[*] Tập truyện ngắn gồm 17 tác phẩm, được NXB Hội Nhà văn ấn hành, năm 2019.
Đỗ Văn Minh (Gia Lai)
.
Nhắc đến văn chương của Hoàng Thanh Hương, chúng ta nghĩ ngay đến một thế giới nghệ thuật vừa mang những nét đặc trưng rất riêng biệt, lại vừa có những hướng khai thác phù hợp với khuynh hướng sáng tác mới, không những nhằm để bắt kịp với giọng văn thời đại mà còn để nhà văn khẳng định phong cách, cá tính sáng tạo, đem “vân chữ” (chữ của nhà thơ Lê Đạt) của mình sánh bước trên con đường/tiến trình phát triển của văn học nước nhà. Bên cạnh thế mạnh của nhà văn là sử dụng chất liệu từ lớp trầm tích văn hoá dân gian thì việc làm quen với các thủ pháp nghệ thuật, tư duy và cảm thức thẩm mĩ mới cũng phần nào giúp những tác phẩm của chị đứng vững trên văn đàn và lưu giữ trong tâm hồn thế hệ độc giả hữu duyên. Một trong số đó, không thể không kể đến dấu ấn hậu hiện đại và cảm thức hiện sinh rõ rệt, có phần xuyên suốt trong tập truyện Mở mắt ngày đã trôi.
Nhà văn Hoàng Thanh Hương được biết đến với chất văn dung dị, chút đau đáu nhân sinh trong giọng điệu, kết cấu linh hoạt, nghệ thuật trần thuật lôi cuốn, hệ thống các nhân vật đa dạng nhưng liền mạch và có hệ thống, sử dụng tương đối phong phú các thủ pháp sáng tác. Hoàng Thanh Hương là nhà văn quê gốc ở Phú Thọ, hiện sống và làm việc tại Gia Lai, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội VHNT các DTTS Việt Nam. Ngoài là một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian, chị còn là cây bút chuyên về thể loại thơ ca (với 3 tập thơ Tự cảm, Lời cầu hôn của rừng, Mùa gió hát) và văn xuôi, với 5 đầu sách văn xuôi đã được ra mắt công chúng, và có những thành tựu đáng kể. Đây là tác giả có sức sáng tạo mãnh liệt, có đóng góp nhất định trong dòng chảy văn chương nước nhà ở một số phương diện, mà tiêu biểu trong số đó là phải kể đến việc dấn thân và thể nghiệm trên các thủ pháp sáng tác, phương pháp tư duy thẩm mĩ riêng lạ, có sự kết hợp nhuần nhị giữa chất liệu văn hoá dân gian/vùng miền vừa đem lại cho người đọc một không gian nghệ thuật đầy cá tính và sáng tạo.
Đến với tập truyện ngắn Mở mắt ngày đã trôi, chị đã mở ra một mô hình thế giới nghệ thuật khiến chúng ta phải suy ngẫm với những phận đời/phận người đầy éo le, trắc trở, ngang trái đến nghiệt ngã. Trong văn chương của chị nói chung, mà cụ thể qua tập truyện ngắn trên, chúng ta thấy những đặc trưng có ý nghĩa xuyên suốt ở một vài phương diện/chiều kích như: chất liệu gắn liền với với sinh hoạt, văn hoá, tín ngưỡng bình dân bản địa hiện diện dày đặc trong cảm thức phồn thực mang hơi hướng của chủ nghĩa phân tâm học, với việc bóc tách các giá trị trong tầng tầng lớp lớp trầm tích văn hoá; chú trọng kết cấu ngẫu nhiên và bất ngờ trong nghệ thuật trần thuật; điểm xuyết thêm vào là yếu tố liên văn bản, cảm thức phi lý (dấu ấn của khuynh hướng sáng tác hậu hiện đại), và phải kể đến lối thông diễn mang màu sắc đậm nét của chủ nghĩa hiện sinh. Cái hay, cái lạ trong văn của Hoàng Thanh Hương là dấu ấn hậu hiện đại và cảm hứng/thái độ/cảm thức hiện sinh được bộc phát một cách tự nhiên/vốn có, như là một nhu cầu tự thân trong sáng tác/làm mới văn bản văn học. Khác hoàn toàn với sự dụng ý sâu xa của các nhà văn chuyên sử dụng các phương pháp theo khuynh hướng hậu hiện đại như là một cứu cánh/đích đến (kể ra như: Hồ Anh Thái, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê,…). Cho nên, độc giả/siêu độc giả phải tinh ý mới nhận ra. Nhờ vậy mà, văn chương của chị không rơi vào sự khô khan, thuyết lý, diễn giải; mà toát lên vẻ mượt mà, lãng mạn, trữ tình.
Thứ nhất, chúng ta nhận diện một vài phương diện cơ bản trong tác phẩm văn xuôi của chị có yếu tố/thủ pháp/khuynh hướng hậu hiện đại. Dấu ấn đó được thể nghiệm thông qua yếu tố liên văn bản, thủ pháp của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo gắn liền với các yếu tố phi lý.
Như đã đề cập, đổi mới là một nhu cầu tự thân trong hoạt động nghệ thuật. Không đổi mới đồng nghĩa là tự đào thải, chết khi đang sống. Cho nên, yếu tố liên văn bản trong văn chương Hoàng Thanh Hương cũng được nhận diện đúng bản chất như vậy. Dù cố tình hay vô ý thì việc hiện diện các yếu tố đó có tác dụng kích thích sáng tạo của nhà văn và đón nhận từ độc giả. Tuy nhiên, trong tập truyện trên, nhà văn sử dụng các yếu tố liên văn bản một cách ngẫu hứng qua nghệ thuật trần thuật, tự do trong kết cấu các sự kiện, sự việc, và qua giọng điệu tung tẩy/vô tư/tự nhiên/mượt mà, chậm chất trữ tình. Yếu tố liên văn bản của chị không bao giờ rời xa cảm hứng, chất liệu dân gian. Chị nhặt nhạnh, nâng niu các câu cửa miệng, khẩu ngữ, có khi là tục ngữ, thành ngữ dân tộc: “Thiên hạ độc mồm, thối mồm: “Cây độc không trái, gái độc không con”” (Nơi chốn). Việc vận dụng yếu tố liên văn bản ngẫu hứng, tự nhiên đến mức độc giả sẽ không nhận ra dụng ý của nhà văn, các nhân vật được người kể chuyện tọc mạch về mình, hoặc các nhân vật tự kể về cuộc đời chính họ, và họ bất ngờ cất lên lời ca tiếng hát đầy bất ngờ, thảng thốt: “Lòng ta có khi, tựa như vắng ai/ Nhiều khi đã vui cười, nhiều khi đứng riêng ngoài”, trích lời ca của Trịnh Công Sơn (Nơi chốn), một đoạn văn khác trong tác phẩm trên thì nhân vật lại ngẫu hứng thả hồn vào bài hát Chị tôi của Trần Tiến. Hay như tác phẩm Ngày bình thường trở lại, nhà văn để nhân vật Nàng ngân nga khúc hát bằng một chất giọng ru êm để như tự tình như ai oán về phận đời/phận người trái ngang. Cũng có đoạn thì, nhà văn tái hiện các mô típ lãng mạn trong phim ảnh Hàn Quốc bằng ngôn ngữ văn chương nhằm đối lập, làm nổi rõ số phận nhân vật. Như phân tích trên, văn chương của chị hiện diện khá rõ nét dấu ấn hậu hiện đại về phương diện thủ pháp, hình thức. Còn về bình diện nội dung thì văn chương hậu hiện đại đề cao tính dân tộc trong việc thể nghiệm đề tài, chủ đề, tư tưởng. Điều này, trong văn xuôi của chị lại càng rõ nét hơn bao giờ hết. Bởi với tư cách là một nhà nghiên cứu văn hoá dân gian thì cảm hứng văn hoá, yếu tố và chất liệu dân tộc được chị đặt lên hàng đầu. Tính cách và tinh thần dân tộc Việt được bộc bạch qua điểm nhìn của nhân vật Chị trong tác phẩm Nơi chốn, nhân vật Nàng trong Ngày bình thường trở lại, nhân vật người mẹ (nàng) trong Điều ước,…
Văn chương hậu hiện đại được xác lập rõ ràng nhất thông qua chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Nói như TS. Phan Tuấn Anh: “quá trình tiếp/thừa nhận chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ở Việt Nam ngoài những ý nghĩa tự thân, còn có vai trò quan trọng trong việc khẳng định sự tồn tại của chủ nghĩa hậu hiện đại”[i]. Đặc biệt, trong tập truyện ngắn này, dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo gắn liền mật thiết với yếu tố phi lý. Chúng liên kết, đan xen đến mức nhuần nhị với nhau, khó tách bạch ra được trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu. Chẳng hạn, trong tác phẩm Điều ước, cuộc gặp gỡ định mệnh có phần hoang đường, kì ảo, như chỉ tồn tại trong giấc mơ/hoang tưởng lại làm cho độc giả phải chạnh lòng, cảm thông sâu sắc. Thông qua dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và yếu tố phi lý, nhà văn muốn truyền tải thông điệp nhân sinh: Hạnh phúc khi con người dám mơ, cho dù giấc mơ ấy có hoang đường đi chăng nữa; hạnh phúc của con có khi đến từ việc điên rồ của người mẹ: “Mọi người mẹ trên thế gian đều có thể làm những điều điên rồ miễn sao con mình hạnh phúc, an toàn dẫu chỉ chốc lát”. Chính những yếu tố phi lý đầy rẫy trong cuộc sống mà điều ước mới có cơ hội tồn tại và khẳng định. Đối với Hoàng Thanh Hương, chỉ có những điều phi lý trong cuộc sống mới đáng được đưa vào văn chương; bởi ở một góc độ nào đó, những điều phi lý lại có giá trị hơn trăm ngàn điều nghĩa lý, chỉ có nó mới giải quyết được những bất ổn, đau thương trong cuộc sống hiện đại, “Đứa trẻ nào cũng phải lớn, cũng phải già dặn gai góc theo thời gian nhưng nàng cứ ước mãi những điều phi lý” (Điều ước).
Ngoài ra, nhà văn sử dụng các yếu tố phi lý (như là một dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại, kiểu dẫn dắt đầy ma mị, và ám ảnh của Franz Kafka) kết hợp với thái độ hiện sinh đã tạo nên hiệu ứng tích cực, nhằm đi sâu giải thích, khám phá các chân lý nhân sinh quan, nhờ vậy mà, tác phẩm của chị luôn hấp dẫn độc giả. Có thể ví dụ ra, niềm vui và nỗi đau luôn đồng hành, đan cài, giải thích cho nhau trong Nơi chốn; tình yêu và chia li như mèo vờn chuột trong Gió ngàn; hay“cái kiểu nàng bấu thờ ơ vào lưng anh khi anh đang yêu nàng như điên” trong Ngày bình thường trở lại. Yếu tố phi lý như làm tiền đề/gợi hứng/bệ đỡ cho những thái độ hiện sinh (một trong những dấu hiệu cơ bản, mang tính triết luận của chủ nghĩa hiện sinh). Sự phi lý dẫn đến thái độ ấm ức, bất bình: “Đảng viên thì không được có thai à?” (Nơi chốn), phi lý dẫn đến thái độ, cảm giác bất lực ngay trong nội tại bản thân: “nàng không thể quên anh, không muốn rời xa anh. Nhưng anh nhất định muốn rời xa nàng. Nàng không hiểu nổi bản thân” (Ngày bình thường trở lại), xưa nay ai cũng bảo cảm xúc là chân thật, nhưng không: “Ôi đến cảm xúc cũng cần phải nhanh, phải dối gian thế ư?” (Ngày bình thường trở lại). Trong tác phẩm liền trên, có những câu văn so sánh, tưởng chừng phi lý nhưng nó đang hiện hữu ngay trong cuộc sống của chúng ta: “Cố mà không vô cảm. Con người hiện đại vô cảm gần bằng máy móc cũng nên”.
Thứ hai, trong trang văn của Hoàng Thanh Hương, chủ nghĩa hiện sinh chưa bao giờ lại nổi bật và xuyên suốt đến thế. Có thể nói, chủ nghĩa hiện sinh như là cứu cánh cho tình thế văn chương Việt Nam; cũng như một tín hiệu tích cực, mang nhiều ý nghĩa và giá trị phản ánh qua văn xuôi của chị. Đúng như GS. Huỳnh Như Phương từng nhận định: “Giờ đây, những ray rứt hiện sinh trong khung cảnh một đời sống hoà bình với nhiều nghịch cảnh đã trở lại bằng con đường hình tượng”[ii] bằng việc trần thuật các đề tài, chủ đề, nội dung chạm khắc vào nỗi cô đơn, lạc loài, vô vọng, dấn thân, đau thương, phi lý, nổi loạn,… được chị thể nghiệm gần như trọn vẹn qua các tập truyện ngắn đã xuất bản.
Trước hết, chủ nghĩa hiện sinh trong tập truyện Mở mắt ngày đã trôi được thể hiện qua những khắc khoải về phận đời/phận người. Đây là nội dung, đề tài mang tính bản chất không riêng gì của chủ nghĩa hiện sinh, mà cả chủ nghĩa hiện thực, và chủ nghĩa hiện thực phê phán. Nhưng trong văn của Hoàng Thanh Hương, phận người được khắc khoải, trăn trở như là mệnh lệnh của con tim nhà văn, nên nó càng dằn vặt, đau đáu, không thể nào nguôi ngoai, ám ảnh đến rùng mình: “Chị quá ba mươi rồi, chị thèm phát rồ cái cảm giác được ễnh bụng uể oải, nặng nề, đau thắt đáy lưng, thèm cái cảm giác ôm ấp, ngấu nghiến hôn hít đứa con do mình hoài thai sinh nở, cái cảm giác đó ám ảnh chị hết năm này qua năm khác, khiến chị cộc cằn, héo hắt” (Nơi chốn). Đối với nữ nhà văn Hoàng Thanh Hương, những nỗi đau thể xác, những khắc nghiệt của hiện thực chưa là gì so với những quằn quại, dằn vặt, chất chứa, tổn thương từ bên trong tâm hồn. Nó được nhà văn đi sâu khám phá bên trong nội tâm nhân vật, những ám ảnh, uẩn ức, khao khát của người phụ nữ mang dáng dấp của yếu tố phân tâm học: “giấc mơ nào cũng là hình ảnh anh. Một khu vườn có những khóm trúc nhật nở hoa tím, có những bụi bóng nước hồng theo mùa, và hoa păng xê chị thích, con gái chạy tung tăng, váy trắng bồng bềnh như thiên thần” (Nơi chốn).
Thái độ hiện sinh trong từng trang văn của chị còn nhận ra ở giọng điệu trần thuật mang một nỗi buồn vời vợi trước biến thiên vô thường của quy luật nhân sinh và vũ trụ. Xưa nay, con người luôn tìm cách trốn chạy, lảng tránh cái chết. Lão giáo bỏ công tìm phương thức để trường sanh bất tử. Khổng giáo lại khuyên con người nên lập danh, lập ngôn để đời. Phật giáo hướng con người thoát ra khỏi những tục luỵ để giác ngộ, hạnh phúc. Nhưng mấy ai có thể làm được điều đó. Bởi thế, trong văn Hoàng Thanh Hương, các nhân vật của chị luôn khắc khoải, lo âu trước cái chết không chừa một ai, chết do ung thư, chết bởi trầm cảm được nhắc đến trong tác phẩm Nơi chốn, Ngày bình thường trở lại,… Hay trong thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Trương Đăng Dung cũng thế, cõi chết/cái chết luôn hiện diện khắp nơi để nhắc nhở con người rằng, cuộc đời ngắn ngủi, vô thường, nên phải sống gấp, sống lạc quan, và có ý nghĩa. Cũng vậy, sau cái đăm chiêu nhân tình thế thái, nhân vật Chị trong Nơi chốn lại mạnh mẽ, rực rỡ và kiêu hãnh: “Chị đã chuẩn bị sẵn sàng cho mùa sinh nở của riêng mình”. Đăm chiêu về cái chết là để tự nhủ lòng phải sống tốt hơn: “Cứ sống tốt đi đã để ngày mai có chết đi sẽ khỏi thấy mình cô đơn và lãng phí thời gian” (Ngày bình thường trở lại). Bởi sự sống quá mong manh, vô thường, nên phải chăng “hạnh phúc là khi đang còn thở và sống cuộc đời mình đang sống” (Ngày bình thường trở lại), và chỉ khi nhân vật nàng trong Ngày bình thường trở lại chứng khiến cái chết đột ngột của người bác sĩ từng thương thầm nhớ trộm mình thì nàng mới chợt nhận ra cuộc sống thật đáng trân trọng, hơi thở đáng quý biết bao nhiêu.
Tính chất hiện sinh trong văn của chị luôn được đẩy lên cao trào, đỉnh điểm qua các tình tiết, sự kiện đan cài nhau, có “thắt nút” mà không có “mở nút”, số phận của họ éo le như một vở kịch không hồi kết. Tình yêu của cô gái Mường với anh công an tên Thanh tưởng chừng sẽ đón nhận cái kết đẹp, nhưng rốt cuộc lại “Rõ chán, yêu nhau như thế mà chả đến bờ đến bến. Vô lý” (Gió ngàn); hay niềm mong ước vẫn mãi mông lung, cao vời, khó chạm tới trong Điều ước. Cũng từ đó, thái độ hiện sinh được bộc lộ rõ ràng nhất, cao nhất. Để các nhân vật hướng đến lối sống tốt/tích cực/ý nghĩa thì “con người hãy nhận thức chính mình” (Socrates). Trước tiên là hiểu bản tính con người xung quanh ta: “Người với người ngồi sát nhau mà âm mưu thủ đoạn ngập bụng, bao lừa lọc, bon chen, giành giật được kín đáo giấu che sau tóc, sau môi”, “Biển sâu dò được chứ lòng người làm gì có đáy”, “đàn bà dễ chết say những ngọt ngào đàn ông phát ra từ miệng, mà nhiều khi những ngọt ngào đấy chả bắt đầu từ tim” (Nơi chốn). Mà trong nhận thức chính mình, không gì bằng hiểu được cảm xúc, hành động bản thân; bởi ý nghĩa triết luận của chủ nghĩa hiện sinh nằm ở cảm nhận, hành động của nhân vật trước tình trạng mất định hướng, khả năng giải quyết trước cuộc sống. Ví như, nhân vật vợ Tùng trong Ngày bình thường trở lại từ xa lánh tránh mặt mẹ chồng đến gần gũi, yêu thương, đồng cảm khi hiểu được quá khứ, con người thật của bà; và nàng càng hiểu chuyện bao nhiêu càng thương mẹ ruột của mình bấy nhiêu bởi nàng đã cảm nhận, ngộ ra: “Mẹ bảo đời mẹ khổ đau mãi rồi, nhất định đời con phải sung sướng”, “Những đứa con gái thường gánh trên vai ước mơ chưa thành của mẹ”. Sau cùng, nhân vật nàng (vợ Tùng) đã nhận ra, hạnh phúc chính là mình đang khóc, đang cười, đang thở, và những chân lý từ sự giản đơn: “Những giọt nước mắt khi rỏ ra một mình là chân thật nhất”. Bởi trong tư duy nghệ thuật tiếp nhận/ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh thì con người cần được kéo/đưa/nhận diện về đúng bản chất vốn có của nó, nhiều khi đến mức nghiệt ngã, ám ảnh, xót xa: “sung sướng nhất đời người có lẽ là ở quãng trẻ con”, “cuộc đời có những sự việc chẳng ngờ”, “thiên hạ giàu nứt đố đổ tường còn mẹ con nàng nghèo rớt mồng tơi” (Điều ước).
Khép lại trang văn của Hoàng Thanh Hương, ta có thể nhận ra rằng, đằng sau những phận đời/phận người éo le, nghiệt ngã, đó là một sự hướng đạo cho lối thoát của con người hết sức nhân văn, ý nghĩa. Đây mới là tinh tuý, cốt lõi của văn chương nói chung và dấu ấn hậu hiện đại, chủ nghĩa hiện sinh trong tập truyện ngắn trên nói riêng. Truyện càng trở nên có sức hút với độc giả bởi cách thể hiện điểm nhìn trần thuật linh hoạt, lời người kể chuyện và lời nhân vật liên tục được thay ngôi đổi vị. Kết cấu tự nhiên đến bất ngờ, ngẫu nhiên đến mức tất yếu, phi lý đến mức có lý. Giọng điệu vừa trầm lắng, nhẹ nhàng vừa nhiễu nhại, phê phán sâu cay. Thái độ hiện sinh luôn song hành, trở thành kim chỉ nam cho nghệ thuật trần thuật đó. Cũng như trong các tác phẩm của Franz Kafka, văn xuôi Hoàng Thanh Hương có chút cảm hứng mỉa mai. Nhưng có điểm khác là, nếu như trong mô hình thế giới nghệ thuật của Franz Kafka, các nhân vật đều có cái nhìn không mấy lạc quan thì các nhân vật trong truyện ngắn của chị lại có cá tính mạnh mẽ, thường “đạp lên” dư luận mà sống, và sống rất kiêu hãnh. Mang chút hơi hướng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, chút cảm hứng từ thủ pháp liên văn bản, giã vào thật nhiều vị sâu cay của dấu ấn/thái độ hiện sinh, thêm chất mượt mà/lãng mạn/trữ tình qua nghệ thuật trần thuật đầy biến ảo và ngẫu nhiên, lại được hướng đạo bởi giá trị nhân đạo của tác phẩm, tất cả tạo nên một bữa tiệc văn chương khó cưỡng lại khi đọc những trang văn của nữ nhà văn đến từ vùng đất cao nguyên đại ngàn – Hoàng Thanh Hương./.
Đ.V.M
[i] Trích Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tiến trình tiếp nhận văn học phương Tây ở Việt Nam, đăng trên Website Khoa Ngữ văn, Trường Đại học KHXH và NV, Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh.
[ii] Dẫn theo Sự hiện diện của cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam sau 1986 của Trần Nhật Thu, đăng trên Website Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học – Huế.