Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Chín 10th, 2011

Sài Gòn một ngày gần đây, nắng bỗng vàng hơn khi khắp đường phố xuất hiện những mẹt thị bày bán ngay bên vỉa hè; tập trung nhiều trên đường Điện Biên Phủ và thi thoảng đâu đó trên những con phố quen lại thấy người ta chở thị từng giỏ bằng xe honda đi bán dạo. Có mấy giọng đùa nghịch còn đuổi theo tíu tít: “Đừng chê em xấu em già/Em đi bán thị nhà nhà đều… hôn!”.

Mà nào rẻ đâu, có người bán 40K/ký nhưng cũng có vài mẹt thách giá tới 80K/ký. Dân Sài Gòn ngộ lắm, người háo hức thì mua cả ký về ăn, ăn rồi lập tức chê thị nhạt thị kém duyên, người điềm tĩnh hơn thì chỉ mua vài quả về để trong nhà hay để trên bàn làm việc.

“Thị rụng bị bà, bà hôn bà hít chứ bà không ăn”.

Cái quả của cô Tấm vốn là thế! Ngoài câu chuyện cổ tích quen thuộc kia, xung quanh thị còn có nhiều chuyện. Ở các vùng quê, những người nấu rượu gạo rất kị mùi thị, nếu để quả thị trong nhà thì cả mẻ rượu sẽ bị hỏng hết. Không ai có thể chỉ ra được bất cứ mối liên hệ nào liên quan giữa mùi thị và việc cất rượu; cũng như vài chuyện khác…

 

Hình ảnh Tấm bước ra – chui vào từ quả thị giúp đỡ bà lão nghèo khó luôn là chi tiết hấp dẫn nhiều người đến tận bây giờ.

Và, cái sự “chui vào” đó đã được giới nghệ sĩ … phát triển thành một hình ảnh mang tính kiêng kị: đi ký hợp đồng không được mang theo quả thị, đi diễn đi quay đi hát…tức là tất tần tật các thứ có dính dáng đến công việc.

Đạo diễn Xuân Phước bảo rằng, quả thị sẽ “hút” hết công sức và những gì mình đang làm vào trong đó và chỉ còn chừa lại những chuyện xui xẻo.

Đã cận rằm tháng 8 mà Sài Gòn lại mưa suốt. Giữa tuần, bắt đầu các sân khấu chộn rộn đi phát thiệp mời ăn… giỗ.

Giỗ tổ sân khấu, mà Sài Gòn bây giờ mọc ra nhiều sân khấu quá, rồi sân khấu làm ăn nên ra lại mở thêm chi nhánh: Nhà hát kịch TP.HCM, Idecaf, rồi 5B, Hoàng Thái Thanh, Phú Nhuận của Hồng Vân nè, Nụ cười mới đóng tên Hoài Linh, Nhà hát Trần Hữu Trang, rồi cả mấy đoàn hát bội nữa…

Giới sân khấu năm nay làm giỗ lớn, các sân khấu cũng tăng xuất, tăng điểm diễn đều đều. Tiệc tùng ì xèo suốt hai ngày 11, 12/08, người nào cũng phải chạy show …ăn. Nghe một danh hài buột miệng than: “Sao tui diễn không thấy mệt mà đi…ăn mệt quá trời!”, là vậy đó.

Coi bộ giới này đang được Tổ…đãi, mà muốn Tổ đãi hem có dễ đâu. Người nào cũng kiêng kỵ đủ thứ, rồi còn phải lo…o bế Tổ nữa.

 

Cúng heo

Sẽ thấy trên mâm cúng chung ở các sân khấu, nhiều nhất là heo quay. Con nào con nấy bóng nhẫy mỡ xếp hàng lớp lớp từ trong ra ngoài. Mang heo tới cúng tức là người đi trả lễ, đã từng khấn nguyện và được phù hộ gặt hái nhiều thành công trong suốt năm qua.

Người tài lộc ít thì cúng gà, cúng bánh bao, bánh chưng, bánh giò… tùy theo hầu, nhưng tuyệt đối không ai cúng vịt. Giới sân khấu xếp con vịt vào đội ngũ “cạp cạp” chỉ biết nói dối, bày chuyện đơm đặt và ưa đố kị đồng nghiệp.

Heo cúng phải kỹ lưỡng, không quấy quá được: bộ đồ lòng phải đầy đủ và xếp gọn gàng vào bên trong con heo để thể hiện… lòng thành của mình. Khi cúng xong, mang xuống chặt xẻ ra cũng phải đúng lễ nghĩa nha, người ta lật con heo quay lên và bắt đầu rạch bộ lòng ra trước, ý như kiểu con thật lòng phơi bày gan ruột vậy đóa.

Ngoài heo quay ra, thì trái cây rất nhiều nhưng có mấy thứ không được bỏ lên bàn thờ tổ nè: Quít được nhưng cam thì không – cam chịu, trái thơm nhiều mắc lại xù xì nhiều gai góc quá – khó, khổ: không luôn, Mãng cầu xiêm cũng thế, quả thị lại càng tối kị.

Nhưng ngược lại chuyện kiêng kị với quả thị trên kia, dân sân khấu không dám cúng quả thị vì sợ mùi thị thơm tho làm.. ông Tổ mất tập trung lờ lớ lơ luôn xấp nhỏ. Một thứ không thể thiếu trên bàn thờ tổ nữa là đường miếng, cúng đường thì Tổ mới đãi cho giọng hát… ngọt ngào…

Theo học giả Đinh Bằng Phi, có thể xem lễ giỗ tổ này xuất phát từ hát bội. Mà mấy trăm năm mở cõi vào Nam, khởi từ các chúa Nguyễn, ngành sân khấu với hát bội ban đầu và cải lương sau này, gần như là phương tiện giải trí độc tôn của cả vùng đất phía Nam, nên ngày lễ giỗ tổ và chuyện ông tổ sân khấu được người dân quan tâm khá nhiều.

Những từ ngữ như tổ trác, tổ đãi… của giới sân khấu đã trở thành từ cửa miệng để người dân chỉ sự may mắn hay xui rủi trong nghề nghiệp.

Tuy nhiên, cho đến nay chẳng ai biết ông tổ sân khấu là ai và lễ giỗ tổ xuất phát chính xác từ đâu. Chỉ biết rằng từ khi những nghệ sĩ lão thành NSND Thành Tôn, Năm Châu, Phùng Há… còn nhỏ xíu thì đã thấy có lễ giỗ tổ rồi. Các học giả như Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Đinh Bằng Phi… đã có nhiều nghiên cứu về ông tổ sân khấu và đưa ra nhiều yếu tố lịch sử, giai thoại, truyền thuyết… nhưng không chuyện nào giống chuyện nào.

Nhiều truyền thuyết cho rằng ông thợ may, thợ rèn, thợ mộc, bà bán quán, một đứa bé, cả thần bạch mi của giới bán phấn buôn hương… là tổ sân khấu. Song phổ biến nhất là câu chuyện: Tổ sân khấu là ba người gồm ông vua, ông ăn cướp và ông ăn mày. Truyền thuyết này ảnh hưởng mạnh đến mức cho tới tận nay, giới nghệ sĩ rất kiêng cho tiền người ăn xin.

Ông Tần Nguyên, ký giả kịch trường trước 1975, kể: Nghệ sĩ Thành Được lúc nào cũng bảnh bao, tay đeo nhẫn hột xoàn nhưng ông không bao giờ cho tiền người ăn xin, chỉ bảo họ muốn ăn uống gì thì kêu đi rồi ông trả tiền.

Theo nghệ sĩ Kim Cương, cha bà (chủ gánh hát bội Phước Cương) còn trai trẻ, đi hát bằng ghe, ở những vùng xa, ăn cướp đi thành bang bằng ghe lớn nhưng không bao giờ đánh cướp ghe hát. Ghe của cha bà mỗi khi gặp cướp chỉ cần đánh trống thùng thùng thật lớn, họ biết là ghe hát là yên chuyện.

Truyền kỳ về hai vị hoàng tử mê hát, bị vua cha đang truy tìm, trốn trong hậu trường gánh hát rồi chết cháy mà hiển linh thành tổ sân khấu cũng phổ biến nên bàn thờ tổ luôn được đặt trong hậu trường.

Hay truyền thuyết ông tổ sân khấu là một vị hoàng tử mê sân khấu, trốn vua cha vào trong bộng cây vông để theo gánh hát rồi chết trong bộng cây vông cũng được biết rộng rãi nên giới nghệ sĩ kỵ mang guốc vông và tượng tổ luôn làm bằng gỗ cây vông.

Về tượng tổ sân khấu, đây là hình một nam nhân đen thui, mặc áo đỏ, quấn khăn đỏ. Ông Tần Nguyên nói thêm, tượng thường do người trong các đoàn hát làm.

Nghệ sĩ Kim Cương nói bà chẳng biết ai làm: “Hồi tôi còn nhỏ đã thấy mỗi đoàn hát có vài tượng tổ gọi là cốt ông. Các đoàn chỉ thờ số tượng lẻ chứ không thờ chẵn.”

“Khi trưởng thành, làm chủ đoàn hát, tôi thấy hễ ai lập gánh thì đến Hội Ái hữu nghệ sĩ ở đường Cô Bắc, Sài Gòn (có từ năm 1948) thỉnh tượng tổ về thờ. Việc lập gánh, rã gánh trước 1975 rất dễ dàng, bầu nào bị rã gánh thì lại gửi cốt ông vào hội”.

Nhấp chuột để xem album ảnh ngày giỗ Tổ sân khấu

Giỗ tổ sân khấu, nói chuyện kiêng kỵ của nghệ sĩ

Nguồn yahoo blog cogaidolong

Read Full Post »

Quà Trung thu của ba

Truyện Ngắn

                        MANG VIÊN LONG

Mẹ tôi mất sớm, hai chị em tôi sống với ba. Sau khi sinh đứa em trai tôi được ba tuổi thì mẹ tôi mất. Bà ra đi nhẹ nhàng và nhanh chóng đến nỗi ai đến thăm cũng sửng sốt. Chị em tôi ngạc nhiên đến bàng hoàng khi lay gọi mẹ đến chục lần, nhưng đôi mắt bà vẫn khép kín, im lìm như đang ngủ say. Đời người rồi ai ai cũng sẽ có giấc ngủ cuối cùng, ngàn năm vĩnh viễn như thế sao?

Ba tôi im lặng, lầm lũi, cẩn trọng lo chu toàn mọi việc để tiễn mẹ tôi, giọng lạnh lùng, buồn buồn : “Ba không ngờ mẹ con đã từ giã cha con mình sớm như thế!”.

Những tháng năm sau này, ba tôi đã dành nhiều thời gian gần gũi chị em tôi nhiều hơn – nhất là cu An. Muốn được vậy, ông phải thu xếp việc trồng hoa ngay từ sáng sớm lúc hai chị em tôi còn mơ ngủ. Khi thức dậy, bao giờ tôi cũng nhìn thấy gương mặt ba tươi cười, vén mùng, đùa cợt: “Con gái gì ngủ dậy trễ thế? Lại có tật ngủ nướng rồi? – Còn thằng kia, bắt chướt chị mày ngủ nướng thêm nữa à ? Chị em dậy ăn sáng, ba chở đến  trường, trễ học rồi kìa…”.

Ba tôi có một chiếc xe gắn máy cũ kỹ – hiệu Gobel, làm thêm chiếc “rờ-moọc” để kéo theo phía sau. Hằng ngày ông chỉ chạy hai chuyến : buổi sáng chở bạn hàng lên thị trấn mua bán, buổi chiều chở về… Lúc mẹ tôi còn, thỉnh thoảng trong thôn có gia đình cần xe chở vật gì, ông đều sốt sắng nhận. Ông nói với tôi : “Con giúp mẹ trông em, ba chạy chuyến này kiếm thêm tiền cho mẹ con đi chợ…”. Từ ngày mẹ tôi mất, ông luôn từ chối các chuyến xe bất ngờ như vậy, để được gần chị em tôi. Lần đầu, khi nghe ba tôi khước từ chạy xe chở hàng cho khách, tôi ngạc nhiên hỏi : “Sao ba không nhận chạy thêm để kiếm tiền đi chợ?” – Ba tôi cười, giọng vui vẻ : “Bỏ mất dịp làm thêm kiếm tiền cũng tiếc, nhưng bỏ hai chị em con ở nhà một mình lại đáng tiếc hơn!”.

Ngày nào cũng thế, ba chở hai chị em tôi trên chiếc “rờ-moọc” hoen rỉ, cũ kỹ ấy đến trường. Tôi đã lên lớp Năm, còn em An thì vừa vào lớp Một. Hai chị em học cùng trường, nên ngoài việc học, tôi còn phải trông nom, hướng dẫn cho em. Cũng rất may, cu An thông minh, dạn dĩ, hoạt bát nên được cô giáo rất thương, còn đám bạn ngỗ nghịch không dám ăn hiếp ! Nghe tôi kể chuyện về em ở trường, lần nào ba tôi cũng nói : “Mẹ con phải sống chờ nó đến ba tuổi mới ra đi, còn Phật Trời thì trợ giúp cho nó được như vậy để đỡ buồn tủi!”.

Kỷ niệm của chị em tôi với ba mà tôi nhớ nhiều nhất có lẽ là những dịp vào ngày Tết Trung thu. Trước Trung thu gần một tuần, tôi trông thấy ba đã lo chẻ tre, vót nan, làm sẵn sườn hai chiếc lồng đèn : một chiếc kiểu ngôi sao, một chiếc hình trái ấu. Sau đó mấy ngày liền, hễ xong việc vườn tược, tưới hoa, cắt hoa giao cho bạn hàng là ba tôi cặm cụi cắt dán giấy màu… Mỗi ngày, ba đều thêm vào hai chiếc lồng đèn nhiều kiểu trang trí, nhiều chi tiết rất đẹp mắt.

Xế chiều ngày 14, ba chở chị em tôi – cũng trên chiếc “rờ-moọc” cũ kỹ ấy, về thăm bà ngoại. Như đã hẹn trước, chiều hôm ấy, chị em tôi được bà đãi cho một bữa ăn rất ngon, có cả chè xôi, trái cây rất hấp dẫn. Buổi tối, hai chị em tôi thắp sáng lồng đèn, hãnh diện theo bà lên chùa lễ Phật. Lũ trẻ trong xóm cũng kéo theo chị em tôi về chùa rất đông. Trăng trong, gió mát, cảnh vật trải dài trong mắt tôi một màu vàng êm đềm. Màu vàng êm đềm và tĩnh lặng ấy, sau này cứ ám ảnh, réo gọi tôi – kể cả trong những giấc mơ…

Chùa làng quê vào những ngày Rằm, nhất là rằm tháng Bảy và tháng Tám, mọi người lũ lượt  về chùa rất đông. Chánh điện chật hẹp, nhiều người phải trải chiếu lễ lạy từ ngoài sân. Dưới ánh trăng thu trong sáng, êm ái, tĩnh lặng ấy ; mọi người thành kính đọc kinh, niệm Phật – làm cho chúng tôi không dám hó hé, mở to đôi mắt ngạc nhiên mà nhìn… Cảnh tượng an bình, hạnh phúc ấy của những mùa trăng thu đã khắc sâu vào tâm khảm tôi, theo tôi lớn lên từng năm tháng…

Chị em tôi ở lại chơi với bà ngoại đêm hôm ấy – bà  cháu  trải  chiếu  ngoài hiên  trò chuyện  đến khuya Càng về khuya, trăng càng sáng tỏ. Tôi cứ ngỡ là được chơi giữa ban ngày dịu nắng. Cu An thắp hết mấy cây đèn sáp mang theo, nằm nghe bà ngoại kể chuyện “Phạm Công Cúc Hoa” chưa đến hồi kết thúc đã ngủ say.

Khi tôi đã được lên cấp ba, vào dịp Trung thu, ba tôi không còn làm lồng đèn cho tôi nữa. Cu An nhìn thấy chỉ có sườn một chiếc lồng đèn ngôi sao treo ở góc hiên, nó hỏi: “Sao ba không làm lồng đèn cho chị My?”.

Ba cười :

-My lớn rồi, không cầm đèn đi dạo như trước được, ba sẽ có món quà khác !

-Quà gì vậy ba ? – Cu An tò mò.

-Bí mật. Rồi hai chị em con sẽ biết.

Tôi không dám hỏi ba, nhưng trong lòng thì hồi hộp lắm. Mấy ngày ghé mắt theo dõi, tôi chẳng hề thấy ba tôi làm gì cả, ngoài việc trang trí chiếc lồng đèn cho cu An. Có lẽ ba chỉ làm lúc tôi đi ngủ chẳng ?

Chiều 14 năm ấy, lúc chị em tôi đã lên ngồi yên trên chiếc “rờ-moọc” sau xe, ba tôi mang ra một chiếc hộp hình chữ nhật, dán kín, sáu mặt hộp đều có trang trí giấy màu rất đẹp. Ba dặn : “Đây là quà của My, má con vừa gửi đến, nhưng phải đợi đến nhà bà ngoại mới được mở hộp ra nhé !”. Tôi sung sướng đón chiếc hộp, nhìn ba với đôi mắt thầm biết ơn…

Khỏi phải nói, tôi và cả cu An đã nóng lòng mong được đến nhà bà ngoại sớm như thế nào. Nhưng chiếc xe Gobel ngày càng cũ, càng chạy chậm hơn. Cứ lắc lư xình xịch không biết gì đến nỗi mong chờ của chúng tôi!  Chưa bao giờ tôi cảm thấy chiếc xe chạy chậm quá như thế. Cu An cũng có cùng tâm trạng náo nức như tôi, nó nói : “Chị My cho em coi quà của chị với nhé!”. Tôi gật đầu, cười sung sướng.

Việc gì đến sẽ phải đến, đã trông thấy rõ chiếc cổng vôi sơn vàng của nhà ngoại kia rồi. Chờ xe chạy qua ngõ, dừng lại, hai chị em tôi chạy ùa vào nhà bà, quên cả việc chào hỏi, cười vui với bà như các bận trước. Tôi ngồi bệt xuống thềm hiên, cẩn thận khui mở nắp hộp ra. Tôi lôi ra từng món một đặt ngay trên thềm: chiếc nơ kẹp tóc màu hồng, chiếc vòng giả ngọc màu xanh, cây bút máy hiệu Diamond, bốn bì bánh chocolate, một gọi kẹo…

Năm đầu tiên tôi phải xa gia đình để theo học Trường Đại học Y Dược- khoa Dược ở Sài Gòn ; Trung thu năm ấy ba tôi gửi cho tôi một phong thư lớn – trong ấy là một bài thơ , đề :”Tặng con gái thương yêu của ba”; viết trên khổ giấy lớn, được trang trí tỉ mỉ, công phu: “Quà Trung thu cho con”. Bài thơ thật chân tình, cảm động. Quà Trung thu cho tôi không là lồng đèn, bánh kẹo, mà ấy là trăng – một ánh trăng quê dịu hiền, một thứ “tình thắm thiết” – của trăng vàng và của cả quê hương !”.

Vừa tròn tuổi năm mươi nhưng ba tôi đã gầy yếu. Ông bị bệnh rối loạn trung khu tiền đình., và hởi valve tim. Vài năm sau này, ông thường xuyên bị choáng, buồn nôn và tức đau ở ngực trái – kéo dài khoảng năm mười phút. Người thân, bạn bè đến nhà thăm chơi, thường nhắc ông hãy “bước thêm bước nữa” để có người chăm sóc, đỡ đần công việc. Ông chỉ cười : “Đời người, đã lỡ bước một bước là đã khổ rồi. Sao lại bước thêm bước nữa làm gì trong cảnh khổ của mình ? Có lẽ cũng chỉ làm khổ thêm cho người khác mà thôi !”. Nghe lời tâm sự của ông, tôi cảm thấy lòng mình trào dâng niềm thương kính vô bờ. Tôi đã dần dần hiểu được ba đã dành tình thương yêu cho hai chị em tôi, mà phải chịu cô độc, vất vả. Ba tôi thường nói với bạn bè: “Cuộc đời tôi bây giờ chỉ còn lại hai đứa con…”.

Một buổi chiều cuối Xuân, sau khi đã chở đám bạn hàng từ thị trấn về, ông chạy xe vào ngõ, bỗng cảm thấy chuếch choáng. Đã quá quen với bệnh tình của mình, ông gắng gượng, lảo đảo bước vào nhà định tìm thuốc uống. Đến bậc hiên ông ngồi xuống, cơn buồn nôn kéo đến dữ dội. Kèm cơn đau thắt ngực – rất khó thở . Ông cố trấn tĩnh, chờ dịu cơn choáng và đau sẽ vào nhà lấy thuốc ; nhưng ông chợt ngã lăn trên thềm hiên, và sau đó không bao giờ bước vào nhà nữa…

Ba tôi đã chờ cho tôi vừa tốt nghiệp đại học, An cũng kịp thi đậu vào trường Đại học Sư phạm – mới giã từ chúng tôi. Giống như mẹ tôi khi xưa, đã chờ cho An được ba tuổi.

Mỗi mùa Thu đến, mỗi lần trăng thu tròn đầy vằng vặc ánh sáng, là mỗi lần chị em chúng tôi ngồi bên nhau mà khóc. Suốt 5 năm ở đại học, dường như tháng nào tôi cũng nhận được thư ba tôi hai lần. Tôi đã gom tất cả những lá thư ấy, bỏ vào ba chiếc hộp chứa quà trung thu thuở nào của ba – xem chúng như bảo vật, sẽ theo tôi trong suốt cuộc đời. Mấy bài thơ của ba tôi gửi cho, tôi cũng cẩn trọng lồng chúng vào khung kính, treo ngay góc bàn ngồi…

Một mùa Thu nữa lại đến. Trung thu gần kề. Tôi đã hẹn với An, đêm 14, hai chị em sẽ cùng nhau đi chùa lễ Phật – và nguyện cầu cho ba mẹ tôi luôn được an lành, trong sáng như ánh trăng thu…

MANG VIÊN LONG

Read Full Post »

Tắm Thổ với các cô gái mặc bikini như vậy không phải kiểu truyền thống đâu. Muốn biết tắm Thổ truyền thống như thế nào phải lên Istanbul.” Ilknuk, người dẫn đoàn du lịch giải thích lại một lần nữa.
Hóa ra, chúng tôi vẫn chưa biết thực sự thế nào là tắm Thổ. Càng tò mò, rà lại Lonely Planet, chúng tôi ghi ra tên Nhà tắm Thổ truyền thống nổi tiếng nhất Istanbul và quyết tâm đi tắm một lần nữa.

Cemberlitas Hamami
Vezirhan Cad. No: 8 – 34120
Quá tình cờ, Nhà tắm Thổ Cemberlitas ở ngay khu phố cổ trung tâm Istanbul, đường Divanyolu, đối diện Cây cột Vòng Constantine nổi tiếng. Vào năm 1584, kiến trúc sư hoàng gia Sinan đã xây nhà tắm này dưới sự ủy nhiệm của Nurbanu Sultan, vợ của Hoàng đế Selim II. Nhà tắm này đối diện với Nhà thờ Hồi giáo Mehmed Pasa và ngay sát Lăng Hoàng đế Mahmud II.
Xếp hàng chờ mua vé vào nhà tắm Thổ
“Nhà tắm lại ngay sát Nhà thờ?” Có cái gì bất thường ở đây khi người ta sắp đặt một công trình thánh thiêng bên cạnh một nhu cầu “trần tục” của con người là tắm rửa. Hay đó là sự lập dị chỉ có ở Cemberlitas? Bạn đã nhầm, các nhà tắm Thổ (Hamam) trong văn hóa Ottoman thường được coi như một thành tố kiến trúc phụ trợ nhưng quan trọng trong Nhà thờ Hồi giáo. Theo thời gian, chúng nhanh chóng trở thành những công trình độc lập và hơn thế nữa, thành những kiến trúc hoành tráng. Cemberlitas là một trong số đó.
Chúng tôi tách đoàn và nhảy vào nhà tắm Thổ Cemberlitas vào quãng cuối giờ chiều. Nhà tắm đông như hội, biển ngoài chỉ rõ: nhà tắm mở cửa từ 6h sáng cho tới nửa đêm. Hamam này như các loại hình Nhà tắm khác từ La Mã không chỉ dành cho đàn ông. Quần thể Cemberlitas bao gồm những khu riêng cho nam và nữ.
“Nam nữ không tắm lẫn lỗn nhưng người tắm cho chúng tôi là nam hay nữ?” Anh bạn tôi hỏi đùa cô bán vé.
“Nam tắm cho nam và nữ tắm cho nữ.”
Hết chuyện, lần này không còn cô Nga nào tắm cho chúng tôi nữa. Dẫu sao thì chúng tôi cũng trả 59 Lira Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 40 đôla Mỹ để bước vào trong cánh cửa của nhà tắm Thổ. Một không gian hai tầng bằng gỗ được xây như kiểu Tứ Hợp Viện Trung Quốc, 4 mặt đều là ban công và các phòng thay đồ, ở giữa là sảnh lớn lớn nhộn nhịp người qua kẻ lại…
Một người đàn ông chờ chúng tôi ở ngay sảnh để phát khăn tắm và một hộp nhỏ chứa găng tay. Anh này dẫn chúng tôi lên một phòng ở tầng 2 để thay đồ.
Bảng giá của nhà tắm Thổ Cemberlitas xây từ năm 1584.
“Khi bước chân vào khu nhà tắm này, bạn được chào đón bằng một không gian hoài cổ, nơi thời gian như trôi ngược về quá khứ….” Tôi đọc nhanh mấy dòng chữ trên tờ rơi giới thiệu về Nhà tắm. Cuối cùng, cái cảm giác trôi về quá khứ Ottoman ấy cũng đến khi chúng tôi được dẫn vào phòng tắm nóng.
Tương tự như nhà tắm kiểu La Mã, một Hamam truyền thống có 3 phòng chính liên thông nhau, caldarium (phòng nóng), tepidarium (phòng ấm) và frigidarium (phòng lạnh).
Phòng nóng là trung tâm của Nhà tắm Thổ và chỉ khi bước vào đây với một chiếc khăn duy nhất quấn trên người, chúng tôi mới được trải nghiệm thật sự thế nào là tắm Thổ. Tắm Thổ Nhĩ Kỳ hay còn gọi là Hamam là một biến thể của tắm hơi, xông hơi và tắm kiểu Nga, nhưng chú trọng nhiều hơn tới sử dụng nước để phân biệt với tắm hơi truyền thống.
Kiến trúc của Phòng nóng mang đặc trưng Hồi giáo Ottoman và được giữ nguyên như 5 thế kỷ trước. Một căn phòng rộng, hình tròn với mái vòm như mọi nhà thờ Hồi giáo ở Istanbul. Điểm khác biệt chỉ là, người ta đục hàng trăm lỗ nhỏ trên mái để tạo ra hàng trăm tia sáng tự nhiên chiếu xuống phòng tắm. Giữa ánh sáng mờ ảo như thế, hàng chục người đàn ông nằm la liệt trên một tảng đá cẩm thạch lớn được đặt giữa phòng. Một số ngồi cạnh các bệ nước nhỏ gắn chặt vào hốc tường xung quanh căn phòng.
Một ông già Thổ người gày đét như La Hán chỉ cho chúng tôi một chỗ trên phiến đá tròn cẩm thạch khổng lồ ấy. Chúng tôi nằm xuống phiến đá, gối đầu lên một chiếc bát sắt và cảm nhận sức nóng rát khắp toàn thân. Phiến đá nóng này nhằm mục đích giúp cơ thể bạn được thư giãn, mở hết các lỗ chân lông và toát mồ hôi một cách tự nhiên. Chúng tôi thả lỏng cơ thể để cảm nhận hết sức nóng, nhìn lên những tia sáng đục chiếu qua đỉnh mái vòm. Hàng trăm năm trước, những hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ cũng từng được tắm như thế và bây giờ với 40 đôla Mỹ, chúng tôi đã có được cảm giác như họ.
20 phút thư giãn trôi qua và ông già người Thổ đến dựng chúng tôi dạy để bắt đầu màn tắm. Kỳ cọ bằng găng tay nhám, massage toàn thân, giội nước nóng ùm ụp và thổi xà phòng khắp người, lần này cũng khác bao nhiêu so với kiểu tắm cùng các cô gái Nga. Chỉ có điều, khác với bàn tay mềm mại lần trước, bàn tay của các ông già Thổ như gọng kìm miết khắp cơ thể chúng tôi.
Quang cảnh phòng chờ vào nhà tắm Thổ Cemberlitas
Đau quá, tôi kêu oai oái và mấy lần yêu cầu nhẹ tay. Có lúc, tôi tưởng bị chuột rút khi bàn tay cứng như sắt của ông già ấn vào hai bắp chân. Những người xung quanh lại có vẻ rất khoan khoái với màn tẩm quất như “tra tấn” này. Tắm Thổ truyền thông là như thế, một sự kết hợp kỳ lạ giữa xông xơi, tẩm quất và tắm thông thường, ngay giữa những di sản của đế chế một thời oanh liệt.
Không thấu hiểu hết những di sản lịch sử ấy thì việc tắm Thổ mất đi nhiều ý nghĩa. Từng dụng cụ tắm đang được sử dụng đều mang dấu ấn của lịch sử từ thời La Mã, loại khăn chúng tôi cuốn quanh cơ thể là peştemal làm bằng lụa hoặc cotton, nalın một loại guốc gỗ để tránh bị trơn trượt trong phòng tắm, keselà chiếc găng tay nhám để kỳ cọ cơ thể.
Trong giai đoạn thịnh trị của đế chế Ottoman ở Thổ Nhĩ Kỳ, thông thường, nhân viên tắm Thổ thường là những thanh niên trẻ có đủ sức khoẻ giúp khách hàng massage và kỳ cọ cơ thể. Những thanh niên này thường không phải người Hồi giáo, có thể là Do Thái, Hy Lạp, La Mã hay Armenia. Sau khi đế chế Ottoman sụp đổ vào đầu thế kỷ 20, những người đứng tuổi như ông già La Hán tắm cho chúng tôi mới thay thế thanh niên trong vai trò ấy.
Màn xông hơi, kỳ cọ, massage toàn thân ở phòng nóng dừng lại, chúng tôi được đưa ra phòng ấm để tắm tráng với xà phòng và nước. Tráng gội xong những tưởng đã đến lúc kết thúc, người hướng dẫn lại đẩy chúng tôi vào phòng nóng để nằm lên phiến đá một lần nữa. Lần toát mồ hôi thứ hai giải phóng nốt toàn bộ những mệt mỏi cuối cùng ra khỏi cơ thể.
Tắm tráng một lần nữa, chúng tôi được đưa trở ra phòng lạnh để thư giãn. Sảnh gỗ bốn mặt nơi chúng tôi bước vào đầu tiên chính là phòng lạnh theo quan niệm truyền thống Thổ Nhĩ Kỳ. Một cốc cam tươi lạnh hoàn toàn nguyên chất cho chúng tôi cảm giác sảng khoái trọn vẹn. Xung quanh, những khách tắm vẫn tấp nập đi lại như trảy hội.
Chúng tôi bước ra khỏi nhà tắm Thổ truyền thống với một tinh thần thoải mái và tươi trẻ hơn nhiều so với trước khi bước vào. Tắm Thổ có giá trị nhiều hơn việc làm sạch cơ thể, đó còn là biện pháp thư giãn và tập thể dục. Chưa hết, trong lịch sử huy hoàng của đế chế Thổ Nhĩ Kỳ, nhà tắm Thổ không chỉ là nơi tắm rửa mà còn được coi như một trung tâm xã hội. Đó là nơi gặp gỡ bạn bè, vui chơi giải trí (nhảy múa, ăn uống, đặc biệt trong khu phụ nữ), lễ hội (như trước đám cưới, lễ tết, thôi nôi). Vì thế, mô hình này nở rộ khắp Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn đế chế Ottoman thịnh trị.
Nơi nào trên thế giới con người chẳng tắm rửa, chỉ có ở Thổ Nhĩ Kỳ, những giá trị nội tại và giá trị gia tăng của hoạt động này mới được nâng lên thành một thứ văn hóa, một di sản văn hóa đích thực. Di sản ấy đã mang lại doanh thu rất lớn cho du lịch Thổ Nhĩ Kỳ mỗi năm.
Khách du lịch may mắn khi được tắm theo nghĩa đen giữa những di sản của đế chế Thổ Nhĩ Kỳ. Người Thổ Nhĩ Kỳ còn may mắn hơn, họ được hưởng lợi nhờ “tắm” giữa những di sản văn hóa giàu có cha ông để lại, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Read Full Post »

Nói với anh

 Yến Du

Tặng một người .

Có khi nào em quên được anh đâu
Một tiếng gió một tiếng mưa
cũng đủ để em  mộng mơ làm vần thơ viết về ai đó
Chút nắng vàng hanh lấp loáng ngỡ như bóng  người về ngoài ngõ
Nhặt lá bao mùa em mới lấp được khoảng trống chơ vơ

.

Cứ ngỡ quên được anh bên tách cà phê dặn lòng đừng nhớ
Anh lại chập chờn theo giọt đắng chầm chậm rơi
Bóng hình anh  thấp thoáng bên đời
Cho cô đơn chạm vào nỗi nhớ trong em nghiêng ngã

.

Em cố tìm quên trong phố đông ồn ào người lạ
Lại nhận ra mình đang mong ngóng tiếng chân quen
Cơn gió đi ngang thổi bùng khát khao cùng anh quay về nơi hò hẹn
Kỷ niệm vui buồn cựa mình làm xao xác trái tim đau

.

Có phải tình yêu là vật sáng muôn màu
Như cầu vồng sau mưa đẹp tuyệt vời nhưng mong manh quá
Anh ẩn hiện chân trời anh tan nhanh vội vã
Những hư ảo muôn đời  xa hẳn một tầm tay…….

09/09/2011

Read Full Post »