Tâm Nhiên
Không biết từ đâu ta đến đây
Mang mang trời thẳm đất xanh dày
Lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ
Sống điêu linh rồi chết đọa đày
Mấy câu thơ thời tuổi trẻ, lúc mới 23 tuổi ấy đã theo suốt cuộc đời Nguyễn Đức Sơn, một thi sĩ kiệt xuất trên bầu trời văn nghệ Việt Nam hiện đại. Rờn lạnh hoang vu một tâm hồn cô độc, cô liêu khốc liệt, luôn luôn ngún cháy bên trong chiều sâu linh thức một ngọn lửa tịch mịch vô hình, thường trực đứng giữa đôi bờ sống chết giữa đỉnh cao và hố thẳm của tồn sinh bức bách ngay từ những ngày còn chạy lông bông đùa rỡn cùng sóng vàng cát trắng vu vơ dọc mấy hàng cây thông xanh ngút ven bãi biển Ninh Chữ xa mù. Từ đó, từ thuở nhà thơ chào đời năm 1937 ở làng Dư Khánh, Thanh Hải, Ninh Thuận đến nay cũng hơn 70 năm trời đằng đẵng trôi qua rồi mà ngọn lửa tịch mịch đó vẫn còn hừng hực rực ngời như một ngọn lửa thiêng trong lòng người thi sĩ dị thường :
Tôi chỉ có lửa
Và tịch mịch
Trong người
Lửa thơ, lửa mộng, lửa tình yêu, lửa nghệ thuật hay lửa sáng tạo ấy bao giờ cũng được thi sĩ đốt lên trên dặm ngàn cuộc lữ thênh thang. Năm 1957 lúc 20 tuổi, rời làng quê Dư Khánh, tạm biệt thị xã Phan Rang ra phố biển Nha Trang theo học trường Trung học Võ Tánh một thời gian, nhà thơ thường trốn học rong chơi lêu lổng ven bờ biển với những ý tưởng mông lung vời vợi, chơi đùa chạy đuổi bắt những vệt nắng xanh vàng rơi tan trong bọt sóng bồng bềnh lênh láng mộng rong rêu :
Nhiều khi đợi nắng chiều tan
Tôi mông lung nghĩ theo làn mây trôi
Ngày kia nếu ở trên đời
Cha tôi không cưới mẹ tôi bây giờ
Sinh ra tôi có làm thơ
Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi
Những đêm sao sáng đầy trời
Bỗng nhiên tôi khóc trên đồi hư không
“Sinh ra tôi có làm thơ” vì không biết làm chi hơn là làm thơ, làm một cái công việc mà chỉ có những tâm hồn vô cùng nhạy cảm, thường xuyên có sự giao cảm âm thầm thâm sâu uyên viễn với nhật nguyệt thiên địa càn khôn, với hồn thiên cổ xa xăm diệu vời mới thích thú đam mê theo công việc duy nhất của đời mình, ấy là cái việc làm thơ làm thẩn đó thôi. Nói như Tuệ Sỹ khi viết về Sơn Núi : “Sinh ra để làm thơ, đó là Định mệnh ?” hay như Phạm Công Thiện, một người bạn thân thiết ngày xưa với Nguyễn Đức Sơn cũng nói : “Làm thơ là hố thẳm xoáy tròn vào cơn bão tố rùng rợn của thơ và chỉ nhìn thấy thơ trên trời, thơ ở dưới đất, thơ trong tim, thơ trong óc não, thơ trong mạch máu, thơ trong hơi thở, thơ trong đời sống, thơ trong cái chết, thơ trong hiện thể, thơ trong vô thể, thơ trong hư vô… Chỉ có thi sĩ mới sống tận bản thân mình, sống phóng tới đằng trước tất cả những khả tính sắp hiện của dân tộc mình.”*
Đích thực Nguyễn Đức Sơn là một thi sĩ kỳ tuyệt, một nhà thơ mà hồn thơ luôn tuôn trào trong huyết quản rạt rào vô hạn. Chàng “lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ” nên đi đứng ngó nhìn bất cứ sự vật trần cảnh, lạnh nóng cao thấp, trời xanh mây trắng, con người con vật chi chi cũng đều thấy thơ và thơ bàng bạc thấp thoáng, ẩn hiện lung linh, rạo rực xao xuyến ở trong máu trong hồn như vậy, khiến cho ý tình rung lên bổi hổi dâng đầy. Tuy thấy được vẻ đẹp cực kỳ của tạo vật đất trời nhưng đồng thời cũng ý thức tận cùng cái hư ảo mong manh của cuộc sống, như một lần nhà thơ thổ lộ ở trang bìa trong tập thơ Đêm nguyệt động : “Một buổi chiều trốn học lang thang trên bờ biển Nha Trang thời niên thiếu, tác giả suýt nổi cơn điên khi trực nhận mãnh liệt cái quá ư ngắn ngủi của kiếp sống và từ đó đâm ra khật khùng cho đến nay.” Vậy đó, ngó nhìn đâu cũng rung động cũng thấy đẹp tuyệt vời, nhưng đẹp tựa ánh chớp như bọt nước sương rơi :
Tôi bỗng thấy mạch đời bừng chảy
Như nhựa xuân tràn lên đầu cành
Rồi tôi thấy mạch đời đang chảy
Ở trong tôi mà sao mong manh
Ý thức tức thì cái mong manh thoáng chốc của bọt nước, cái phù du hư huyễn vô thường của cuộc đời, cái lênh đênh trôi dạt của thân phận kiếp người giữa cuộc phù sinh dâu biển như thế, nhà thơ chợt thấy bùng vỡ ra một điều chi vi diệu như triết gia Nietzsche thấy thượng đế đã chết rồi, nghĩa là không có thực, chỉ còn đây trên mặt đất là sự có mặt đương nhiên của con người và nhà thơ tự hỏi, tự khai phá về sự hiện hữu của con người, về lẽ sống chết, về lý âm dương tự nhiên của tạo hóa. Tất cả sự hiện hữu này có ý nghĩa chi không hay chẳng có nghĩa lý gì cả hỡi trời mây vạn đại thái cổ từ thuở hồng hoang nào lạc dấu mộng sơ nguyên ? :
Lênh đênh thuyền dạt xa miền
Nửa đêm bừng tỉnh man thiên một trời
Trông lên thượng đế đi rồi
Hỏi mây thái cổ con người vân vi
Lối mòn cỏ mọc xanh rì
Ngoài ra kìa chẳng có gì nữa sao
Đảo buồn thổi gió lao xao
Ngàn xưa còn tiếng thì thào biển khuya
Biển tàn khuya gõ nhịp đi về nhưng biết về đâu giữa khuya dài lê thê trong đêm tối đen ngòm mịt mù u ám của nhân loại ? Vai gầy nghiêng nghiêng lệch gót chân xiêu vẹo bước theo bóng mình xơ xác qua vạn nhịp cầu ảo dị suy tư. Tuổi còn thanh xuân mà cứ tưởng tượng đến ngày mái đầu bạc phơ tóc trắng, chẳng hề gì vì đường thơ vẫn còn liều lĩnh dấn thân nhập cuộc, cho dù cũng lắm lắm hiu hắt tàn xiêu :
Biển hoang cồn lạnh tiếp chiều
Đá trơ với đá tôi liều với thơ
Áo quần hai bộ xác xơ
Quạnh hiu dù đến bạc phơ mái đầu
Nẻo xa chưa thấy nhiệm mầu
Chân còn bước vạn nhịp cầu suy tư
Suy tư, trầm tư, uyên tư là sống triết lý. Sống triết lý là sống cố ý, chú tâm triệt để vào một vấn đề nào đó như thiền sư nhiếp tâm miên mật vào công án tử sinh của đời mình. Giữa chợ đời đông đảo náo nhiệt, bắt buộc người ta phải biết suy ngẫm trầm tư để phân biệt đúng sai, phải quấy này nọ, nhưng khi đứng trước đại dương mênh mông rộng rãi thì điều đó không còn cần thiết nữa. Cứ thoải mái tha hồ vô tư với từng hơi thở, mở toang từng buồng tim thớ phổi ra mà thở cho thật nhẹ nhàng sảng khoái thẳm sâu :
Đầu tiên tôi thở cái phào
Bao nhiêu phiền não như trào ra theo
Nín hơi tôi thở cái phèo
Bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không
Sướng nên tôi thở phập phồng
Mây bay gió thổi trời hồng muôn năm
Mai sau này chỗ tôi nằm
Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru
Thiền sư Nhất Hạnh suốt bình sinh du hóa khắp nơi trên thế giới cũng chỉ xiển dương cái sự việc thở ra thở vào một cách vững chãi thảnh thơi như vậy mà thôi. Biển sóng ru êm ái rào rạt như tiếng nhạc mơ hồ xào xạc từ xa xôi đồng vọng lại, nghe dạt dào xao động như cung đàn Mozart, Chopin, Beethoven… Nắng chiều tà nhòa nhạt dần dần buông nhẹ xuống bóng hoàng hôn lãng đãng phất phiêu bay giữa ngàn trăng thanh gió mát, làm sao mà không nổi hứng bỡn cợt rỡn đùa với nàng thơ diễm kiều lãng mạn phiêu diêu :
Chiều êm hơn cả gió lùa
Tôi ra cuối bãi tôi đùa với trăng
Tay choàng lên với môi hằn
Tôi mơn gió lả tôi măn vú đồi
Có hương có nhạc trên trời
Tóc tôi se gió mắt ngời ánh sao
Rạo rực nao nức những đêm trăng huyền hòa tỏa ngan ngát hương biển ngàn mới lạ Nha Trang, những chiều vàng thanh xuân hứng chí chi mà cứ mãi miết đuổi theo những áng mây trời viễn mộng khoáng đãng bao la, nhòa nhạt trong sóng nắng hoàng hôn nhấp nhô dào dạt tiếng lòng long lanh lấp lánh bao mộng đời ơi chao xao xuyến miên man một niềm chi không thể thốt nên lời :
Biển chiều còn lại mình tôi
Đuổi theo mây bạc giữa trời bao la
Thủy triều chợt rút ra xa
Bóng thanh xuân rụng ác tà sau lưng
Sau lưng bỏ lại dấu thanh xuân khuất bóng, khi thi sĩ quyết định dời gót lên đường viễn phương hành vào phố thị Sài Gòn, tiếp tục chuyện sách vở học hành ở Đại học Văn Khoa. Tưởng là mở ra một chân trời mới, một niềm hy vọng phong quang nhưng bất ngờ trở chứng, tính khinh bạc ngông cuồng bộc phát đột ngột, mới học vài ba năm chưa tốt nghiệp thì đùng một cái chàng bỏ ngang dang dở nửa chừng, để lạnh lùng đứng dậy quay về thế giới độc đạo cô liêu của riêng mình. Tịch nhiên trầm lặng đối mặt với nỗi cô đơn rờn lạnh quạnh hiu, với nỗi sầu vạn đại như thi sĩ Huy Cận : “Một chiếc linh hồn nhỏ. Mang mang thiên cổ sầu.” Sầu thiên cổ mang mang quằn quại, nhói buốt ngay từ lúc còn trốn học lêu lổng rong chơi :
Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Nhìn trước nhìn sau thấy rõ ràng
Những người đi trước sầu đeo nặng
Những người đi sau sầu không tan
Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Thấy hay hay nhưng làm sao cười
Như chuyện lớn lên rồi có vợ
Cuối đời về đất lạnh nằm xuôi
Ngập ngừng chân bước con đường vắng
Mây trắng bay lên òa đất trời
Tôi cúi đầu nghe mình nhỏ lệ
Biết chuyện gì rồi cũng buồn thôi
Người thi sĩ ứa lệ không phải vì xót thương cho thân phận của mình mà thực ra là chạnh lòng trắc ẩn trước sự mong manh mỏng mảnh, bèo bọt thoáng chốc quá ư là nhỏ bé phù du của kiếp nhân sinh giữa trời đất vũ trụ bao la như nhà thơ Trần Tử Ngang một lần kia tình cờ đi ngang qua nghĩa địa thấy hàng trăm nấm mộ ven đường mà bàng hoàng cảm thán xót xa :
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
Giọt lệ thi nhân nhỏ xuống nấm mồ nhân thế có ý nghĩa gì trên cuộc về của chúng ta ? Cuộc đi hay cuộc về là một cách nói cho văn vẻ có đầu có đuôi, chứ thực ra chẳng có cuộc nào cả ngoài cuộc sống đang diễn ra hàng ngày ở ngay trước mắt sờ sờ, ngay trong từng hơi thở ra vào sinh động đây thôi. Cuộc sống thực tế, thực tại hiện tiền ngay đây trên mặt đất này là đã đủ đầy hoan lạc, vô cùng hạnh phúc rồi, đừng có ngu xuẩn vọng tưởng mong cầu một thế giới nào khác ở đâu đó trên trời với cảnh thiên đàng, cực lạc huyễn hoặc mơ hồ. Bao thần thánh, thần linh, thượng đế tối cao vô hình đang quan sát, chiếu cố chúng ta là một ảo tưởng, ảo giác cuồng si, chỉ là do những đầu óc mê vọng tưởng tượng bày vẽ ra đó thôi, như triết gia Osho tuyên bố : “Thượng đế không hiện hữu, chưa bao giờ có thực.” Hãy để cho chúng chết đi, tự rơi rụng cho rồi. Với thi nhân, sống thì phải sống mãnh liệt, dốc hết sức bình sinh ra mà sống một lần cho thấu triệt thiên thu, siêu thần bạt thánh, cho nên hãy vận dụng thập thành công lực, đứng bật dậy nhảy múa hát ca sôi nổi nhập cuộc tuôn trào lai láng theo mạch đời trôi chảy đầy mới lạ mới mẻ đầy đam mê xuất thần say sưa ngây ngất :
Hãy đốt đuốc hằng đêm trên trái đất
Cho núi rừng và biển thẳm lung linh
Các em làm sáng rực cả vô minh
Để anh có một nguồn vui bất tuyệt
Hãy đọc kỹ hồn anh trong bóng nguyệt
Các em vừa mười bốn với mười lăm
Bài học gần nhưng cũng rất xa xăm
Các em hãy bắt đầu yêu bụi cát
Bởi trái đất là niềm kiêu hãnh nhất
Dù xe đời lăn hố thẳm ngửa nghiêng
Đã chết rồi bao ngưỡng vọng thiêng liêng
Dù khuya vắng trời muôn sao lấp lánh
Chúng đã dựng lên bao nhiêu thần thánh
Ung thúi rồi dưỡng chất của chiêm bao
Đêm mới về niềm hoan lạc xôn xao
Ta đốt đuốc chạy dài trên trái đất
Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất là bước đi muôn chiều tiêu dao của thi sĩ thiên tài Phạm Công Thiện, còn Nguyễn Đức Sơn nhà thơ xuất chúng thì đốt đuốc lên chạy dài trên trái đất thênh thang. Đi nghêu ngao hay chạy rộn ràng cũng cùng một thể điệu phiêu bồng chuếnh choáng, hân hoan tiếp diễn lồng lộng không ngừng :
Một đêm sao ở trên rừng
Đua nhau rụng xuống chào mừng nhân gian
Hồn tôi cây cối liên hoan
Rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
Tuổi vàng suối mộng trời thơ
Lớn lên tôi chết trên bờ hư không
Sống rạt rào hào hứng cho đã cái đời chơi ngông bồng bềnh nghệ sĩ rồi bất thình lình nỗi chết hiện về ám ảnh khôn nguôi, khiến chàng thi sĩ thượng thừa như thế cũng ngậm ngùi cay đắng, chẳng biết làm sao hơn là ngắm nước chảy mây trôi trước niềm đau khổ thống thiết chợt xảy đến trong đời :
Một ngày đau khổ chín trong tôi
Tôi đến bên cây lẳng lặng ngồi
Cây thả trái sầu trên nước lắng
Mặt hồ tan vỡ ánh sao trôi
Thôi nhé ngàn năm em đi qua
Hồn tôi cô tịch bóng trăng tà
Trời sinh ra để chiều hôm đó
Tôi thấy mây rừng bay rất xa
Mây bay nước chảy, gió cuốn sương rơi là sự tuần hoàn tự nhiên của tạo vật đất trời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói cứ để gió cuốn đi hết những mối tình thơ mộng như dòng sông trôi cuốn phù sa ra biển cả muôn trùng. Chúng ta chỉ cần chứng kiến sự luân lưu trôi chảy là đủ rồi, biết thưởng thức vẻ đẹp luôn luôn thay đổi bởi muôn đời sự đổi thay biến chuyển là chân lý hiển nhiên. Ý thức trục tiếp được điều đơn giản đó, thi nhân chấp nhận sự thật và can đảm lẫm liệt thổi bừng lên ngọn lửa tim hồn đốt cháy, thiêu rụi cả thành vách bịt bùng khủng khiếp của hư vô để hiển lộ ra cái tinh túy tinh hoa, ngay trong sự đổ vỡ dở dang vẫn còn đó vầng trăng bát ngát, vầng trăng tâm linh xanh biếc thiên thu là nguồn cảm hứng sáng tạo vô cùng đắm đuối của bậc tài hoa thi sĩ :
Khi ý thức mặt đất này dang dở
Ta vội chìm trong bóng nguyệt mang mang
Khi chấp nhận ngàn lần trong đổ vỡ
Ta một hồn đắm đuối giữa tan hoang
Phản kháng, nổi loạn là cá tính vốn có sẵn trong dòng máu nhiệt liệt của nhà thơ luôn luôn tìm tòi mới lạ, khát khao tuyệt đối, khao khát tự do từ thời còn nhỏ tuổi, vì ý thức trực cảm trước sự đổ nát tan hoang trên mặt đất trần gian mà chàng lao đầu húc vào mọi thứ như muốn thách thức những thế lưc vô hình cho nguôi đi ý niềm bổi hổi sục sôi :
Tôi dừng lại giữa năm mười sáu tuổi
Một sớm hồng nghe nắng rụng tan hoang
Tôi nằm xuống phập phồng hai lá phổi
Sao mạch đời đang chảy bỗng khô ran
Đau nhức quá trong tôi niềm tuyệt đối
Nên cởi quần chạy giữa đám vi lô
Tôi động cỡn nhảy kè bên khe núi
Rồi ôm đầu lao thẳng xuống hư vô
Hư vô, hiện sinh, tình yêu, tính dục là những vấn đề cháy bỏng nóng hổi mà tuổi trẻ rất băn khoăn, thắc mắc và nhà thơ trải lòng ra mà chia sẻ một cách tâm huyết rằng, các em hãy mạnh mẽ hùng tráng mỉm cười đứng lên, tự nhận trách nhiệm với chính mình, mãnh liệt hiên ngang sống tự do, tự giải thoát mình ra khỏi những bóng ma thượng đế thánh thần vớ vẩn đang trú ẩn đâu đó ở trên cao vô tăm tích kia, hãy kiêu hùng dũng khí lao đầu vào con đường không lộ, vô mục đích với tư thế tự tin tự lực, vững mạnh vững vàng :
Các em hãy đi tuần quanh trái đất
Ôi tuổi vàng mười sáu với mười lăm
Phải hoàn thành sứ mệnh một trăm năm
Trước khi biến tan vào trong bụi cát
Nắm tay cất đại đồng ca bát ngát
Ở trên đầu thần thánh với âm binh
Mấy ngàn năm nguồn cội của điêu linh
Chúng lảm nhảm an toàn sau bí tích
Kiêu dũng nhất là con đường không đích
Ta cắm đầu lao thẳng tới hư vô
Ôi mộng đời cháy sém cỏ cây khô
Trăng thế kỷ rừng Đông phương tỏa chiếu
Phiêu bạt lang thang khắp vùng Phan Rang, Nha Trang ngút ngàn Đơn Dương, Đà Lạt, lưu linh lạc địa xuống miền Bảo Lộc, Bình Dương rồi Biên Hòa, Sài Gòn… Cuộc lữ du sĩ ca qua mọi chốn miền duyên hải ngút ngàn biển xanh cát trắng rồi tưng bừng lên rừng cao rú thẳm xa xăm, có lúc sung sướng, thăng hoa phấn chấn ngất trời, rồi nhiều lúc cũng bầm dập tiêu điều, điêu đứng những nẻo đời gian nan bão bùng lốc xoáy. Xoay xuở đủ đường trước bao nhiêu chuyện đa đoan thúc bách trăm chiều, tự đẩy mình vào những chốn khốn cùng túng quẩn nhất. Có lần xui xẻo bị bắt giam vào nhà lao vì trốn quân dịch, không chịu đi lính ra chiến trường cầm súng bắn giết đồng loại. Nằm co ro tê tái trong trại giam chật chội ngột ngạt giữa trưa nồng oi bức, bưng chén cơm tù lên thi nhân vẫn trân trọng sự sống, cảm tạ đất trời vô lượng bao dung :
Mỗi ngày cúi xuống hạt cơm
Anh nghe thấm một mùi thơm lạ lùng
Cắn đôi hạt muối thường dùng
Biết ơn trời đất vô cùng em ơi !
Trăm năm ta sống một đời
Ngàn năm gởi lại chút lời thở than
Ai đã từng lâm vào cái cảnh tù ngục đọa đày thì mới thấy thật là kinh rợn khủng khiếp như thân thể bị ghẻ lở tróc da đầy mình, bệnh tật bệnh hoạn không thuốc thang, nằm bầm dập não nề thê thảm, chẳng có một người nào chăm sóc thì bất cứ ai ai cũng cảm thấy xót thân tủi phận, căm hờn phẫn nộ bọn cầm quyền độc tài tàn bạo, thế nhưng ở đây, thái độ ứng xử lại trái ngược hoàn toàn, chàng thi sĩ bị đọa đày nhốt trong tù như thế mà không oán giận, vẫn thản nhiên điềm nhiên bày tỏ những lời tri ân chân thành, cảm ơn ngục tù, cảm ơn tật bệnh ghẻ lở, cảm tạ sự tăm tối vô minh :
Cảm ơn ghẻ mọc đầy mình
Cảm ơn bệnh hoạn chung tình với ta
Cám ơn dái tróc đầy da
Cảm ơn tù dẫn tôi ra khỏi đời
Cảm ơn tất cả xa rồi
Hôm nay tôi thấy tôi ngồi bên tôi
Cảm tạ tất cả sự nghiệt ngã của cuộc đời vì nhờ đó mà nhà thơ mới có cơ hội đối mặt với bản thân, thấy lại cái mặt mũi xưa nay của chính mình. Ơi chao ! Thật là một cái nhìn sáng tạo tân kỳ, chỉ có những bậc siêu việt mới thấy được như thế, biểu lộ một tâm hồn thượng đẳng hoằng đại, vì đối với một tâm hồn thượng đẳng hoằng đại thì dù họ có sống ở đâu, ngay cả trong ngục tù tối tăm đi chăng nữa, họ cũng chuyển thành một dịp may hy hữu vẫn thấy xiết bao nguồn cảm hứng sáng tạo như thi hào Rainer Maria Rilke phát biểu : “Nếu đời sống thường nhật trở nên nhạt nhẽo nghèo nàn đối với mi thì mi đừng bao giờ oán trách nó. Mi hãy tự trách chính mi rằng mi không đủ tâm hồn thi nhân để mà có thể gợi dậy trong lòng mình tất cả sự phong phú miên man của đời sống thường nhật. Vì đối với một con người sáng tạo thì chẳng có gì nhạt nhẽo nghèo nàn, chẳng có một nơi chốn nào là khô khan lãnh đạm, dù ngay lúc mi đang ở trong nhà tù đi nữa, giữa những vách tường bưng bít, không để lọt vào những tiếng động của thế gian. Phải chăng ngay lúc đó trong lòng mi vẫn luôn luôn còn lại tuổi thơ, kho tàng quý báu, chứa chất bao nhiêu kỷ niệm tuyệt vời ? Hãy hướng tất cả tâm tư mi vào đó… Dọ dẫm tận đáy lòng sâu thẳm mà từ đó đời sống mi đã phát nguồn luân lưu trôi chảy…Bởi vì một nghệ sĩ sáng tạo bao giờ cũng có một vũ trụ cho riêng mình, phải tìm tất cả mọi sự ngay trong tâm hồn sâu thẳm của chính mình đây thôi.”**
Với tâm hồn thi nhân tuyệt hảo vô cùng phong phú đó, Sơn Núi nhào lộn vào cuộc tồn sinh, giáp mặt trăm bề nghìn phía, từng băng qua lội nát mọi chân trời triết lý Đông Tây kim cổ, ngưỡng mộ triết gia Héraclite tôn sùng văn hào Dostoevsky và nhất là rất thích ưa thưởng thức những hương ngàn cỏ nội, kỳ hoa dị thảo của thục nữ mười phương như có lần thi sĩ bày tỏ rõ ràng : “Ngưỡng mộ Héraclite, Dostoevsky và Simone Weil. Yêu chim chóc và cỏ cây một cách lạ lùng nhưng cũng quá cần ngửi mùi quần áo lót của đàn bà và con gái, cần khẩn thiết và triền miên cho tới ngày chui xuống lỗ…”*** Chao ơi ! Mới nghe nhà thơ nói thật lòng thật dạ một cách thiệt tình không giấu giếm như thế khiến ai cũng phải bật cười thú vị. Vì dường như hầu hết thiên hạ người đời trên cõi ta bà tục lụy này đều thích làm chuyện ấy mà chẳng dám nói ra đó thôi. Họ mắc cỡ, cố làm ra vẻ đạo mạo nghiêm trang, điệu bộ mẫu mực chững chạc đàng hoàng nhưng bên trong lòng dạ thì bị ức chế điều đó lắm, vẫn ham muốn thèm khát âm thầm. Nhằm khai mở những ức chế không đáng có đó, thi nhân vén lên tấm màn che đậy để hiện bày ra sự thật trần truồng qua cách nhìn nghệ thuật mỹ cảm hiện sinh tinh tế, bằng sự rung động bồng bềnh cảm khoái, ly kỳ gay cấn rất mực hài hước lai rai :
Trên rừng ấy một mình anh hái trái
Đang mơ màng trông thấy quá nhiều chim
Bên mương vắng em vén quần sắp đái
Anh thấy càn khôn rụng xuống trong tim
Anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước
Miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
Em chưa đái mà hồn anh đã ướt
Không biết trong mơ em còn mắc cỡ
Một đêm vàng rúng động giấc thanh tân
Dưới chăn chiếu thiên nhai lồ lộ mở
Em đái dầm ướt sẫm cả trần gian
Giữa khuya đó em bàng hoàng tỉnh dậy
Cả mặt hồ tràn ngập ánh sao băng
Khắp trong người em máu nóng đang căng
Xao xuyến quá em tuột quần xuống đái
Bắt đầu thở là bắt đầu hạnh phúc
Không bao giờ anh nói dối em đâu
Ôi bất động ngàn năm thân gỗ mục
Cửa tồn sinh em hãy mở cho lâu
Chúng ta ra đời nhờ cửa tồn sinh kỳ diệu đó, cái cửa mình của người phụ nữ mà Mật Tông Tây Tạng ví như đóa hoa sen thơm ngát mọc lên từ đáy ao hồ đầy bùn lầy nhầy nhụa làm tỏa hương thanh khiết cho đất trời. Bất cứ bậc giáo chủ, hoàng đế, thượng sĩ, vĩ nhân nào trên mặt đất trần trụi này thì cũng đều khai sinh ra từ nụ liên hoa mầu nhiệm đó mà thôi. Ơi hương đời nhiệm mầu ấy, thi nhân tha hồ thưởng thức rực nồng hơi ấm âm dương hòa quyện giữa nhật nguyệt phập phồng hoan lạc ngát lâng lâng :
Đây lứa cỏ của mùa trăng thứ nhất
Đưa anh vào trong cõi mộng xa xăm
Giọt tinh huyết ngàn năm sau chưa mất
Rừng đông phương mù mịt dấu em nằm
Thở hổn hển là bắt đầu sướng nhất
Cỏ cây nằm im bẹp giữa hôn mê
Giường tre cũng rung rinh như trái đất
Nên suốt đời tôi thích ở nhà quê
Thà ở nhà quê thà làm thằng chăn trâu mộc mạc hoang dã, sống thật với chính bản chất của mình, còn hơn là chễm chệ phì nộm nặng nề ngồi bệ vệ trên ghế nệm sa lông trong tường cao cổng kín phòng máy lạnh, bày đặt huênh hoang hội thảo quốc gia này đến hội thảo quốc tế nọ để luận bàn về chiến tranh hay hòa bình, tình yêu hay tính dục, cộng sản hay tư bản, duy tâm hay duy vật, Phật hay Chúa, tà hay chánh, thánh hay phàm, thiện hay ác, hữu hay vô… bất tận không ngừng :
Luận về không hay có
Đâu bằng nhìn cái mồng của em
Sắp ló
Có lẽ xưa nay chưa từng có ai trên thế giới phát hiện ra một chân lý đơn sơ giản dị mà khổng lồ như Sơn Núi đã phát hiện độc đáo :
Mộ
Một nấm
Vú
Hai núm
Chỉ cần sáu từ ngắn gọn thôi, thi nhân đã lột tả toàn diện, nói lên được toàn thể sự sống và sự chết muôn đời của kiếp nhân sinh trên quả địa cầu tròn đang quay lông lốc giữa không gian.
Chàng thi sĩ xuất hiện trên diễn đàn văn nghệ như một hiện tượng lạ, một quái kiệt thiên lôi sấm sét, có cách ăn nói lạ lùng bộc trực, khinh bạc khác thường, bằng cái giọng ngang tàng quyết liệt, gây ấn tượng nổi bật vì chuyên gây hấn, tấn công những bọn côn đồ sắt máu, bọn người ngợm đội lốt tôn giáo, văn nghệ để làm những chuyện xằng bậy, gian trá quỷ quyệt, lợi dụng rủ rê mê tín, bắt người ta thờ lạy đấng thượng đế tối cao, bậc thần thánh tối hậu ở đâu mù mịt xa lắc trên trời, gieo rắc bao nhiêu nỗi sợ hãi cho rất nhiều người nhẹ dạ. Làm gì có những cảnh giới thiên đường, tây phương cực lạc ở trên đó. Có lần bất nhẫn điên tiết, chàng gầm lên la hét thật to :
Tôi định một ngày nào đó
Thật thảnh thơi
Leo lên trời
Ỉa
Chán ngấy muốn lộn mửa cái cảnh ngoài miệng thì nói bô bô đủ thứ chuyện thiện lành thánh thiện, bác ái vị tha, lương tâm đạo đức nhưng bên trong tâm địa thì hắc ám đầy hiểm ác gian manh kiểu Hoạn Thư : “Mặt ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.” Ngao ngán loại người ngụy quân tử như Nhạc Bất Quần nói một đường làm một ngã, đeo mặt nạ giả danh pháp sư, nhà truyền giáo, chuyên môn lừa đảo tinh vi quỷ quái vẫn còn hoạt động rộn ràng phát huy môn phái, mở rộng nhà ma cửa quỷ, hoằng dương tà đạo loạn xà ngầu bát nháo lao xao :
Người ta giấu đạo
Trong hũ gạo
Trời ơi !
Đó là một sự thật cay đắng, bất đắc dĩ thi sĩ phải nói ra, khiến cho bọn đạo đức giả tức hộc máu, không biết làm chi hơn gán ghép chàng là kẻ phá hoại, báng bổ thần thánh, tên du côn hoang đàng ngạo mạn. Chúng không biết rằng, trong thơ văn chàng trái lại, chứa chan tràn đầy tính chất trữ tình lãng mạn, ăm ắp niềm yêu mến thiên nhiên, yêu thương nhân loại, mở ra bầu không khí trong lành khoáng đãng tự do hít thở, bằng cái giọng rất tân kỳ mới lạ quá đỗi đặc biệt quyến rũ một cách bất ngờ. Cái giọng thơ phiêu bồng độc đáo vô song, độc nhất vô nhị xưa nay chưa từng thấy. Thơ văn chàng bắt đầu đăng tải nhiều trên các tạp chí Thế Kỷ Hai Mươi, Khởi Hành, Bách Khoa, Sáng Tạo, Thời Tập, Thời Nay, Trình Bày, Đối Diện, Mai, Văn, Văn Nghệ…
Thời kỳ đó là vào khoảng năm 1961 đến 1975 sinh hoạt văn nghệ Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đang chuyển mình thăng hoa huy hoàng, phát triển rầm rộ về mọi mặt. Hàng ngàn tác phẩm thơ văn, nhạc họa, dịch thuật đủ thể loại kim cổ Đông Tây thi nhau xuất bản, ấn hành mạnh mẽ. Nổi bật nhất là các khuôn mặt Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nhất Hạnh, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ Sỹ, Phạm Thiên Thư, Hoài Khanh, Thạch Trung Giả, Như Hạnh, Vũ Hoàng Chương, Trúc Thiên, Nguyễn Duy Cần, Tam Ích, Nguyễn Đăng Thục, Quách Tấn, Ngô Trọng Anh, Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc, Giản Chi, Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Cung Tiến, Hồ Thành Đức, Đinh Cường, Lê Thánh Thư, Thi Vũ, Trần Xuân Kiêm, Kim Tuấn, Trần Tuấn Kiệt, Huy Tưởng, Nguyễn Tất Nhiên, Luân Hoán, Doãn Quốc Sỹ, Mường Mán, Hoàng Trúc Ly, Mai Thảo, Trần Phong Giao, Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Nguyễn Hữu Hiệu, Võ Phiến, Tô Thùy Yên, Bửu Ý, Nguyễn Đình Toàn, Hoàng Lộc, Phan Nhật Nam, Quách Thoại, Trần Dạ Từ, Chu Tử, Vũ Hữu Định, Linh Phương, Cung Trầm Tưởng, Phổ Đức, Dương Nghiễm Mậu, Thành Tôn, Đặng Tấn Tới, Nhật Tiến, Nguyễn Bắc Sơn, Tạ Ký, Du Tử Lê, Thế Phong, Hạc Thành Hoa, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trần Thị Tuệ Mai, Phùng Khánh tức Thích Nữ Trí Hải…
Năm 1965 Tạp chí sáng tác văn nghệ Mặt Đất do Nguyễn Đức Sơn chủ trương ra đời, lồng lộng phóng khoáng một luồng gió mới lạ thổi qua mặt đất gây nên một trận bão hào hứng xôn xao trong giới văn nghệ sĩ, nhưng chỉ ấn hành được dăm bảy số rồi nghỉ vì nhiều lý do ngoài ý muốn. Buồn bã không còn đất dụng võ, tung hoành ngang dọc trên mặt trận văn chương nữa, thi sĩ buông mình xuống dòng đời trôi lênh đênh như nhánh rong phiêu bạt qua những gập ghềnh suối thác miên man sáng tạo trong cô đơn cố hữu thầm thì :
Mang mang trời đất tôi đi
Rừng im suối lạnh thấy gì tịch liêu
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh
Còn một mình hỏi một mình
Có chăng hồn với dáng hình là hai
Từng trưa nằm nghĩ đất dài
Phiêu phiêu nhẹ cái hình hài bay lên
Mù sương âm vọng tiếng huyền
Có con dơi lạ bay trên cõi đời
Sau xưa mắt đã ngợp rồi
Tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không
Sống và chết cùng song hành đi chênh vênh bên vực thẳm tồn sinh. Thấm thía rợn cả người trước sự tàn bạo, vô nhân đạo của cuộc chiến tranh tương tàn tương sát đang diễn ra khốc liệt trên khắp quê hương Việt Nam, nhà thơ tìm đủ mọi cách để không bị nhà cầm quyền bắt đi lính ra chiến trường bắn giết dã man nên thường tá túc trong các chùa chiền liêu vắng hay các xóm nhà lá tồi tàn xơ xác. Hát khúc giang hồ ca bạt mạng lên rừng xuống biển, xuôi ngược trăm miền rồi cát bụi mệt mỏi tấp về Bình Dương dạy học tiếng Anh ở mấy trường tư thục Bồ Đề từ năm 1965 đến 1967. Thời gian ở đây, bất ngờ kỳ ngộ nàng thơ Nguyễn Thị Phượng trong chùa Tây Tạng, một tiên nữ giáng trần diễm tuyệt khiến cho chàng thi sĩ rúng động cả thần hồn, rồi xuất cốt thành tác phẩm Đêm nguyệt động đầy chất thơ mộng, gồm 17 bài thơ trữ tình mỹ lệ để đánh dấu năm 17 tuổi của người tình vĩnh cửu yểu điệu dáng thơ gầy thục nữ đoan trang :
Năm mười sáu em bắt đầu thấy rát
Khắp trong người rờn rợn máu đang căng
Hồn hoa đã động tình đêm thứ nhất
Em đến nằm phơi mộng giữa vườn trăng
Trong bóng lá anh thấy mình chết điếng
Cả xác thần rời rụng bãi cô liêu
Từ dạo đó anh đâm ra lười biếng
Bởi mộng đời còn lại có bao nhiêu
Anh chưa nắm tay em mà muốn chết
Trong khu rừng huyền hoặc của chiêm bao
Ôi hạnh phúc mong manh như sắp hết
Giữa đêm nào trăng thở quá xôn xao
Anh quỳ xuống dưới vòm trời khao khát
Dù thật lòng em chưa muốn cho xem
Đời anh đó đâu lớn bằng hạt cát
Đã vô tình vương dưới gót chân em
Em về em hiện, em đến như tiếng sét ái tình làm bùng vỡ tâm thức rực ngời lửa âm dương cháy đỏ, cho nên đám cưới được tổ chức tức thì ở ngay trong chùa Tây Tạng, lúc chàng vừa đúng 30 tuổi. Buổi tiệc chay đám cưới đó, có thi sĩ Phạm Công Thiện, Nguyễn Miên Thảo, nhà văn Bửu Ý và Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm tham dự. Từ đó đến nay Sơn Núi vẫn tiếp tục ăn chay trường vì một lý do dễ hiểu là thương yêu những con chim, con cá, những con gà, con vịt, con hươu, con nai, con dê, con khỉ, con heo, con chó, con bò, con trâu…Không nỡ lòng nào ăn tươi nuốt sống, cắt cổ mổ bụng uống máu các loài động vật rất thân thiết gần gũi ấy được. Thương yêu đến độ như thế là nhân đạo vô cùng vô tận rồi, yêu thương từng con hạc, con ngỗng… huống chi là con người phải không ? Không thể nào không rùng mình ớn lạnh, khi đi ngang qua những đường phố náo nhiệt tràn ngập quán nhậu vỉa hè, chạnh xót xa đau :
Những quán nhậu
Cứ bu quanh lò sát sinh
Thừa hưởng ruột gan phèo phổi
Đâu đến nỗi
Của mình
Tình cảm tự nhiên rất đỗi từ bi của thi nhân là vậy. Ngày tháng dạy học ê a cho qua thời kỳ trốn quân dịch, nhờ tình yêu dịu dàng nở rộ thành một tổ ấm thâm thiết mặn nồng nên nhà thơ cũng cảm thấy phúc hạnh rưng rưng :
Những chiều sẫm tối anh về
Em ra lớp học đi kề vai anh
Một thân áo cánh mong manh
Hôn nhau lệ nhỏ trung thành cho nhau
Cầm tay ta bước đi mau
Hình như bố ráp đằng sau xóm này
Nhìn nhau bụng trống một ngày
Mà sao hạnh phúc giăng đầy nhà thôi
Nửa khuya sao chiếu đầy trời
Ở trong thiên cổ anh ngồi bên em
Em ơi em hỡi nàng thơ thùy mị, em đẹp chi là đẹp mị kỳ duyên dáng dịu dàng vô biên tuyệt diễm, khiến cho kẻ du sĩ lang thang đang mang cả khối sầu vạn cổ bỗng nghe tan biến hết mọi ưu phiền sầu não một cách mầu nhiệm xiết bao, khi em đem về ngan ngát hương xuân ngạt ngào thấm đượm dạt dào khung cửa sổ bên song :
Em đang thay áo trong phòng
Hương xuân bay tỏa sóng lòng tôi đau
Vú thon quá độ nhiệm mầu
Trộm nhìn quên hết ưu sầu thế gian
Tiêu luôn cả cõi niết bàn
Bắt tay chào nhé cái màn vô minh
Vô minh hay niết bàn chỉ là những danh từ khái niệm hư ảo mà thôi, thi sĩ chẳng bận tâm chi lắm. Tắm mình trong mưa nắng đẫm ướt phong trần, sống thường trực trên tinh thần cảnh giác cao độ, bức bách vây khổn bốn bề trăm phía giữa thời buổi loạn ly chinh chiến, bom đạn nổ tứ tung đe dọa mạng sống hàng ngày như vậy nhưng nhà thơ vẫn thở đều đặn bởi hơi ấm rực ngời của ngọn lửa tịch mịch sáng tạo luôn luôn ngún cháy giữa cuộc lữ phiêu linh. Chính vì thế mà các tác phẩm thi ca tha thiết nồng nàn thấm đẫm ruột rà tim phổi máu lệ lần lượt ra đời như Bọt nước, Hoa cô độc, Lời ru, Đêm nguyệt động, Vọng, Mộng du trên đỉnh mùa xuân, Tịnh khẩu, Du sĩ ca… và những tập truyện ngắn sâu sắc hàm súc rung động lòng người, phản ảnh nhiều mặt của đời sống chung quanh như Cát bụi mệt mỏi, Cái chuồng khỉ, Xóm chuồng ngựa, Ngồi đợi ngoài hành lang với tập tiểu luận duy nhất Mười lăm năm thi ca miền Nam chưa kịp xuất bản thì xảy ra biến cố vô thường dâu biển năm 1975.
Tâm đắc với tư tưởng đại văn hào Dostoievsky : “Tôi sợ phải tỏ ra có tâm hồn cao thượng.” Sơn Núi im lặng mặc như lôi, vẫn ngẩng cao đầu một cách lẫm liệt, tuyệt nhiên không thèm gia nhập bất cứ hội đoàn đảng phái, bè lũ đám đông, tập thể phe nhóm nào cả, lặng trầm tách biệt riêng ra, đứng độc lập, lầm lì bước đi một mình một bóng như sư tử rừng xanh, khiến những bè lũ cáo chồn đâm ra đố kỵ nghi ngờ ganh ghét, chẳng dám lại gần, đứng xa xa mạ nhục chửi rủa cho thỏa cái thói tật sân si ganh tị. Chàng thi sĩ lại càng dấn mình vào nẻo thâm sơn rờn lạnh cô đơn cùng tuyệt, heo hút tận chốn miền chẳng có đâu nơi :
Có bay cao chin tầng trời
Chỉ nghe thượng đế ngàn đời nín thinh
Có dòm sâu tận cửa mình
Cũng không thấy được cái hình thế gian
Cái hình thù thế gian như thế nào khó mà thấy cho rõ ràng được, nhất là sau trận dâu biển vô thường 1975. Trong khi hàng triệu triệu người sợ hãi kinh hoàng, hốt hoảng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ đất nước vượt biên, dù biết thập tử nhất sinh cũng bồng bế con cái lũ lượt vượt trùng dương ra đi tìm một chân trời tự do mới thì Nguyễn Đức Sơn đơn độc lặng lẽ rời Sài Gòn đưa vợ con lên núi rừng Đại Lào ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, sống trên đồi Phương Bối Am, nơi chốn cũ ngày xưa thiền sư Nhất Hạnh đã khai phá dựng lập từ năm 1960. Bây giờ trơ trọi ngọn đồi hoang vu cây cỏ dại mọc um tùm, chỉ còn một cái hồ chứa nước bằng xi măng hình chữ nhật cũng đủ cho cả gia đình thi nhân tạm trú trong đó. Có đến tận nơi chứng kiến cảnh đời hiu hắt khắc nghiệt của thi sĩ thì mới hiểu nổi hai câu thơ tiên tri đã viết tự bao giờ : “Sinh ra tôi có làm thơ. Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi.”
Ơi chao ! Dù sống trong tận cùng điêu linh thống khổ nhưng thi nhân vẫn chịu đựng một cách nhẫn nhục phi thường, tự biến lòng mình thành đại dương sâu thẳm, chấp nhận chất chứa và tiêu dung tất cả mọi thứ cặn bã của thế gian trút xuống, giống như họa sĩ vĩ đại Van Gogh : “Đau khổ không than van là bài học duy nhất chúng ta phải học trong cuộc đời này.” Sơn Núi cũng vậy, chưa bao giờ nghe chàng than thở, oán hờn chi cả mà cứ lầm lũi sớm chiều bằng chiếc xe đạp cọc cạch vào rừng kiếm củi khô chở xuống chợ Blao đổi lấy gạo muối đem về. Thế đó, một cuộc đời vô cùng giản dị đơn sơ, rất bình thường chẳng có gì cả ngoài một hồn thơ vẫn trào dâng bao nỗi niềm chi thao thức nhức nhối quá diêu mang :
Về đây say với trăng ngàn
Phiêu diêu hồn ngập giấc vàng đó em
Trăm năm bóng lửng qua thềm
Nhớ nhung gì buổi chiều êm biến rồi
Mai kia tắt lửa mặt trời
Chuyện linh hồn với luân hồi có không
Thái hư chừng sắp chuyển vòng
Đại dương tràn kéo núi đồng tan đi
Chúng ta giờ ước mong gì
Văn minh gởi cát bụi về mai sau
Thấu suốt tương lai như thi sĩ tiên tri thấu thị Rimbaud đã từng thấy, ngày mai đây sa mạc lan dần trên mặt đất hoang vu, thấy rõ tận tường cõi người ta giữa thời đại văn minh cơ khí đang dần dần máy móc hóa con người, bọn hãnh tiến đang muốn biến con người thành những công cụ để sử dụng theo ý đồ độc tài nào đó, thi nhân vất bỏ sạch sành sanh hết thảy mọi sự xuống đống rác thành phố khô kiệt, đơn độc quay về với thiên nhiên rừng núi, cúi xuống quỳ hôn lòng đất mẹ, hít thở cùng mây trắng trăng ngàn sương khói cỏ hoa và đốt lên ngọn lửa tịch mịch quanh đây. Ngày ngày lủi thủi cuốc đất làm rẫy trồng thông, gieo hạt giống mầm chồi xanh tươi mới. Thế rồi hàng ngàn cây thông đã phủ kín triền đồi thành một cánh rừng thông xanh rợp ngời bóng mát để cho hoa cỏ bướm vàng hát ca lặng lẽ vô thanh giữa đất trời tự tại một mình một cõi tự do :
Được làm một sinh vật tự do
Cho đến chết
Tôi quyết không lết
Cũng không bò
Như hầu hết đồng loại hai cẳng
Cứ suy tư nhưng cứ giống chó
Đó đó
Đó
Thái độ vô úy không sợ hãi trước thế cuộc hỗn mang là một thái độ hùng tráng mà người thi sĩ đơn thân độc mã thể hiện giữa thời buổi dầu sôi lửa bỏng, đất bằng dậy sóng ngả nghiêng làm đảo lộn hết mọi thứ giá trị cao quý, nhất là giá trị tinh thần đạo đức cũng xuống cấp trầm trọng, hầu như không còn đất đứng nữa rồi. Ngay trong giới tu sĩ Phật giáo, hình ảnh tiêu biểu, tượng trưng cho đạo đức con người cũng mất đi ý nghĩa tốt đẹp, bởi đa số đều hướng ngoại tầm cầu, chạy theo hào nhoáng âm thanh sắc tướng bên ngoài, vô tình biến Phật giáo thành độc thần giáo, xem Đức Phật như vị thần linh ban phước giáng họa. Họ đem Phật, Tổ ra kinh doanh đủ mọi hình thức, tranh nhau làm thầy phong thủy, thầy cúng, thầy bói coi tướng, đoán vận mệnh, xem nhà cửa bếp núc, cúng sao giải hạn, đua nhau tạc tượng Phật khổng lồ, xây chùa đồ sộ rộng lớn, dựng tháp hoành tráng cố đạt hạng nhất để được xếp vào kỷ lục guinness. Quá vô ích vô nghĩa, phi lý nhất là những cái tháp xây lên tốn bạc tỷ, chỉ để chuẩn bị khi chết, họ vào nằm rục xương cốt trong đó. Họ cũng ráo riết chạy theo bằng cấp, bon chen giành giựt chức vụ lãnh đạo tăng đồ, lập hội này nhóm nọ lu bù gọi là Phật sự, tìm cách phát triển kinh tế riêng tư, hưởng thụ đủ thứ danh lợi thế gian và hèn nhát toa rập làm công cụ cho thế lực vô minh, tiếp tay đưa Phật giáo vào chỗ bạc nhược suy đồi :
Tôi có biết nhiều thiền sư
Rất được lòng quần chúng
Nhờ liên hệ tưởng xa mà gần
Với đủ các loại súng
Đúng là như vậy đó, ai cũng khinh rẻ coi thường, khi nhìn thấy nhiều vị tăng sĩ đi xe hơi tới quốc hội, ngồi lơ láo thảo luận với các đảng viên chính trị về các vấn đề tham nhũng hối lộ, về dân số tăng nhanh, về giáo dục suy thoái, về kinh tế suy sụp, về kế hoạch sinh đẻ, về tệ nạn xã hội…Rồi hô hào tín đồ hãy chấp hành mọi chủ trương đường lối, cố tu phước gắng niệm Phật cầu nguyện chết về niết bàn, hưởng cảnh cực lạc phương tây mơ hồ nào đó, còn sống thì phải tốt đời đẹp đạo…Thật là lố bịch làm sao ! Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tuy cũng có vài đứa con đi xuất gia nhưng đành phải nói lên mặt trái của một số tà sư quốc doanh thời bây giờ đấy thôi. Dù tịnh khẩu lâu rồi mà vẫn muốn gầm lên một tiếng cho khỏi day dứt trong lòng :
Nói
Ói
Mỗi lần nói là mỗi lần muốn ói mửa những cũng đành phải nói, Sơn Núi cứ khẳng khái nói cho những ai còn chút tối thiểu lương tâm nghe ra một sự thật đau lòng nhất, đó là chỉ có vi trùng trong thân sư tử mới ăn thịt sư tử, cũng như vậy, chỉ có tăng sĩ mới có thể phá hủy, phá hoại Phật giáo chứ tuyệt nhiên chẳng phải ai cả, chẳng có thế lực bạo quyền nào nhúng tay vào được cả. Đây là những lời thơ tâm huyết chỉ thẳng vào sào huyệt những kẻ giả danh tăng sĩ, bọn nội trùng Phật giáo cuồng đức loạn tâm :
Về đi thôi kiếm chỗ nằm
Mõ chuông đang nện trăng rằm ngất ngư
Thiền sư ăn thịt thiền sư
Niết bàn nhiều giống chân như nhiều nòi
Tâm teo tóp trí cọc còi
Ma đang thuyết pháp quỷ đòi giảng kinh
Kìa em tịnh thủy một bình
Cửa Không ai viếng cửa mình tôi thăm
Kinh khủng thật, chỉ có Sơn Núi mới đủ khí phách hùng tâm tráng khí, cá tính khốc quỷ kinh thần, bộc trực can trường mới dám sấm sét thẳng thắn chỉ trích ngay vào mặt, chẳng vị nể làm bộ giả đò cung kính gì cả, thích nói là cứ nói ào ào ra vậy thôi. Đôi khi “dĩ độc trị độc” cũng cần thiết lắm phải không ? Không những tấn công kẻ ác quỷ tà ma mà nhà thơ còn muốn bạt tai bọn triết gia kinh viện duy tư thiếu máu, chính bọn này bày đặt ra đủ thứ chủ nghĩa này triết thuyết nọ, vô tình ám sát cả nhân loại suốt từ xưa đến nay :
Tại sao
Thơ cứ mênh mông hát
Khi trái đất
Đang bị băm nát
Bởi đủ loại triết gia kinh viện
Chưa bị ai
Tát
Trước thảm cảnh bi đát đang xảy ra trên mặt đất trầm trọng đau thương, cả thế giới đang bị đủ thứ vũ khí tối tân bằm nát bấy ra như thế, thi sĩ chỉ còn biết im lặng, lắng nghe thơ hát giữa mông mênh vũ trụ và bàng hoàng thấy mưa lộng nắng trào sơ nguyên tuyệt hảo :
Tôi không thể hiểu vì sao
Mà ôi chao
Nắng trào
Tịch mịch
Tịnh hồn du sĩ, quy hồi đồi cao lững lờ thơ bay đầy mây trắng. Ơi mây trắng nắng vàng hoa cỏ trổ lặng im. Trên ngõ về im lặng, lắng nghe nắng trào tịch mịch, thi nhân nhẹ nhàng đưa chân lửng thửng đi đứng bồng tênh trên đồi cao Phương Bối cuối mùa thu nhìn ngắm rừng sương phiêu phưỡng lướt bồng bềnh :
Trưa đứng một mình đợi ai lên
Đất trời đâu có dưới và trên
Đồi cao ổi sót rụng một trái
Dòi ăn một bên ta một bên
Hình ảnh “dòi ăn một bên ta một bên” thật cảm động, không thể nói nên lời. Phản ánh tình trạng nhà thơ đang đói, đói và đói, gian nan và khổ cực bức bách thường xuyên ráo riết đến chỗ gần tuyệt lộ. Thế mà không biết có một phép mầu nào đó đã âm thầm trợ lực cho thi sĩ vượt qua và vượt qua mọi thử thách cực khổ gian nan một cách ngoạn mục như vậy. Giống như nhà văn Henry Miller, một đại văn hào mà Phạm Công Thiện ca ngợi tới mây xanh, rời bỏ kinh thành New York về vùng sơn thượng Big Sur quyết định không làm gì hết, ngoại trừ sáng tạo vì nhà văn nhận định rằng : “Bổn phận của thiên tài là giữ phép mầu sinh động, là luôn luôn sống trong phép mầu, là khiến cho phép mầu càng mầu nhiệm hơn nữa, là không thệ nguyện trung thành với bất cứ cái gì, nhưng chỉ sống một cách mầu nhiệm, suy tưởng một cách mầu nhiệm, chết một cách mầu nhiệm… Sự kỳ diệu và huyền nhiệm của cuộc đời bị bóp nghẹt trong chúng ta, khi chúng ta trở thành một phần tử nào đó có trách nhiệm với xã hội. ”**** Sơn Núi cũng vậy thôi, cũng rút lui về núi rừng hoang vắng tịch liêu, nằm lẫn trong sương mù vạn cổ gõ vào vách đá mà hát khúc hạo nhiên chi khí ca và sáng tạo, sáng tạo không ngừng qua từng hơi thở, từng tế bào mạch máu, từng bài thơ máu lệ thâm thiết quyện hòa khó hiểu một điều chi :
Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô
Hư vô, hư vô, hư vô là gì mà thi sĩ rụng rời khi giáp mặt ? Phải chăng như nhà văn Hemingway (đạt giải Nobel năm 1954) bị hư vô ám ảnh suốt một đời cho đến khi tự tử ? Không biết, không biết, thưa rằng chẳng biết chi mô, chỉ biết rằng nắng trào, lửa cháy tịch mịch trong lòng chàng thi sĩ kỳ dị rất yêu thích nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm lẽ sống cho đời mình như có lần chàng tuyên bố trong Thay lời tựa tập thơ Tịnh khẩu : “Có sống nhiều năm ở Sài Gòn nhưng không hề thấy chút chi cái đẹp của thành phố và tự hỏi không hiểu vì sao hàng tỉ người có thể sống trong những đô thị lớn trên thế giới. Sẽ tự cứa cổ tự tử ngay nếu một ngày nào đó đầu thai lên thấy đất của các đô thị, nhà cửa và khu kỹ nghệ tràn lấn quá nửa diện tích của núi rừng, sông biển, thác suối, ao đầm hồ…Tự nhận là tha thiết với xã hội vô chánh phủ, khó có thể có trên thế giới này. Từ đó, từ đó thôi cũng dễ tắt thở rồi. Vậy chớ cái gì làm cho nó có thể còn sống được cho tới ngày nay ? Ông Phật, ông Khổng và nhất là ông Lão, đành rồi, nhưng còn một ông bao trùm hết và hốt ba ông kia bốc cao lên : Ông Nghệ Thuật.”
Đúng thế, nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình tượng sinh động cụ thể, gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng tình cảm tuyệt trần Chân Thiện Mỹ. Nghệ thuật là một phương tiện giúp cho chúng ta đạt tới chân lý, tới cái như thật, như thị, như như. Sự thật khách quan như thế nào nhìn đúng như thế ấy, bản chất mình như thế nào nhận đúng như thế ấy nhưng dĩ nhiên điều kẻ sáng tạo thấy biết đó không phải là sự thực khách quan cứng nhắc khô khan mà là sự thực sinh động, rung động hơi thở sự sống, rộn ràng nhịp đập thiên thu. Như vậy nghệ thuật ở đây là hơi thở, là đạo sống đích thực, sống hoàn toàn tự do tự tại, giải thoát mọi ràng buộc, mọi trói cột vào vòng nô lệ thế gian. Người nghệ sĩ biết sống thanh thản an nhiên giữa cuộc tồn sinh, dù ở trạng huống bi đát nào thì cũng không run sợ, hèn nhát, van xin, vẫn tự tin chắc nịch vào nội tâm thâm hậu của chính mình, thể hiện qua thơ văn, nhạc họa nhằm nhập diệu ngay vào cái thực tại hiện tiền, ngợi ca cuộc sống yêu thương, thưởng ngoạn cuộc đời rỗng rang vô sự :
Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Duỗi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay tuổi già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên
Nguyễn Đức Sơn mà người dân ở quanh vùng phố núi Bảo Lộc đều gọi là Sơn Núi một cách thân mật, rất thương yêu vợ con và làm thơ dành cho con cái cũng khá nhiều, bài nào cũng chắt chiu nhiều ý tứ sâu xa thâm trầm, vô cùng xúc cảm rưng rưng :
Xem cha đốt cỏ ngoài rừng
Nâng niu mẹ ẳm theo mừng không con
Có vài chiếc lá còn non
Gió xua lửa khói nổ giòn trên không
Nắng tà trải xuống mênh mông
Bước theo chân mẹ cha bồng hư vô
Nắm tay lật úp đi con
Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho cuộc sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây
Nằm yên thôi chớ vùng vằng
Để cha rơ miệng con bằng mật ong
Bẻ luôn cái lưỡi cho cong
Nói năng lấp liếm mới hòng người nghe
Thế đó, một bầy con sinh ra đều đặn dưới trăng mờ sương khói rừng xanh, có hai cô gái út Phương Bối, Tiểu Khê, bây giờ đã lớn hết rồi, trừ Đức Thảo đã mất, còn lại đứa nào cũng tung cánh chim trời, rời núi rừng hoang vắng bay xuống vùng thung lũng bình nguyên, biết sống tự lập và cũng biết mần thơ, nhất là thơ Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Đức Yên bàng bạc hơi giống hồn thơ lục bát của phụ thân. Bởi do có nhiều con cái, lúc nhúc thê tử như vậy, làm sao không tránh khỏi phiền não khổ lụy nên chi Sơn Núi có lúc cũng nói thật, một sự thật não nùng của những gia đình nheo nhóc buồn thiu :
Ở ăn với mẹ mày nhiều
Có trưa hộc máu có chiều trào cơm
Có đêm quẩn trí sôi đờm
Sáng ra cuộc sống quá nhờm con ơi !
Ru con cha rống thấu trời
Oan khiên tan ở giữa đời cho mau
Sầu khổ thái quá, hân hoan thái quá, thi sĩ đi từ cực đoan này đến cực đoan khác một cách tự nguyện, tự dấn thân liều lĩnh đương đầu cho đến tận cùng một vấn đề nào đó trong cuộc sống như muốn khám phá để bùng vỡ ra điều chi bất khả tư nghì. Quả thật, không thể nghĩ bàn chi được hết, chỉ còn một cách thể hiện bằng hành động nhập cuộc, ôm trọn tử sinh trong vòng tay say đắm một lần thật chặt, vì biết rằng chẳng có gì hơn là ảo giác hoang mê :
Rồi mai huyệt lạnh anh về
Ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
Trăng tà đổ bóng cây thưa
Mộng trần gian đã hái vừa chưa em ?
Chắc có lẽ chỉ có Nguyễn Thị Phượng mới trả lời được câu hỏi này mà thôi. Ơi chao ! Hình ảnh nàng thơ gầy mấy chục năm trời sống với chàng thi sĩ dị thường trên núi cao ấy là một hình ảnh đẹp nguyên sơ, một vẻ đẹp hy hữu hiếm hoi đầy sức chịu đựng kiên trì nhẫn nhục, vô cùng độ lượng bao dung. Tình yêu của con người trên mặt đất quả thật vô lượng vô biên, vừa huyền diệu thiêng liêng mà cũng vừa phù du huyễn mộng :
Sáng mênh mông
Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng
Ồ bông
Ồ mộng
Ồ không
Bồng tênh mây trắng bạt ngàn cao nguyên Bảo Lộc, bây giờ trên đồi thông bát ngát Phương Bối đã xây thêm một ngôi nhà có vài ba phòng tiện nghi tương đối, do sư cô Hương Nhũ du học từ Ấn Độ về, tận tình giúp đỡ tài trợ cho gia đình thi sĩ. Sơn Núi ít khi nghỉ ngơi đây mà ở biệt lập một am vắng trên đồi cao nhất Phương Bối, nằm ẩn hiện giữa những bụi trúc xanh vàng lãng đãng sương mù bàng bạc mênh mang. Sáng trưa chiều tối lội lên vòng xuống quanh mấy triền đồi thông trúc biếc song thoại thầm thì với cây cỏ lá hoa :
Sướng quá đời ta tuổi sắp già
Bao nhiêu học thuyết bước đều qua
Nay về dắt bóng chơi am vắng
Ấu trĩ vườn trăng một tiếng gà
Một tiếng gà gáy trưa đâu đó dưới sơn thôn vọng lên văng vẳng rồi tan loãng bay là đà theo sương khói chập chùng lan tỏa khắp mông lung :
Nhờ hồng phúc
Mà nay
Mặc dù đã có gia đình bậy bạ rồi
Tôi vẫn đang ngủ trên am mây
Với những bậc thầy
Muôn thuở trước
Còn nghìn năm sau, nếu có ai chợt nhớ đến nhà thơ Nguyễn Đức Sơn thì cứ việc thoải mái như lời nhắn gởi khơi vơi :
Đời sau người có thương ta
Từ lâu xuống lỗ làm ma mất rồi
Đường xa xin chớ bồi hồi
Mả hoang nhảy đại lên ngồi đi cha
Đã nhiều lần rồi, tôi về thăm Sơn Núi, ngồi lại trên đồi cao nhìn xuống chờn vờn thung lũng dưới kia và bao giờ tôi cũng ngâm nga lai rai vài ba bài thơ của thi sĩ cho gió nắng bồn chồn rộn rã hát xôn xao :
Muôn năm thông vẫn dạt dào
Chiều nay trở lại lũng sầu xa xôi
Tóc em xuống nhẹ vai đời
Ghé thăm hạnh phúc rồi tôi độc hành
Ngày mai núi cũ tôi về
Dĩ nhiên hạnh phúc tràn trề em ơi !
Thơ bay tự cổ ngút trời
Quanh năm bảo đảm tuyệt vời nước mây
Cớ sao đãng tử bậc thầy
Hỏi ra từ đá tới cây lắc đầu
Một đêm sao ở trên trời
Thi nhau rụng xuống bên đổi cây hoang
Lao xao như nắng thiên đàng
Phấn thông hiu hắt bay vàng hồn tôi
Các em rồi sẽ xa xôi
Mình tôi ở lại bóng ngồi thiên thu
Thiên thu hiện hữu ngay trong cái bây giờ, ngay trong mỗi sát na đây thôi, rất thanh thản nhàn hạ tôi dạo quanh đồi núi thong dong, lòng rỗng rang như mây trắng, nhắc lại hồi xưa, thời Sơn Núi còn lưu trú chùa Trúc Lâm ở Gò Vấp, Sài Gòn, tôi thường ghé chơi, có lần cùng thi sĩ đạp xe rong rêu lên Lái Thiêu, Bình Dương chơi suốt ngày đêm rồi mới về. Thời đó là năm 1973 tôi đang theo học Đại học Vạn Hạnh, mới tập tành làm thơ và học được ở thi nhân rất nhiều về kinh nghiệm sáng tác văn chương.
Phương Bối đồi thông lộng gió mây trời thiên thanh vĩnh thúy, thỉnh thoảng rộn gót chân du sĩ đi về, những chàng lãng tử tứ xứ mười phương ngưỡng mộ Sơn Núi, những bạn bè vong niên thâm thiết đều tìm viếng thăm một bận thân tình như họa sĩ Đinh Cường từ Mỹ về, nữ sĩ Thu Nguyệt, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từ Sài Gòn lên và mới đây thiền sư thi sĩ Tuệ Sỹ trên đường hành cước vân du cũng ghé lại thư thả chơi dăm ba ngày. Gần đây nhất vào tháng 7 năm 2013 tôi lại bầu rượu túi thơ lên Phương Bối, ngồi cùng Sơn Núi khề khà đủ thứ chuyện trong một quán cà phê ở phố núi Bảo Lộc một chiều mưa. Bữa đó tôi có làm bài thơ này tặng thi sĩ nhưng quên đưa, trước khi từ giã :
Gió bụi mù du sĩ ca
Qua bờ khốc liệt khiến nhà thơ câm
Tịnh khẩu rồi lặng âm thầm
Trầm đêm nguyệt động hỡi thâm xứ nào
Tưởng chừng như giấc chiêm bao
Bao nhiêu bọt nước vỡ trào bấy nhiêu
Vọng sầu thiên cổ tiêu điều
Ngút đồi hoang dại khói hiu hắt vờn
Hoa cô độc trổ cô đơn
Rợn màu máu lệ rợn hồn rưng rưng
Lời ru vẳng gió sương rừng
Mộng du trên đỉnh mùa xuân một mình
Tâm Nhiên
* Phạm Công Thiện. Chỉ còn tiếng thơ trên mặt đất. Trần Thi xuất bản, Cali 1998
** Rainer Maria Rilke. Thư gởi người thi sĩ trẻ tuổi. Hoàng Thu Uyên dịch. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1969
*** Nguyễn Đức Sơn. Đêm nguyệt động. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1967
**** Henry Miller. Thời của những kẻ giết người. Nguyễn Hữu Hiệu dịch. Hồng Hà xuất bản, Sài Gòn 1971
Thơ Nguyễn Đức Sơn ( chữ nghiêng) trích trong các tập :
Bọt nước. Mặt Đất xuất bản, Sài Gòn 1965
Hoa cô độc. Mặt Đất xuất bản, Sài Gòn 1965
Lời ru. Mặt Đất xuất bản, Sài Gòn 1966
Đêm nguyệt động. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1967
Vọng. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1971
Tịnh Khẩu. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1973
Những bài thơ rải rác viết sau năm 1975

Tôi vỗ tay mà ai thấy cho!
Ngưỡng mộ Nguyễn đức Sơn và bái phục Tâm Nhiên!
Tự nhiên đọc xong tôi cứ bãng lãng chênh chao muốn quay về..đâu đó!!!
Bài viết phản ảnh rất thật về con người và cuộc đời của Nguyễn Đức Sơn.Mình không biết nhiều về thơ văn của anh ấy, nhưng có một lúc hai anh em rất thân.Đúng là một con người sống cực kỳ lập dị và luôn làm khổ người thân.
Thưa anh,theo anh thì những nhà thơ nào của văn học VN được đánh giá là kiệt xuất,ngoài NDS ?
Mình thích những bài thơ cực ngắn mà chứa tính triết học sâu xa trong ấy của Đức Sơn,đọc thú vị vô cùng
Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn và anh Tâm Nhiên đều có những tố chất đặc biệt.
Thơ NDS thật là độc đáo
Viết thật hay,cám ơn anh Tâm Nhiên
thân chào anh Tâm Nhiên,
cái gì là kiệt xuất, kỳ tuyệt, xuất chúng…?! chơi thân với Sơn Núi thì phải “biết” Sơn Núi chứ anh Tâm Nhiên? không học đại học Vạn Hạnh & không thân với Sơn Núi mà tại hạ vẫn biết thế nào là vô tướng, vô danh, vô đủ thứ… nữa là!
lại Dos, Miller, Mozart, Chopin, Beethoven,… lại Nhất Hạnh, Huy Cận, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện… nữa là sao? không lẽ anh không biết rằng mấy cha nội này mà ngồi lại với nhau là… trời/ biển, nắng/ mưa, nước/ lửa… vì chẳng ông thần nào muốn giống ông thánh nào?
mến mộ Sơn Núi kiểu của anh là chọc quê, chọc giận,…, thậm chí “ghẹo đểu” Sơn Núi đấy!…
giá như anh cô bài viết công phu [&chí tình] của anh 3 chén còn 8 phân thành 1 cái chapeau đội trên những bài thơ tiêu biểu, đặc sắc nhất của Sơn Núi thì “thằng chả” sẽ thích chí hơn [nếu “thằng chả” còn vứt sạch sành sanh cái gọi là phàm phu tục tử]…
nửa đùa nửa thật với anh cho dzui ngày cuối tuần, anh sẽ ha ha ha… rồi xem như chưa đọc gì hết chứ?
và giá như anh mà gửi bài thơ cuối bài viết của anh post riêng một kỳ trên xunau.org hoặc đâu đó với lời đề tặng Sơn Núi thì sẽ rất tuyệt vời…
———
[riêng điều này tôi không thể không nhắc nhỏ với anh: lần sau du sơn Phương Bối am anh đừng nói với Sơn Núi bài viết của anh về Sao Trên Rừng nhé… nhiều “hành giả” đã trở thành “tẩu giả”, “phi giả”… rồi đấy! hí hí hí…
thân chúc anh Tâm Nhiên luôn… tâm nhiên nghen…
nguahoang
Chào hai ông bạn nhà thơ! Hà hà hà…
xin lỗi [nếu “thằng chả” còn CHƯA vứt sạch sành sanh cái gọi là phàm phu tục tử]…
chào anh Mang Viên Long…
ngựa hoang nói đúng! tôi không có duyên chơi với Sơn Núi, nhưng bạn bè thì có, nên nghe cũng nhiều!…”ngưỡng mộ” thơ Nguyễn Đức Sơn thì…có thể, chứ ca tụng cuộc sống của Sơn Núi thì cho tôi xin đi, xin miễn nói ra ở đây!… Còn “bầu rượu túi thơ, hành cước vân du” lên Phương Bối “thư thả chơi dăm ba ngày” nghe thì rất…thơ nhưng hình như có hơi quá không anh Tâm Nhiên?…Năm ngoái tôi và NQH có ghé Bảo Lộc “ăn khoai lang, uống rượu sim” với Nguyễn Đức Vân, nhìn Vân sống, nghe Vân hát, kể chuyện xưa, củ khoai lang nuốt còn…mắc nghẹn tới giờ anh Tâm Nhiên ơi!…
Mình rất thích nhà thơ NDS nhưng hình như những bài thơ độc đáo nhất của ông chưa được bày ra ?
Nên dùng từ nhà thơ kỳ lạ thì hay hơn
Chào Anh Nguyễn Đức Sơn&Tâm Nhiên!Nhà thơ NĐSơn Mỗi nhà thơ mỗi tính cách khác nhau Qua bài viết của TNhiên và đọc các trích đoạn thơ của NĐSơn.Ta có thể nhận định:”Đây là một nhà thơ có tâm hồn phóng khoáng liều lĩnh bát chấp tất cả những dư luận có thể nguy hại với thanh danh của mình.Nhất là khi thơ có ý đụng chạm tới tôn giáo.Bởi tôn giáo thì thuộc về số đông người theo.Còn Ông thì một mình!Khi thơ có ý xúc phạm đến bậc thần thánh thiêng liêng của họ tín ngưỡng-sẽ dễ bị phản ứng với cái đức tin tuyệt đối của họ.Và hệ lụy là họ sẽ dễ sớm tẩy chay thơ của Ông?Về bản thể của con người trần tục càng tệ hơn -nếu lời trong thơ cứ bộc lộ huỵch toẹt ra đó.Họ-Số đông đó sẽ rất dị ứng nhiều phản đối lại.Vì cơ thể người cũng lại là vật thiêng liêng bí mật ngang ngang với thần thánhLời trong thơ lại phơi bày lộ liểu ra bằng con chữ -Họ cho là quá trần tục.Trong khi thực tế”tục trần đâu sai”Nhưng con người vẫn luôn còn thích mặc áo che thân-giấu những cái và con-Thế nên thơ Ông trở thành dị biệt như chính bản thân Ông.Tình yêu cây cỏ thiên nhiên không đặc quyền của riêng ai.Nên thơ ca thi sĩ nào cũng thoải mái tự do mà khai thác Tôn giáo thì ca ngợi đề cao cái đẹp tránh né những điều không nên nói.Bàn năng con người thi nói thoáng qua không nên đào sâu sẽ tội lổi.Tình yêu gia đình yêu đương cá nhân tha hồ bày tỏ tâm tư tình cảm Lời sao cho êm ái du dương thấu vào lòng người -đặc tính của thơ.Ở NĐSơn đủ cung bậc hỉ nộ ái ố và giọng thơ lời ý tuôn ra đôi khi thẳng tuồn tuột ..Có thể vì điều ấy mà số đông không ca ngợi Ông nhiều bằng các nhà thơ khác?Có thể họ cho Ông là nhà thơ ngoại lệBởi đời ai cũng thích cái áo đẹp bên ngoài-cái hào nhoáng sang trọng.Còn cái tâm hồn ư?Hãy đợi sự xét duyệt -có được số đông đồng điệu cảm thông không?Mà NĐS nào có cần chi?Nhà thơ viết cho thỏa ý mặc tình thế sự lắm điều đúng sai!Nhưng rất may cho Ông là không đụng chạm chính trị.Chỉ mới chạm nhẹ tôn giáo vì cái quan điểm riêng -tư tưởng lạ lùng của mình cũng đã”đất bằng dậy sóng”chút chút rồi!?Tâm Nhiên cũng chịu chơi!?Dámđưa ra cái trần tục cơ thể người qua thơ NĐS Đồng nghĩa là”Con người có tốt đẹp có xấu.Thường ”xấu che tốt khoe””Mà ở thơ”Có một cái dơ -Có nghĩa là không sạch mà rất sạch Đó là ”cửa sinh tồn” Và ta cũng sẽ bật cười thú vị Bởi cuộc sống tồn sinh đấy!Cho tất cả chúng tala2 con người.Mà con người thì cứ luôn từ chối con thích làm Người ở trên trời hơn ở dười đất.Mà chân ta phải bám đất không rời cuộc sống.Bởi mắt ta hướng thượng tham vọng ngất trời!?Ôi! Tg Tâm Nhiên cũng đầy hóm hỉnh!NgĐSơn cũng ngang tàng bụi bặm như VTThành?Thật hết biết! Các nhà văn thơ với những con chữ nhảy múa làm cho tâm hồn xao động rối tung lên!Trời ! Tôi lại nhiều chuyện ! Quên mất câu ”Họa từ miệng” nửa rồi!-Mà đây ‘Họa tự chử…đây rồi!”