rỡ là những câu chuyện đời thường, nhân tình thế thái, biến thiên hư ảo của cuộc sống, cũng có khi là những chiếc “mặt nạ” đời. Nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ, tầng nghĩa thứ nhất, giản đơn, dễ hiểu, đó là ngồn ngộn những “ám thị” của lớp lớp trầm tích văn hoá dân gian. Nổi bật lên là cảm thức phồn thực, văn hoá Phật giáo dân gian/Phật giáo thường thức và chút gì đó là khuynh hướng phân tâm học trong việc miêu tả, và nghệ thuật trần thuật.

Trong ba đặc điểm nổi bật kể trên trong truyện ngắn Hoàng Thanh Hương nói chung và riêng tập Phía mùa rực rỡ thì cảm thức, dấu ấn phồn thực tồn tại đều đặn, dày đặc hơn cả. Nó phong phú và đa dạng đến nổi, chúng như trải thảm trên từng con chữ, ở đâu, lúc nào, bề nông hay bề sâu, lớp mặt nạ hay lớp ẩn tàng… người đọc cũng có thể nhận diện nó. Trước hết, ta hãy “khai quật” từng lớp lang một để cảm thức phồn thực hiện ra trọn vẹn nhất.

Phồn thực biểu hiện cho sự sinh sôi và phát triển, bởi vậy trong nội hàm của chúng phản ánh đặc trưng của sự vận động mang tính chất đi lên. Cho nên, cảm thức phồn thức trước tiên quy định hành động nhân vật. Các nhân vật trong tập truyện ngắn thường có hành động thật sự rất tự nhiên. Có thể là, cuộc sống nhân dân các dân tộc Tây Nguyên dường như ám thị trong giọng điệu và hành động của các nhân vật qua điểm nhìn “rất Thanh Hương”. Nỗi khổ, niềm đau được hiện lên, kể ra không chút giấu giếm, chẳng cần ẩn tàng. Các nhân vật thoả sức cười, khóc, bỉu môi… mà không cần vòng vo, quanh co, nhìn trước rào sau. Nhưng mới có thế thì đâu phải văn chương của cô. Nếu rơi lệ thì phảicho “nước mắt nàng chan chứa”, khóc thì phải “khóc lu loa”, yêu thì “gã yêu nàng như điên” (Phía mùa rực rỡ); nói thì cỡ “bô bô”, làm thì phải làm “hùng hục như trâu”, tính thẳng thì phải “thẳng ruột ngựa”, ngu phải được so sánh hơn (nhưng thực chất là thua) “ngu dốt hơn bò” (tức là bò chỉ số IQ hơn) (Nhà trọ); cười thì như “muốn ngất nơi máy giặt” (Hoa nở muộn); “chán như con gián”, “sợ vợ như cọp” (Cô hồn);… Với nghệ thuật so sánh theo hướng “vật hoá”, cũng là một khía cạnh biểu hiện ít nhiều tính chất phồn thực đậm nét trong văn chương của Hoàng Thanh Hương, mà một phần cũng tiếp biến nghệ thuật trần thuật trong loại hình Ngữ văn dân gian rõ nét ở khu vực vùng Tây Nguyên, vùng cao Tây Bắc (trong đó có Phú Thọ, quê gốc của nhà văn). Văn học dân gian chú trọng yếu tố phồn thực qua ngoại hình, và trong trang văn của chị, chúng ta không ít lần bắt gặp những chi tiết miêu tả tỉ mẩn đó, chẳng hạn: Trong Nhà trọ, nhiều lần nhà văn đặc tả nhân vật qua cảm quan của văn hoá bình dân/quan niệm nhân tướng tục truyền, “Cái mặt lưỡi cày, mũi gãy, môi mỏng cong tớn, trán dô, mắt đa phần lòng trắng, tóc lưa thưa”, “Tướng sinh tại tâm, cứ nhìn cái mặt ai sáng láng, thần thái tươi tắn, đẹp nét nào ra nét đấy là biết bụng dạ họ thẳng thớm, thơm thảo”, “Tôi mạng thiên thượng hoả, tính khí quyết đoán, nóng nảy, thấy cái lươn lẹo, giả dối là chịu không được”… Cảm thức phồn thực trong văn chương thường gắn liền với ngoại hình nhân vật có những đặc điểm như: đậm người, bộ ngực ngoại cỡ, mắn đẻ. Riêng “mắn đẻ” cũng là biểu hiện của hoóc-môn và sức khoẻ cường tráng, mạnh mẽ. Chuyện sinh con đẻ cái vì thế mà được trần thuật khá nhiều trong tập truyện. Những chi tiết tiêu biểu được người đọc chú tâm, ấn tượng, chẳng hạn: “sức khoẻ đuối nên quyết không đẻ đái gì nữa, kết thúc ở số 9”, “gã chúi đầu vào bộ ngực đồ sộ”, “ông hoàng của mụ ngực bự”, “mụ vú bự”, “má hồng hồng”, “làm hùng hục như trâu” (Phía mùa rực rỡ); “Phụ nữ ngoài 40 tuổi phải nở nang” (Giãn cách); hình ảnh “chiếc váy và đám nội y rực rỡ sắc màu” (Hoa nở muộn). Cảm thức ấy, không chỉ ở việc “đẻ đái”, mà còn ước mong nuôi con chóng lớn, ăn được ngủ được là tiên. Theo quan niệm dân gian, nó còn có mối liên hệ linh nghiệm với việc đặt tên con, phải tên xấu với lại thanh bằng mới hậu vận sung sướng, tiền vận dễ nuôi (Phía mùa rực rỡ, Hoa nở muộn). Và cũng hiểu được tại sao, các nhân vật liễu yếu đào tơ, ỏn ẻn được/bị nhà văn xếp vào nhân vật phản diện, thường bị các nhân vật chính diện“bỉu môi”. Bên cạnh đó, các nhân vật chính/tốt nữ giới thường có cá tính mạnh mẽ, quyết đoán, tính cách đặc trưng và rõ nét hơn các nhân vật phái nam. Có thể là, nhân sinh quan của nhà văn ảnh hưởng một phần từ phong cách đời sống, từ địa bàn cư trú, hoặc cũng có khi đó là “tàn tích”/dấu ấn của chế độ mẫu hệ, hoặc tín ngưỡng thờ Mẫu (Đạo Mẫu) tồn tại ở đời sống văn hoá – tâm linh không chỉ dừng lại trong cư dân đồng bào thiểu số mà cả ở tầm vĩ mô hơn, nền văn hoá trồng lúa nước (cần nhiều nhân lực trị thuỷ, và những công việc nặng nhọc đồng áng khác).

Ngoại hình nhân vật thì đã rõ, như đã đề cập ở trên, ngoài ra mùa xuân cũng biểu thị, tượng trưng cho cảm thức phồn thực rõ nét không kém. Văn chương xưa thường tập trung phản ánh những biến thiên của mùa thu, mùa thu như là bầu vú đầy sữa cho thi nhân, văn sĩ thưởng thức và nảy nở những ý tưởng sáng tạo, như trong tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân: Mùa thu/khí thu/tình thu luôn ẩn hiện trong nhiều tác phẩm chẳng hạn như Khoa thi cuối cùng, Con sư tử một năm Quí Sửu, Một cảnh thu muộn… Nhưng với chị, mùa xuân – cái mùa gắn liền với sinh sôi, phát triển và hưng thịnh mới đáng được đưa lên bàn văn chương. Ai đã từng sống, làm việc và tỉ mỉ quan sát phận người của đồng bào dân tộc nói chung, phát khởi từ Tây Nguyên nói riêng thì mới hiểu được cảm thức tự nhiên đó. Nó như là nước chảy về biển đông, suối róc rách qua kẽ đá. Mùa xuân/tết ấy, nhà văn dụng ý rất sâu, nó được tác giả cấu kết bố cục theo kiểu trùng lặp/vòng tròn/liên hoàn. Trong tác phẩm đầu tiên của tập truyện, mùa xuân được nhắc đến ngay trong đoạn mở đầu để khơi gợi cảm xúc, định hướng “tầm đón đợi”/”tầm đón nhận” (chữ của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung) và dư vang của nó vẫn vẹn nguyên khi được đặc tả ở phần kết thiên truyện, chỉ khác chăng là: mở đầu rộn ràng mùa xuân với sự “thanh viện” (chữ của Nguyễn Tuân) của những bản nhạc trữ tình bất hủ và kết thúc lại khoe sắc, rợp hương bằng hình ảnh những đoá hoa mai vàng rực rỡ, môi son hồng hồng (Phía mùa rực rỡ); dẫu bao nhiên biến thiên, khổ đau, bất hạnh và cả oái oăm bủa vây, nhưng khi độc giả khép lại trang sách, cảm xúc vẫn dư âm, hân hoan niềm hạnh phúc, bình yên bởi tình chồng – vợ thuỷ chung, vẹn nguyên sau trước, biểu hiện qua đầu và cuối truyện ngắn Nhà trọ.

Nhà văn HoàngThanh Hương còn chú trọng con người bản năng/bổn phận/thiên chức và sứ mệnh. Bản năng làm mẹ không cho nhân vật Nàng bỏ cái thai trong bụng dẫu rơi vào những ngặt nghèo trong cuộc sống, những cơn đau cũng luôn gắn liền với bổn phận thiêng liêng đó, “nàng co đầu gối ép sát bụng cố dỗ giấc cho quên từng cơn đau co thắt tử cung”, “vòm bụng đang cương trương đau thắt” (Phía mùa rực rỡ). Thiên chức làm mẹ của nhiều đứa con (thì càng tốt) hiện diện dày đặc, trong Hoa nở muộn là một ví dụ điển hình: “Nhà hai thằng cu con, thêm ông chồng” nhưng vẫn “luôn thèm một mụn con gái”, nên “Mấy lần tôi gạ gẫm thêm thắt tí con gái”. Quan niệm thời phong kiến thì cho rằng: “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”(một nam cũng gọi là có, mười gái cũng như không), nhưng đối với văn hoá thờ Mẫu, hay chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại trong tâm thức và cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên thì giá trị của con gái/đàn bà luôn vẹn nguyên, và rõ ràng. Bản năng ấy, có khi “cầu bất đắc” (cầu không được) thì sinh ra “khổ”/buồn/tủi/chịu đựng sự cay nghiệt của gia đình chồng, mặc dù nguyên nhân chính là “Thằng chồng nó tinh trùng yếu”. Nhân vật T trong Hoa nở muộn biểu hiện qua những hành vi xuất phát từ sự khao khát được làm mẹ/đẻ/nuôi con, “Nó cứ ôm riết đứa bé, vài phút lại hôn chun chút vào má, vào trán con bé”, mà “con bé” đó không phải là con của nhân vật T. Đến khi được làm mẹ, dù chỉ là mẹ nuôi, vợ chồng T cũng reo lên sung sướng và “cười như mùa thu toả nắng”. Hoặc là, trong truyện Nhà trọ, bản năng làm vợ đã không cho phép tình thế “lấy chồng chung” hiện diện trong thiên truyện nữa (như ở tác phẩm Phía mùa rực rỡ), mặc cho người ta “ngó nghiêng, bình phẩm, chê bai”, “nhà trọ om sòm náo loạn” nhưng mụ vẫn thực hiện sự vụ đánh ghen, đem chồng về nhà, dưới vòng tay bảo hộ của bả (Nhà trọ). Với tác phẩm Cô hồn lại càng éo le sự đời hơn, Dậu dẫu mong muốn làm thế nào để được sinh con, được làm vợ, và được làm mẹ nhưng lại rơi vào trạng huống lực bất tòng tâm bởi chồng đã mất bốn năm rồi, bởi không thể “con đẻ với ma à?”. Như vậy, đến với văn Hoàng Thanh Hương là đến với thế giới của phận con người – đàn bà, với đủ các kiểu người xấu – tốt, các kiểu tính cách người, độ tuổi già – trẻ – trung niên, nghệ nghiệp, học vấn văn hoá. Dó đó, tên nhân vật cũng được định danh theo kiểu, như: nàng, đàn bà, mẹ, mụ, bà nội, bà ngoại, chị, nữ hộ lí, mẹ nuôi, cô sinh viên, vợ gã cán bộ, cô ta, bà trưởng khoa, bà sếp, bà vú già, vợ gã bán phở – Dậu

Bản năng tính dục như là một cơ sở/thước đo rõ ràng nhất về thiên hướng truyện ngắn theo cảm quan phồn thực và phân tâm học (tập trung ở những khía cạnh: giấc mơ, vô thức, tình trạng quên tạm thời). Tính dục không phải là xu hướng/tư duy nghệ thuật mới trong và ngoài nước, nhưng trong trang văn của nữ văn sĩ, lại đưa người đọc đến những cái bi – hài, cái cười ra nước mắt, và cả cái nhu cầu tâm sinh lý trước mắt – nhu cầu được tôn trọng/yêu mến… Những “tình thế của con người” (mượn với nghĩa nhưtrong bài viết của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung: Tình thế của con người – tình thế của thơ[2]) hết sức phức tạp và oái oăm của muôn mặt cuộc sống, như tình thế một cán bộ sở A cặp bồ với cô sinh viên M để giải toả cơn dục tính đang “bốc hoả” bằng những cuộc “hớn hở”, “hú hí”, đã làm cho sự vụ “lênh loang khắp thiên hạ” và cái kết đắng không chỉ dành riêng cho anh cán bộ sở A mà cả gia đình và bản thân cô vợ cũng bị “ném đá tơi bời”; hay Anh chàng K với Cô B không ngần ngại “phần trên áo đầy đủ, phần dưới trống trơn đang quần nhau trên bàn làm việc”, “sờ soạng mông nhau, hôn nhau chụt chụt” mặc cho “con vợ thằng K ở dưới huyện cứ tưởng chồng mình lên phố làm việc vất vả không về được”. Cả dãy trọ nhà anh Toàn toàn thành phần bất hảo đến thuê nhưng cuối năm khu phố vẫn đạt “Khu phố văn hoá” (Nhà trọ). Hay như, những con người trong xóm trọ của nhân vật Tôi với những hoàn cảnh ngặt nghèo khác nhau dẫn họ đến những số phận bi – hài khác nhau (Hoa nở muộn), tình thế con người “Dậu chả sợ ma. Dậu sợ người, họ là ma đầu đen” (Cô hồn). Đúng với nhận định của nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung: “Con người đi từ nỗi sợ thiên nhiên, sợ Thượng đế, đến sợ con người[3].Quan sát, tiếp xúc và chuyển hoá chúng vào trong trang văn thật dễ mà cũng thật khó. Đây là tình thế của con người/cuộc đời bắt buộc nhà văn có những lựa chọn chi tiết tiêu biểu, sự việc ấn tượng để đưa ra hình thức trần thật phù hợp nhất. Bên cạnh, yếu tố phân tâm được thể nghiệm qua đề tài, sự việc thì ngoại hình càng được tác giả chú ý khai thác triệt để qua tư duy/cảm thức văn hoá dân gian, trong tác phẩm Nhà trọ, nhân vật vợ anh cán bộ sở A hiện lên với những nét không thể chối cãi được về sự “đa dâm” như: “môi mỏng cong tớn, trán dô”, “giọng kéo dài nũng nịu, nhẽo nhoẹt”; hay “Nhà thơ K là cô giáo dạy văn, mắt lươn, trán dồ, môi mỏng dính, ả liếc liếc vòm ngực vồng căng của chồng tôi”, “người đi như rắn uốn, môi mỏng bóng loáng, mắt ti hí, liếc đảo như bi”(Hoa nở muộn); và nữa: “Nàng ghét những gã miệng trơn bóng, hứa hươu hứa vượn” (Cô hồn).

Lại nữa, bản năng làm người lương thiện được cây bút này đưa lên hàng đầu như là một nhu cầu thiết yếu của bản chất/nhân tố Người trong tác phẩm. Các nhân vật buộc phải sống thiên lương, thẳng thớm. Nó như là tín điều cần phải tuân theo, là quy luật tự nhiên và đúng với thiên mệnh (“nhân chi sơ tính bổn thiện” (Người mới sinh ra, tính vốn thiện lương) – Khổng Tử). Bản năng này là vừa thiết yếu/cơ bản nhưng cũng cao cấp/đặc trưng nhất trong nội hàm, ý nghĩa Người (nằm trong thuộc tính của ba nhu cầu cơ bản là: Giao lưu tình cảm, Được quý trọng Tự thể hiện bản thân trong Tháp nhu cầu của Abraham Maslow, nhà tâm lý học người Mĩ). Văn học xưa nay đều nhấn mạnh yếu tố tâm lý này của nhân vật, nào là Chí Phèo (Nam Cao), nào là Vợ nhặt (Kim Lân)… Với Hoàng Thanh Hương, các nhân vật chính, đặc biệt nhân vật xưng Tôi thường là cái tâm hướng thiện, “vượt qua khó khăn trong cuộc sống bằng chính sức lực mình, tự do về tư duy, độc lập về tài chánh và được bạn đời, bạn tình tôn trọng”, bởi cái cốt “Ai chẳng muốn làm người lương thiện” (Cô hồn). Có thể kể ra như: Nhân vật nàng (Phía mùa rực rỡ), nhân vật Tôi (Nhà trọ), nhân vật T (Hoa nở muộn), Dậu, Em gái của Dậu, Gã bán phở (Cô hồn)… đều đau đáu sự hoàn thiện về nhân cách/tư cách sống. Cũng vì thế, những nhân vật phản diện thường bị nhân vật tư tưởng ghét cay ghét đắng, bỉu môi, khinh bỉ ra mặt, bị nói chuyện “kiểu của vợ gã bán phở hè phố” (Cô hồn).

Trong tổng thể tư duy/cảm quan nghệ thuật ảnh hưởng yếu tố dân gian đậm nét đó, nếu không nhắc đến cảm quan Phật giáo được tục truyền từ ngàn xưa, mang hơi hướng đại thừa, chúng sanh phổ độ, nghiệp duyên, nhân quả… thì chắc chắn chúng ta sẽ không thấy hết nội hàm lẫn ngoại diên những tư tưởng, dụng ý và cả cấu trúc tác phẩm của nhà văn hình thành như thế nào, và lý do, nguồn cơn đó ra sao. Chính cảm quan và suy nghiệm theo hơi hướng Phật giáo hiện diện khá rộng khắp trong tập truyện ngắn nên kết thúc thường có hậu/happy end, hoặc mang chút hơi ấm của niềm vui, tình người, màu sắc. Như, hình ảnh “nàng nhoẻn cười, hai má hồng hồng, mắt nhìn chăm chắm vào lũ con, vào anh, vào chậu mai bắt đầu xoè những bông vàng rực rỡ háo hức đón mùa” (Phía mùa rực rỡ); cảnh bình yên trở lại, nhân vật Tôi giác ngộ duyên, nghiệp là vô thường, sau tất cả, niềm vui đến vẹn nguyên cho những ai biết quay trở về với chính mình/bản lai diện mục (Nhà trọ); cảnh hạnh phúc trào dâng khi nhân vật T bất ngờ có bầu sau ngót 7 năm chịu đựng bao tủi nhục, đắng cay (Hoa nở muộn); cảnh Dậu với Gã bán phở “về một nhà”, “’rổ rá cạp lại mãi mãi” trong Cô hồn. Những quan niệm có yếu tố Phật giáo dân gian thường gắn liền với nho giáo, Lão giáo, từ đó hình thành nên những hành vi tích cực nhất định xung quanh vấn đề “phúc đức”, “ăn ở sao cho phải đạo”, “lương thiện”, “thẳng thớm”, “bình an” (Giãn cách); ăn ở có tâm có tình, hiểu đạo lý và nhân quả, nghiệp duyên (Hoa nở muộn, Cô hồn); số 7 theo quan niệm dân gian là ám thị những điều kém may mắn, kiểu mô típ “tiền hung hậu kết” (khổ trước sướng sau), nhà văn gửi gắm quan niệm trên qua số phận người vợ trong Hoa nở muộn và nghĩa nặng ân sâu của mẹ trong Cô hồn; số 4thường ứng với chữ “tử” (sinh – lão – bệnh – tử), chồng chị Dậu mất được bốn năm rồi (Cô hồn). Từ cảm quan Phật giáo dân gian, nhà văn còn chiêm nghiệm nó theo khuynh hướng triết lý nhân sinh. Phật giáo luôn quan niệm “sinh tử sự đại” (sống chết là việc lớn), đặc biệt trong Thiền tông nhấn mạnh hành vi/nhận thức/hạnh phúc hiện tại là điều tối quan trọng. Hiểu được như thế, độc giả mới ngộ ra những ý tứ diễn giải qua trang văn của chị: “Tôi lúc nào cũng sống hết mình như ngày mai sẽ chết nên tôi yêu cuộc sống đang có một cách kì lạ”, “Tôi nhớ đã đọc đâu đó một câu Phật dạy: “Khi bạn vui, phải nghĩ rằng niềm vui này không phải là vĩnh hằng. Khi bạn buồn, bạn hãy nghĩ rằng nỗi đau này cũng không trường tồn”” (Hoa nở muộn). Phật giáo luôn đề cao tính tự thân: tự thân vận động, tự thắp đuốc lên mà đi, duy ngã độc tôn, phật tại tâm, phật là ta… Những triết luận ấy một lần nữa được nhà văn phát ngôn qua nhân vật tư tưởng, Em của Dậu: “Hạnh phúc là sự tự rèn luyện mình”, và cũng có khi là qua nhân vật chính, Dậu cũng thường suy nghiệm “tâm tốt thì cái việc làm mới tốt đẹp” (Cô hồn).

Khép lại trang văn của Hoàng Thanh Hương, người đọc cảm nhận ẩn đằng sau những câu chuyện đó là cách nhìn, cách cảm đầy nhân văn, thương xót những mảnh đời, phận người nhỏ bé, thiệt thòi. Đó có thể là những số phận nghèo trong xóm trọ (Nhà trọ), cũng có thể là những người mẹ thương con nhưng vì những “tình thế của con người”/số phận buộc lòng phải “đem con bỏ chợ”, cảnh cả xóm (già trẻ, trai gái) chung tay nuôi nấng cháu bé bị bỏ rơi (Hoa nở muộn), cảnh vợ chồng âm dương cách biệt (Cô hồn). Bởi nhà văn luôn hướng người đọc đến những tia sáng, niềm hạnh phúc giản dị, nhỏ nhoi nhưng lại hết sức nhân đạo: Chuyện những con người nhỏ bé, thiệt thòi, nghèo khổ tự học, tự kiếm việc, họ vui mừng vì “kiểu gì cũng có hơn 5 triệu, bác yên tâm, nghèo thì lâu, giàu mấy chốc” (Nhà trọ); hay chuyện cô thạc sỹ chồng mất đã bốn năm chấp nhận lấy gã bán phở từng đi tù nhưng lại được hạnh phúc viên mãn (Cô hồn)…Mỗi nhân vật trong trang văn của chị đều có một số phận riêng. Nhưng nổi rõ lên là thân phận người đàn bà, được nhà văntập trung miêu tả, biểu cảm và tự sự qua các sự kiện đan cài ngẫu hứng, nhưng cũng đầy dụng ý nghệ thuật. Ấn tượng khi đọc tập truyện ngắn Phía mùa rực rỡ là giọng văn có gì đó hờn dỗi, đây đẩy, tuồn tuột, tưng tửng, cá tínhnhư tản văn của Nguyễn Ngọc Tư, cuốn hút như đang đọc tiểu thuyết của Dương Thuỵ(bởi lối kể theo ngôi thứ nhất được phát huy tối đa và có phần ứng biến), đặc tả cảnh những nhân vật trong xóm trọ nghèo cũng có chút gì hao hao/liên tưởng tới các hình tượng nhân vật trong truyện ngắn của O. Henry, kiểu xây dựng “nhân vật số phận” đến éo le, nghiệt ngãđã tạo ấn tượng tâm lý cho người đọc, dấu ấn phong cách bộc lộ rõ hơn. Điểm nhìn trần thuật cũng là một tiêu chí xác lập phong cách của chị, với sự suy nghiệm hết sức sâu sắc về cuộc sống, cộng hưởng với cái nhìn “như thị ngã văn” (tôi nghe như thế), mọi văn bản/kết cấu thiên truyện diễn ra trong sự biến thiên/vô thường, chốc chốc các nhân vật lại được “đốn ngộ”. Như vậy, nhân vật (cũng có thể là tác giả) quán chiếu mọi thứ xung quanh thực chất là để trở về với tự tánh, nguồn cơn, phát khởi của lòng mình. Cái đáng để nói ở đây là, chị đã quan sát tỉ mẩn, đa chiều để truy nguyên bản chất của chúng. Mọi thứ xung quanh như những chiếc mặt nạ, nhà văn phải có sứ mệnh tìm ra cái đằng sau ẩn chứa của chiếc mặt nạ đó. Tác phẩm càng được đẩy lên một cao trào cảm xúc/sự kiện bởi nhà văn vận dụng hiệu ứng kết cấu đối lập, mâu thuẫn của thể loại kịch một cách nhuần nhị để đưa vào truyện ngắn. Tất cả những điều trên đã làm nên những trang văn mang dấu ấn cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật của cây viết nữ vùng đất cao nguyên đại ngàn – Hoàng Thanh Hương./.                    


[1] Tập truyện ngắn gồm 15 tác phẩm, Nhà xuất bản Đà Nẵng tháng 5/2023.

[2] Bài nghiên cứu được đăng trên Tạp chí Sông Hương số 410 tháng 04 – 2023

[3] Trích bài viết Tình thế của con người – tình thế của thơ, Trương Đăng Dung,đăng trên Tạp chí Sông Hương số 410 tháng 04 – 2023

Read Full Post »