Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Quy Nhơn’

                 Bùi Đăng Khoa

Theo các nhà nghiên cứu về trí nhớ J. Randal, S. Ferris, D. Krech thì vào khoảng tuổi từ 50 đến 60, con người thường dễ quên và khó có trí nhớ tốt lành. Y học gọi đó là sự suy thoái về trí nhớ liên hệ tới tuổi. Thế mà tôi, bất chấp sự suy thoái này, lại thích viết, nhắc lại những chuyện Quinhơn xưa cũ, chứ để một mai này,lỡ sao quả tạ chiếu trúng đầu, xuôi tay, thẳng gìo, biết có còn nhớ nổi nữa hay không. Kỷ niệm thì đã xa xưa lắm rồi, nó phai mờ dần với thời gian, nó nằm chồng chéo lên nhau, phải thả hồn về những ngày tháng cũ mới từ từ lần ra. Khi nhắc đến tên một địa danh như Gành ráng,Suối tiên, Đầm thị nại, Cầu Đá….chợt thấy những ngày xa xôi cũ như hiện về. Cũng như nghe đến tên cá liệt, cá ngạnh, cá rựa, cá khoai, bún sứa..lại liên tưởng đến những bữa cơm thân mật, những bữa cơm thiếu thốn, những bữa ăn tưng bừng với bạn bè, với những người thân. Miếng ngon Quinhơn không có gì đặc biệt lắm, thì cũng có những hàng qùa cũng chè, cũng bún, cũng phở, cũng cơm, cũng canh, cũng mắm…như tất cả mọi nơi. Miếng ngon, cái ngon làm cho người ta thương mến nước non hơn, thương mến từ cái cây, ngọn cỏ , thương mến từ con cá thương đi, thương từng hủ mắm thương lại, cái ngon làm cho người ta tự bắt buộc phải qúy từ cộng rau thơm, mấy lá tàng ô, cải cúc, bụi ớt …cái ngon làm cho người ta cảm thấy say sưa cuộc sống còn, mỗi thứ nhắc lại cho ta một kỷ niệm, một thời kỳ đã qua đi không trở lại.
Tất cả những miếng ngon đó tạo ra một không khí phong nhã làm cho ta mường tượng đến những buổi họp văn nghệ, anh em cùng nhau thông cảm những bức tranh đẹp, những tình khúc, tình ca, những áng thơ bất hủ…còn hơn thế nữa, những tác phẩm văn nghệ chỉ làm ta thỏa mãn về tinh thần, chớ miếng ngon thì có thể làm cho ta thỏa mãn cả ngũ quan và cho ta thấy có lúc muốn chắt chiu sự sống và cảm thấy là sống, chỉ sống thôi, dù có khổ đi nữa cũng là qúi lắm rồi.
Viết bài này, tôi muốn nhắc lại những món ăn qùa, những món ăn thuờng nhật hay có trong những bữa cơm gia đình, để nhớ lại một thời Quinhơn xưa cũ…Tôi xin sửa một câu quen thuôc sau đây để mở đầu:

Khi ta ở, đất vẫn là đất, khi ta đi, đất bỗng có linh hồn
Sửa là: Khi ta ở Mắm vẫn là mắm, khi ta đi mắm bỗng cò linh hồn.

Quinhơn, những ngày sau tiếp thu, còn nghèo lắm, nghèo xơ xác…Những bữa cơm nhà tôi thường có: hai trứng vịt “luộc lộn đào”, bỏ vào tô nước mắm, vằm ra chấm rau sống. Một thau rau sống, đầy những cánh xà lách non, những lá cải cay tươi, nhừng tàng ô, cúc…thu hoạch trong vườn tự lực. Những lát cà bôm hườm hườm mà mỗi ngày tôi phài gánh nước tưới đã đời mới có. Đói ăn rau, đau uống thuốc, cứ việc rau sống mà chấm nước mắm hột vịt cho no bụng. Đơn giản, qúa đơn giản, nhưng  có muốn gì thêm, cũng chẳng được. Chung quanh tôi, còn có những thằng bạn còn khốn khổ còn nghèo hơn nữa, mỗi sáng phải vác bao bánh mì đi bán:
– Ai ăn bánh mì không? Bánh mì nóng dòn đây! Bánh mì đây!
Tụi nó cố gắng bán cho xong trước 8 gìờ, để còn kịp vào lớp học. Nhà tôi vẫn còn khá giả chán! Buổi sáng, ăn bánh mì nóng, chấm đường, sao mà ngon quá đổi. Xứ tôi không có bơ, không có sữa tươi, chỉ có sũa đặc Ông thọ, sữa hòn núi, sữa con chim. Ở Đức, tôi thấy có bán sữa con gái nữa (Maedchenmilch), thì cũng ngọt, cũng đặc như nhau, nhưng sao tôi chỉ thích cái sữa con chim của hãng Nestlé mà thôi. Lấy sữa chế trên ổ bánh mì nóng, ăn thấy ngon hơn ăn với đường một cấp. Bơ, thì đốt đuốc tìm hết sáu khu phố chẳng ra được một muỗng. Một ngày nào đó, bà cụ tôi không biết mang ở đâu về được một lon bơ mặn, khoảng 1 kg, màu cứt ngựa, chắc của quân đội Pháp (người Mỹ chưa đến) thế là chỉ trong vòng chưa đày 1 tuần, lon bơ cạn queo. Cơm nóng mà vích 1, 2 muỗng bơ vào thì ăn quên cả đời lầm than. Sáng bơ, trưa bơ, chiêu bơ, nửa khuya…cũng bơ ăn với cơm nguội, sao mà nó ngon lạ lùng. Với một sự chiếu cố mãnh liệt như thế, lon bơ nào chịu cho nổi, nó cạn khô. Tuổi đang lớn, cần nhiều chất béo, chất đường. Dân cả nước cũng mê chất béo, mê đường, ăn thịt thì qúa đắt, mua không nổi. Vớ được lon bơ, một hạnh phúc lớn, nhớ cả đời! Chất đường thì dễ kiếm hơn, kẹo động phụng, chè đậu xanh, đậu đỏ, đậu váng, đậu ngự…đường phổi, đường tán nằm ngổn ngang ngoài mấy gánh, trong tiệm chè, chỉ cần rủng rỉnh vài đồng trong túi thì được thoả mãn ngay. Khổ một nổi, trong túi không một xu dính túi, đành sắm cái khèo lèo, khèo keo, khèo me, hái trứng cá…thoà mản tạm nhu cầu. Không gì hạnh phúc hơn,  sau giấc ngủ trưa lần mò tìm đến bóng mát dưới một gốc cây, ông bán bông cỏ đứng chờ. Các bạn còn nhớ bông cỏ chứ? Món giải khát rẻ tiền này, không dính dáng gì đến bông, đến cò hết. Nó chỉ là một ly đá bào, thêm chút xi-rô hoặc xanh (bạc hà), hoăc đỏ  (của phẩm)  trở thành một ly bông cỏ . Uống một cái mát cả miệng, tê cả răng. Nếu bạn chê, bông cỏ thường quá, thì mời bạn dùng một ly hột é vậy. Chẳng đắt hơn. Nước hột é, bỏ vào hai, ba muỗng đường, một vài miếng đá cục, uống mát cả tỳ tạng, tâm can. A, còn anh bán cà rem cây nữa. Cà rem này được hãng nước đá Phàt Hưng hay Hưng phát (?) gì đó ở đường Phan bội Châu (cách tiệm kem Phi Điệp vài chục thước) sản xuất. Cà rem cây có nhiều loại khác nhau. Cây thì màu xanh xanh của màu bạc hà, cây thì màu vàng thoang thoảng hương vị của xoài, cây màu trắng mang hương vị của sũa đặc có đường…được xắp xếp trong một bình tích thủy miệng rộng, cao khoảng nửa thước, có dây quàng để đeo trên vai đi bán. Trời nắng, mút cây cà rem, thấy trời Quinhơn em đi mà chợt mát…Đến hôm nay tôi vẫn chưa hiểu rõ tại sao khán giả la ó um sùm ám chỉ ông trọng tài thiên vị :
–  Ê! trọng tài mút cà rem !
Trước nhà, dưới gốc cây rục rạc không quên gánh đậu hủ của bà Hai, khi bà khéo léo dùng một cái muỗng dẹp, hớt từng mãng đậu hủ, nỏn nà, mịn màng, thơm ngát bỏ vào chén, rồi chế lên trên muỗng nước đường đã thắng với gừng, chầm chậm mà húp để thấy chất đậu lưng lửng trôi xuống dạ dày. Còn gánh chè của bà Lỳ nữa, đôi khi sau giấc ngủ trưa, tôi thường ra ngồi sì sụp một chén chè đậu ván nước, hay một chè đậu ván đặc. Chất ngọt thấm vào tế bào, đưa đần đến não, người cảm thấy tỉnh táo, cơn buồn ngủ tan biến ngay theo từng muỗng chè.  Muốn ăn loại nào cũng có. Thỉnh thoảng, bà ta đổi món, thay vì đậu ván, thì mời khách dủng thử một ly chè đậu đen hay đậu đỏ, đậu trắng hoặc thích xơi thử đậu xanh, đậu ngự chăng? Chè đậu phải nấu nguyên cả vỏ, mới có công hiệu giảm nhiệt (?) Chè đậu xanh nấu ăn cả vỏ  cho nó “nhuận trường”. Mỗi món chè đậu mang mỗi mùi vị khác nhau. Chả lẻ Quinhơn chỉ có ngần ấy chè? Không đâu! Nhiều lắm, nhiều lắm! Chè là món dễ nấu, nếu thèm chè nào, là có chè ngay. Nào là chè bắp, chè đậu xanh đánh, chè bí, chè khoai môn…Bạn đã từng nếm qua thử chè hoa cau? Dễ nấu lắm. Nước đường được thắng cho sôi lăn tăn, khuấy đều vào đó bột năng hoặc bột sắn cho sánh lại, rồi đậu xanh hấp còn nguyên hột thả vào thành những cánh hoa vàng nhỏ lẫn vào giữa màu trắng trong của chè, múc ra chén, để tủ lạnh. Thượng đế ơi, Tiên nữ lạc xuống trần gian, “làm” một chén, quên cả lối về…Còn chè trôi nước nữa. Gạo ngâm qua đêm, xay nhuyễn, nặn tròn, vỏ bánh được trộn lẫn giữa bột năng và bột nếp, để bánh đừng dính qúa, hoặc đừng nhũn qúa. Từng viên bột trắng bọc bên ngoài viên đậu xanh xay nhuyễn, trộn đường, mè…vo tròn, thả từ từ vào nồi nước sôi để cùng nhau chịu cảnh “ba chìm bảy nổi”…Khi bánh chín, được vớt ra thả vào nồi nước lạnh, để thấy màu trắng đục chuyển thành trong trong, lờ mờ ẩn hiện màu vàng vàng của viên đậu xanh bên trong. Bánh được vớt ra, để rồi chan lên từng muỗng đường thắng bằng bột năng sền sệt thơm mùi hoa bưởi và gừng non…Môt chút mè rang rắc lên trên, thêm vào chung quanh những vìên bánh trôi chay không nhân. Ngon lắm bạn ạ! Tôi vẫn còn nhớ có ông người Tàu, đêm đêm, đẩy chiếc xe, gõ hai thanh tre vào nhau đi chào hàng:
– Lục tào xá, chí mà phù đây!
Không tiền, nhìn ông đẩy xe đi ngang, bập bùng ánh đèn khí đá (cạt-buya), rồi khuất dần cuối đường, để lại mùi thơm của Lục tào xá, Chí mà phù thoang thoảng trong không gian… (Lục tào xá là món chè đậu xanh xay nhuyễn, bỏ thêm vỏ quít cho thơm. Chí mà phù là chè mè đen cũng xay nhuyễn).
Ơ hay, tôi có mở tiệm bán chè lúc nào đâu mà bày vẽ việc nấu chè. Đề cập đến chè hơi nhìều. Gìa thì hảo ngọt, nhưng không dám ăn chè thường, sợ lượng cholesterol tăng, sợ sổ eo, to bụng…đành ăn “chè viết” vậy.
Ông bán kẹo kéo, ô hô, ai lại chẳng biết, ông ta nổi tiếng gần bằng ông tám khùng của thành phố. Cây kẹo kéo trắng nõn, dòn rụm, bên trong là đậu phụng rang, giã nhỏ, tôi thích lắm. Để quyến rũ khách hàng mà phần đông là trẻ con. Ông ta bày ra trò quay số, hoặc cắt chỉ. Một sợi chỉ hay dây gai, được buộc vòng qua cây đinh. Ai cắt được (bằng dao) sợi chỉ đồng đều nhau, sẽ được thưởng cây kẹo kéo dài hơn gấp rưỡi độ dài bình thường. Nếu không, thì sẽ nhận cây ngắn hơn. Dù cắt bằng cách nào đi nữa, thì dây cứ vẫn bị so le. Lần nào cũng tiu ngỉu nhận cây kẹo kéo ngắn ngủn!  Đến hôm nay, tôi vẫn chưa cắt được hai sợi dài ngang nhau.
Vào mùa ghẹ, cả Quinhơn tha hồ ăn ghẹ, khoảng 2, 3 giờ chiều là có bà bán ghẹ đã luộc sẵn, đội thúng đi rong chào bán. Ăn ghẹ, nhiều lúc gặp xui trúng ngày trăng lên, thì ghẹ bị ốp! Người ta nói rằng: lúc có trăng, ghẹ mê trăng, lo đùa giỡn với trăng, không chịu ăn, nên ốm cả người mà lúc ốm người thì chỉ còn da bọc xương, không phải, chỉ còn mai bọc thịt nên bị ốp. Chỉ những ngày không trăng mới có ghẹ chắc, vì thế không nên mua ghẹ vào những ngày trăng rằm. “Ghẹ chắc” thì thịt ngọt vô cùng, cái mgọt lẳng lơ khác với cái ngọt của cua, không nên ăn nhiều, có thể bị Tào tháo đuổi. Ghẹ luộc sẵn, đôi lúc bán không được, bị hấp đi, hấp lại nhiều lần, ăn vào thì…xách quần mà chạy. Tôi đã từng bị Tào thào đuổi đến biên giới của ngất ngư rồi. Không phải vì ghẹ đâu nhé, mà vì hột vịt lộn! Những đêm học thi cùng mấy thằng bạn, đến khuya cảm thấy đói bụng, ai đã từng học khuya cũng đều có cái triệu chứng “cảm thấy” này. Tiếng rao:
– Ai ăn hột vịt….lôn…lộn….không?
sao mà đến đúng lúc quá. Thằng Minh nẩy ý kiến:
– Ai ăn được nhiều hột vịt lộn nhất thì khỏi phải trả tiền, tên nào ăn ít nhất phải trả.
Lời đề nghị nghe chí lý, vả lại mình thuộc loại “hạm trưởng” hàng không mẫu hạm, chả sợ gì. Kêu vào !….
Đêm đó, dân bán hột vịt lộn Quinhơn trúng mánh to. Ít nhất cũng 6,7 bà bán hột vịt lộn tề tựu đông đủ trước sân. Thằng Minh bị xếp hạng… bét, chỉ có thể chịu đựng nổi 15, 16 hột. Xí, thế mà đòi cá độ. Tôi hiên ngang với tỉ số 20 hột. Thoát nạn trả tiền. Nhưng…khoảng 1, 2 tiếng sau thì bị Tào tháo đích thân truy đuổi. Thôi thì khỏi phải kể. Trên nôn, dưới mữa…Tào tháo tấn công cả đêm cho đến cả mấy ngày sau, mệt lã người. Bây giờ nghe đến hột vịt lộn vẫn còn sởn tóc gáy! Đêm đêm trên đường phố Quinhơn thường xuất hiện một chiếc xe bán mực khô của một ông người Hoa. Không gì thú vị hơn, nhai một con mực khô cuả ông đã được đẩy qua cái máy cán tay, đẩy qua nhiều lần, con mực tự nhiên nó mỏng, nó dài người ra, nó hấp dẫn hơn mấy cô “ốm như con khô mực” nhiều. Bỏ chút tương ớt lên trên…Cái vị ngọt của mực khô, trộn lẫn cái cay cay của tương ớt. Ngon lắm! Ngon…qúa xá đi.
Mấy tiểu thư hay ăn quà, chắc còn nhớ ông bán thịt bò khô và anh bán cốc? Mấy ông này hay quanh quẩn trước các cửa trường, nhất là ở những trường có nhiều con gái thèm chua, hảo ngọt. Chẳng hạn như Trường Nữ trung học, Trinh Vương, Bồ đề. Chứ thơ thẩn trước cổng trường Cường để chỉ có nước..phá sản! Một nhúm đu đủ bào, rưới lên chút nước dầm chua chua, ngọt ngọt, miếng thịt bò khô mỏng, màu tim tím đỏ, được cắt thành từng miếng, tiếng kéo lắt xắt, đã tạo một sự thôi thúc trrước khi đưa dĩa bò khô lên miệng, rau thơm tương ớt, nhất là tương ớt  không đươc thiếu đâu đấy nhé.
Tha hồ mấy cô vét dĩa đu đủ bào không muốn bỏ phí một sợi, cầm lòng chẳng được, phải gọi thêm vài dĩa nữa mới đã thèm…Một kỷ niệm nhớ mãi không quên về anh bán cốc. Vào những dịp “nhộn nhịp” như có đá banh hoặc biểu tình, hội họp ở sân vận động đều thấy bóng dáng chàng xuất hiện. Thật ra anh ta không chỉ những bán cốc thôi đâu. Trong cái lồng kính gắn trên cái bọt-ba-ga, trong một cái thẩu chứa nước cam thảo vàng vàng, anh còn có thêm vài thứ hấp dẫn khác nữa, tùy theo mùa như thơm, ổi, chùm ruột…Một cái lon sữa bò đầy muối, ớt phải luôn có sẵn, không được thiếu, thiếu thứ này, chẳng khác gì  “dùi đục chấm nước mắm”, chẳng ra cái tích sự gì. Một cái khăn đen thủi, đen thui,máng lên cái ghi-đông xe đạp (chắc cả năm không giặt) để chùi tay. Đang đi đường, chợt buồn miệng, thèm chua, muốn nhai một cái gì dòn dòn. A, phải rồi !Cốc!. Thấy anh bán cốc, đang đứng gọt gọt dưới gốc cây, thế là tôi rà rà, xề tới:
– Cho em cái cốc!
Sau khi gọt xong mấy múi thơm, bỏ vào cái thẩu nước cam thảo, anh ta móc móc, lựa lựa ra một cái cốc (khá mập mạp) rồi bắt đầu gọt vỏ…Khách chờ, đứng nhìn. Đang gọt, chợt anh dừng tay lại, bước xéo sau gốc cây, đứng …”tè” một lát. Khách ngó theo…Làm xong công việc phài làm, anh ta trở lại chiếc xe đạp, lấy cái khăn, chùi tay qua loa rồi thản nhiên “cầm” cái cốc đang gọt dở và tiếp tục…gọt, chẻ, tách ra như hình cái bông, nhúng vào nước cam thảo, xoa muối ớt:
– Nè, 5 đồng!
Khách cảm thấy hơi ghê ghê, nhưng chẳng nghĩ tiếp. Giờ đây, nghĩ lại…rùng mình!
Ở Quinhơn, muốn ăn phở, hơi khó tìm ra một tiêm phở chính gốc. Thức ăn theo người, phở là món phổ thông của người Bắc. Món phở nam tiến đến Saigon, nhưng đến Quinhơn thì hình như bị kẹt lại, vì Quinhơn có ít người Bắc sinh sống. Người Bắc có món phở, người Trung, đặc biệt là Huế có Bún bò gìo heo, người Bình định thích nhai bánh tráng, người Nam ưa hủ tiếu, người Tàu số dzách là mấy món mì. (chẳng hạn như Mì Trường đề, đường Phan đình Phùng, gọi một tô mì sợi, hay mì thánh mì, nhìn mấy cái chà cha quảy, nằm một cách thật vô tình trên bàn, không bao giờ nỡ bỏ qua). Muốn ăn bánh tráng, khỏi phải đi đâu, chỉ cần nhúng, hay nướng rồi nhúng là xong. Vài tiệm hay quán phở ở Quinhơn tôi chỉ còn nhớ vài quán như ở đường Phan bội châu, một quán đối diện với ty Công chánh, một quán ở đường Hoàng Diệu gần nhà thương cũ. Vào khoảng năm 67-68 tuốt trong khu 6 có xuất hiện một quán phở khá nổi tiếng. Khách làng ăn đặt tên là “Phở công binh”, vì quanh đó là căn cứ  của công binh, do vợ của một ông lính công binh mở tiệm, bán kiếm thêm vào đồng lương chết đói của lính. Quán chỉ là cái nhà tôn nghèo nàn, có khoảng 15, 20 chỗ ngồi, không bảng hiệu, nhưng rất tấp nập, náo nhiệt vào mỗi chiều, tối. Xe Jeep nhà binh, xe Land rover (loại xe diệt trừ sốt rét) của mấy ông trưởng ty các ngành trong tỉnh, mấy ông sĩ quan trong quân đội, Honda của thường dân và học sinh đậu chật đường. Ắt hẳn quán này phải có một nghệ thuật gia truyền đem từ Bắc nên mới đông đảo thực khách như thế. Tô phở to lắm, ăn xong một bát là thấy đời đẹp như…phở! Tôi không phải tín đồ của phở, thời đó, thuộc hạng “dễ giặt, dễ ủi” ăn sao cũng được, nên không dám lạm bàn. Chỉ biết, những tín đồ sành phở (đã là tín đồ, thì khó tính) nghe đồn nơi nào có phở ngon là mò đến. Không cứ là phải đến một chỗ sang trọng, trái lại người sang trọng lần mò tới chỗ rất tồi tàn để ăn cho được một hai bát phở, chủ tâm đến cái điểm chính là phở thôi, chứ không quan tâm dến ngọai cảnh làm gì. Sau này, tôi cũng đớp phở khá thường nên biết, điều cần thiết là bánh phở phải mỏng và dẻo, thịt mềm, thỉnh thoảng lại thấy cái cay của gừng, cay cái cay của tiêu, cay cái cay của ớt, thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm… và nhất là nước dùng phải ngọt, ngọt kiểu chân thật, nghĩa là ngọt vì nhiều xương, ngọt một cánh hiền lành, êm dịu, ngọt một cách thành thực thiên nhiên, không có gì là hóa học của bột ngọt…tẩy mùi vừa vặn, không nồng, mà lại nêm vừa mắm muối, không mặn qúa và không lạt qúa. Đạt được mấy điểm đó tức là phở ăn được rồi đấy. Hãy nghe “Tín đồ phở” tuyên bố:
– Ăn được một bát phở như thế, phải nói rằng có thể lâm li hơn là nghe thấy một câu nói hữu tình của người yêu, cái thú có thể ví như sau một thời gian xa cách, được ngã vào trong vòng tay một người vợ đẹp mà lại đa tình …
Nói về phở mà không nhắc đến mấy quán bún bò Huế thì qủa là một điều thiếu sót. Nấu ăn là một nghệ thuật, điều đó ai cũng biết, cũng bún, cũng thịt, cũng chừng đó công thức nhưng tại sao bún ngưới này ngon mà bún người kia dở, chẳng qua là nghệ thuật nêm nấu cộng với kinh nghiệm. Con bún làm bằng gạo xay có pha ít bột lọc nên con bún trắng hơi trong và săn hơn. Con bún Huế lại to hơn các nơi khác. Có hai loại bún, con bún thường được cuộn thành từng con nhỏ, lúc đói bụng mà chấm nó với nước mắm ớt chanh tỏi thì tuyệt ! Con bún để làm bún bò gìo heo thường lớn hơn. Một tô bún bò hấp dẫn thực khách chính là nhờ chất nước ngon ngọt và thơm. Đặc biệt là nồi bún, một nồi bằng nhôm dẻo rất mỏng, trông giống một chiếc nồi đồng nhưng sâu và rộng miệng hơn. Ăn một tô bún đang bốc khói, những sợi bún trắng trong trôi nổi trong nước bún đỏ đỏ, những miếng móng gìo được nấu mềm nhừ, với một chút màu trắng của những cọng gía và màu xanh của rau húng, húp một ít nước béo đậm đà kèm theo một chút gia vị nước mắm ớt chanh, vô cùng thú vị, vừa cay, vừa nóng, vừa xúyt xoa, vừa nghe vị ngọt của nước bún của thịt, chạy dần vào thực quản. Thực khách khó quên được cái hương vị này. Phải có một lần ăn bún đến chảy nước mắt lúc đó mới cảm thấy hương vị xứ Huế nó thâm trầm như thế nào. Ở Quinhơn tôi chỉ biết có vài quán bún khá nổi tiếng như tiệm bún bò Hương bình ( nằm giữa tiệm kem Phi điệp và hãng sản xuất nước đá Hưng phát). Tiệm Như Ý ở đường Võ tánh, gần bến xe, tuy tiệm bán sinh tố, nước ngọt nhưng trước cửa tiệm, khỏang 5, 6 giờ chiều lại có gánh bún bò gìo heo bày bán trước tiệm. Gọi tô bún, mang vào tiệm mà ăn. Quán bún bò Bà Nghinh ở đường Hai bà Trưng, một quán bún tên gì đó, tôi không còn nhớ rõ, ở đường Tăng bạt Hổ (trước Cô nhi Viện). Có thể còn rất nhiều những qúan bún, những gánh bún bò gìo heo khác nữa, nhưng vì không có bảng hiệu, nên chẳng nhớ nổi.
Nhớ lại mì,phở, bún bò, tôi thấy nên nhắc đến cái món bún riêu cua nữa. Quán bún riêu bác Thuận mà hầu hết ai cũng biết, ở góc đường Tăng bạt Hổ, Cường Để. Không những chỉ có bún riêu thôi đâu nhé, còn có món bánh cuốn, làm ngay tại chỗ, cũng không kém phần hấp dẫn. Khác Phở có vị béo ngậy; ngọt, khác với cháo có vị thanh thanh, man mác, bún riêu có vị ngọt đậm, nước dùng hơi dôn dốt chua, mùi cua đồng thơm ngào ngạt, hơi cay cay, gạch ở mai cua, mới là vị chính tạo nên mùi rất riêng của bún riêu cua. Bún rời được trụng  bằng nước sôi lăn tăn, chan riêu cua ngập bún, ăn nóng cùng ớt bột chiên mỡ, rau diếp , lá kinh giới, tía tô hoặc rau muống chẻ. Sướng cả thần khẩu!.
Không phải ai cũng là người sành ăn, là tín đồ của phở, cùa bún bò gìo heo, của mì thánh…Là tín đồ của đạo ăn qùa thì phải đi viếng…tiệm thường. Nhưng làm cư sĩ ăn tại gia vẫn có thể…tụng ra được những món ăn ngon trong gia đình. Tôi thuộc hạng ăn tại gia…trường trai,  Dù đã sống gần trọn 35 năm ở hải ngoại, tôi vẫn còn thèm ăn mắm. Mắm nào cũng chẳng chê, mắm Châu đốc, mắm thu, mắm thái, mắm nêm, mắm ruột, mắm ruốc, mắm tôm…Người Bắc hay lầm lẫn giữa mắm tôm và mắm ruốc. Gọi ruốc là tôm, gọi tôm là ruốc. Mắm ruốc là làm từ con ruốc ra, ruốc có hình dạng nhỏ, trong, làm ra mắm thì có màu tím. Mắm tôm làm từ con tép ra, màu đỏ, có thêm củ riềng vào. Người Nam gọi là mắm tép, có thể đúng hơn cả. Mắm thu, mắm tôm nổi tiếng ở Quinhơn là quán bà Kỳ (Thanh Hương) ở đường Lê Lợi. gần sát rạp ciné Lê Lợi. Bà Kỳ người Huế, đem cả nghệ thuật nấu ăn xứ Huế vào Quinhơn. Món đặc biệt nào của Huế thực khách đều có thể thưởng thức tại đây, từ bún bò gìo heo, đến cơm hến, cháo lòng, bánh bèo…thôi thì đủ mọi thứ. Tuyệt..vời! Làm sao quên được món “mắm ruột”  ăn với cà dĩa còn xanh, mỗi lần ở nhà làm món này, là tôi …cạy luôn cơm cháy, Mắm ruột là do lấy ruột con cá Ngừ (tôi cứ tưởng tên cá là cá Người, nhưng phát âm theo giọng Bình Định: Người trở thành Ngừ như: Ngừ ta quơi!). Nhưng nó Ngừ thật! Ruột cá sau khi bóc bỏ mật, bỏ mang, được để vào trong tô, rắc múi hột lên, đậy cho kín, chứ ruồi bu là bị hỏng. Để phơi nắng vài ngày cho nó…sình, nói theo người chuyên môn là cho nó chín, nó dậy mùi, xong bắc cái chảo, khử tỏi cho thơm, bỏ ruột vào (lúc đó đã mềm) nhanh tay xào, thêm tí đường, chờ ruột rã, tan trong chảo, lúc đó trở thành một chất đặc sền sệt như tương ngọt (Hoisin) là bắc chảo xuống, ăn nóng. Cà dĩa cắt từng khúc vừa miệng, cứ việc cà quẹt mắm, rồi và cơm cho khá…Có thịt ba rọi luộc nữa thì…ăn mệt nghỉ! ăn quên cả nước…non. Ăn mắm vào buổi tối, khát nước lắm, như uống phải trà Thái đức!
Ở khu Một (bến cảng), có cái lò hấp cá, mỗi lần tới mùa cá nục thì bốc mùi…thơm đáo để. Cá lưới được nhiều quá, ăn tươi không hết, phải hấp mang bán trên vùng cao nguyên, nhất là Dalat. Cá nục nhỏ con hơn và ăn không ngon bằng cá lồ ồ. Cá Ngừ hay cá lồ ồ (là con cùa con cá Ngừ) đem đi nấu mẳn, tức là nấu như canh nhưng mặn mặn hơn chút để chan ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng, rau sống. Đích thị là món đặc biệt của Quinhơn. Nó mặn mà, nó thâm thúy làm sao! Những ngày vào Hạ, bạn còn nhớ có món gì đặc biệt ăn mát ruột không? – Món gỏi cá sống- Vâng, chính nó đấy! Ăn vào lúc tiết trời nóng bức, khỏi chê vào đâu được. Người ta làm gỏi cá bằng cá mai hay cá cơm. Làm cá cơm thì để nguyên con, với cá mai thì lọc lấy phấn thịt hai bên, cá mai làm xong phải để trên thớt gỗ cho thật khô mới lạn lấy thịt, xong rồi vắt chanh vào, để một lúc thì nó tự chín. Đáng chú ý nhất là rau, không phải chỉ một hai thứ rau thơm là xong đâu, phải có càng nhiều loại rau thơm, thì càng ngon, chẳng hạn như rau mùi, tía tô, kinh giới, húng lủi, húng láng, tàng ô, rau cúc, rau răm,lá ổi, lá sung…ngần ấy thứ rau, thứ nọ đỡ cho thứ kia mới hoàn toàn. Riêng nhìn những thứ rau đó không, nằm trong những cái dĩa trắng tinh, ta cũng đủ thích mắt và thấy cái mát rời rợi trong lòng. Nhưng cái mát đó chưa thấm vào đâu với cái mát lúc dĩa cá sống bưng ra để vào giữa cái vườn hoa xanh ngát đó; miếng cá cứ trắng nõn ra, trông mơn mởn như một người đẹp đang thơ thẩn trong vườn Thượng Uyển. Gỏi cá có một cái thú đặc biệt là có nhiều mùi vị cay, đắng, chua, ngọt, hăng hắc, mặn…đủ cả. Thỉnh thoảng lại bùi, cái bùi của đậu phụng, mè và của chất bánh tráng nướng tỏa mùi thơm thoang thoảng…Xúc mỗi miếng cá với miếng bánh tráng mè và với đủ mặt rau. Qủa là một món thanh nhã, đậm đà mà không béo ngậy. Người đẹp trong vườn Thượng Uyển đã biến mất tự lúc nào, mà khách si tình,vẫn còn quyến luyến, ngẩn ngơ…
Đặc biệt ở quinhơn còn có món bún sứa góp phần vào món gỏi cá sống. Sứa có hai loại: một loại sứa chân và loại sứa tròn. Sứa chân ăn ngon hơn, dòn hơn, túng lắm thì xài đỡ sứa tròn. Sứa mua ở chợ mang về, ngâm vài tiếng trước khi ăn cho nó nhả cát, vắt cho thật ráo nước. Một nồi nước lèo nấu bằng xương, bỏ  cà chua vào cho dịu nước, thịt ba rọi, tôm, hành, xào xong đổ vào nước dùng. Bún cho vào tô, rắc sứa lên trên, rau muống chẻ, rau thơm, băp chuối xắt nhỏ, trãi lên mặt với đậu phụng rang giã vừa vừa, chan nuớc lèo súp súp vào…Bạn đã từng ăn qua chưa? Ngon không chỗ chê đấy bạn ạ! Ở Quinhơn có loại cá mó, hình dẹp, màu hồng, đầu màu xanh lơ, loại cá này chắc là loại cá san hô. Cá mó lăn bột, chiên vàng, ăn với nước mắm ớt tỏi. Khỏi chê!. Món chả cá từ con cá rựa, ôi thôi ngon ơi là ngon. Cá rựa mang về, lột da, xong lấy muỗng nạo phần thịt, để sang một bên, đến phần xương thì bằm thật nhuyễn, để sang một bên. Nêm mắm, muối, đường cho vừa ăn, nắn lại thành từng cục như cục Hamburger ở Mc Donald. Chiên lên, làm sốt cà, bỏ tất cả vào, để lửa riu riu cho sốt thấm vào thịt. Tuyệt hảo hạng! Phần thịt, lúc chìên thì có màu trắng, phần xương thì đổi màu nâu nâu. Ăn những cục từ phần thịt là ngon nhất, nhưng chọn những cục này ăn trrước thì bị khỏ đầu. Ăn bún  chả cá chính tông con nòng nọc, thì phải nhắc đến con cá mối (giống như cá thác lác trong Nam). Mùi chả cá không tanh, bùi làm khoan khoái khứu giác ta, trong khi thị giác thì được thỏa thuê với những ngọn rau muống chẻ, xanh mườn mượt, xen với tí rau húng, rau thơm, chén nước mắm ớt, tỏi chanh, đường, dĩa bánh tráng mè nướng, bẻ vụn hoặc những tô bún nghi ngút khói, hay chồng bánh tráng dày đã nhúng nước.
Tôi còn nhớ một món đặc biệt nữa là món nhộng xúc bánh tráng. Hình như muốn ăn nhộng thì phải đợi tới mùa mới có. Nhộng là sâu của con tằm, mấy con sâu lúc nhúc, leo nheo…nhưng đã luộc lên rồi, thì chúng nó ngay đơ…và có màu vàng. Nhộng mua ở chợ đã luộc sẵn, nên nó không còn nhúc nhích nữa, có nhiều chất đạm. Thứ này, xúc với bánh tráng nướng, xúc hết, tay vẫn còn muốn xúc mãi không thôi…Ủa, nó hết rồi à! Sao mà mau qúa vậy? Ở Quinhơn còn có một loại cá nữa là cá Dìa (không phải cá về vì phát âm ). Cá này sống ở vùng nươc lợ. Đầm thị nại là quê hương lý tưởng. Mỗi chiều, đi trên đường Bạch Đằng, rẽ qua Cầu Đá, đứng xem mấy tay câu cá Dìa bằng “mồi quẹt”. (mồi quẹt là gì vậy? khó nói quá! Nó là…chất vàng vàng đó). Loại cá này cũng thích ăn dơ như cá Tra ở trong Nam. Nhưng tôi nghĩ, cá bán ở chợ, được lưới chứ không câu quẹt như dân tài tử đâu. Cá Dìa chiên ngon lắm! Cá lưỡi trâu chiên vàng ăn cũng ngon, chỉ tiếc thịt chúng nó ít qúa, vì dẹp lép. Con cá hố cũng dẹp, còn dẹp hơn cá rựa nữa, nó ốm tong, ốm teo, chỉ có nước đem chiên. Vì cá quá mỏng, nên trong xóm tôi có bà hàng xóm, được đặt tên “bà Phước cá hố”. Con cá bánh đường xuất hiện rất thường dưới dạng đã chiên rồi, nằm trên dĩa nhà tôi. Bữa cơm Việtnam, cũng như những bữa cơm Quinhơn đều không thể thiếu món canh. Trời nóng, ăn đồ chiên xào nuốt không trôi, nhiều lúc chỉ quơ quào chén cơm chan canh, lùa một húp thì xong bữa. Món canh thì hằng hà vô số, muốn canh nào, chế nước cho kha khá thành canh đó. Canh bí, canh bầu, canh rau má, canh khổ qua, canh cá…Tôi muốn nhắc đến canh cá, nhưng canh cá cũng có nhiều loại, tôi khoái nhất là cá liệt nấu canh măng chua, hoặc với thơm, với cá chua, thêm nhiều lá hành vào. Con cá liệt nhỏ bằng ba ngón tay, hình thù giống cá chim hay cá scalare, nhiều xương con lại cứng. Còn có một mỹ danh nữa là cá Long hội. nói lái lại có nghĩa là lôi họng! Dễ bị hóc xương đến lôi cả họng. Nhưng nấu canh với nó thì ngọt vô cùng. Chỉ cần nấu nó lấy nước làm canh, có một vị ngon rất độc đáo. Ngoài cá liệt nấu canh còn có canh cá Ngạnh cũng không kém phần hấp dẫn. Cá Ngạnh sống ở nước lợ, cũng nấu với măng chua, hoặc thơm, rất ngon. Không biết bây giờ ở Quinhơn có còn con cá khoai mà Ngoại tôi hay goị là “cá Phai” hay không?. Thịt cá khoai mềm nhũn như thịt heo kho tàu hai, ba ngày. Nó trắng và trong suốt, thấy cả lòng dạ, nấu với mứt đen, tức rong biển, như một cặp bài trùng, ăn mê tơi !. Cẩn thận gắp, bỏ  vào miệng miếng cá khoai, „chưa nuốt đến môi đã trôi đến cổ“ rồi, nó mềm mại chạy tọt xuống dạ dày, không cần nhai.
Lúc nào húng hắn ho, thì có ngay “món ruột heo xào hẹ”. Ruột già mua về, lấy đũa, lộn mặt trong ra, xát với muối, nêm mắm muối và nghệ rồi xào với hẹ. Mê tơi lắm,lại hết ho dù ho khan, ho khúc khắc hay ho…gà. Ngày nào có món thịt ba chỉ nướng than, thì ngày đó hết cơm trong chớp mắt. Gà, vịt cũng hiếm khi có dịp mới được ăn, có ngày giỗ quảy, mừng run…miệng!
Mỗi món ăn chỉ có một số người thật sự hiểu nó, số người ấy là những người ở địa phương đó, vì nó còn liên quan đến những kỷ niệm. Món ngon Quinhơn còn nhiều nữa chẳng hạn như bún nem nướng, bánh bèo, bánh nậm, bánh xèo…nhưng tôi chỉ muốn nhắc đến những món ăn thường có, thường thấy ở Quinhơn, để biết đâu bạn đọc đến, sẽ khơi lại những kỷ niệm ngày xưa.
Miếng ngon Quinhơn như một lời tâm sự với những người xa xứ. Dù ở một phương trời góc biển nào, tôi hy vọng bạn vẫn mang theo cái hương thơm ngào ngạt quyến luyến cuả quê hương.

Bùi Đăng Khoa
(Germany)

Read Full Post »

TTCT – Khách du lịch đến thăm mộ Hàn Mặc Tử (Quy Nhơn, Bình Định) những ngày này đã bất ngờ trước một phụ nữ nước ngoài miệt mài khắc thơ Hàn Mặc Tử bằng bút lửa (*).

 

 
Bà Ginette Lâm với bút lửa bên mộ Hàn Mặc Tử – Ảnh: Trường Đăng

Người phụ nữ ấy gốc Pháp, tên Ginette Lâm. Đã 74 tuổi nhưng bà còn nhanh nhẹn, hoạt bát. Thấy khách bước vào, bà hỏi bằng tiếng Việt lơ lớ: “Xin chào! Bạn cần viết câu gì?”. Đôi mắt vẫn trẻ trung tinh anh, bà thân thiện, cởi mở trò chuyện với mọi người.

Duyên

Chồng bà người Việt, quê ở Trà Vinh. Ông sang Anh học nghề in ấn, bà sang Anh làm nghề giữ trẻ. Bà yêu ông vì ông rất tốt bụng, lịch sự và khéo léo trong đối xử. Hai dòng máu Pháp – Việt hòa quyện, họ có năm người con.

“Người Việt ai cũng thế. Hơi nhút nhát nhưng hòa nhã, thân thiện. Tôi đến Việt Nam nhiều và đã ba lần ăn tết ở TP.HCM” – bà trải lòng. Trước kia làm việc tại một trung tâm văn hóa – xã hội ở Pháp, bà đi nhiều, đọc nhiều, thích trải nghiệm và tìm hiểu văn hóa các nước. Bà chia sẻ: “Nước bạn rất đẹp, có chiều sâu văn hóa dễ làm say mê người khác”.

Cách đây hơn một năm, trong chuyến du lịch đến mộ Hàn Mặc Tử, thăm Bãi Trứng, nghe những câu chuyện về các danh nhân, danh lam ở đây bà rất cảm phục. Rồi bà phát hiện ngay bên ngôi mộ thi sĩ họ Hàn có một người ngồi vẽ thư pháp bằng bút lửa. Đó là Trương Vũ Kha (nghệ danh Dzũ Kha, theo cách gọi của người địa phương). Yêu thơ Hàn Mặc Tử, nghệ sĩ thư họa này đã dựng lều vẽ tranh, họa thơ, viết thư pháp bằng bút lửa 30 năm nay bên mộ Hàn Mặc Tử. Bà quyết định ở lại xin học nghề. Vốn đã học viết thư pháp trên giấy ở TP.HCM từ bốn năm trước, nên lần gặp Dzũ Kha, bà xem như cái duyên lớn với đất Quy Nhơn. Bà ở lại học bút lửa, học thêm tiếng Việt.

Nghệ sĩ Dzũ Kha giới thiệu ngắn gọn: “Đây là học trò lớn tuổi nhất nhưng có niềm đam mê và miệt mài kỳ lạ. Điều đáng khâm phục là nghị lực, sự năng động, cởi mở và độ sâu tâm hồn của bà”.

Bà thích nghe nhạc Trịnh, đàn tranh, dân ca và những bài hòa tấu nhạc dân tộc Việt… “Viết thư pháp phải tập trung cao độ, suy ngẫm mà không vướng bận gì khác nên nghe những dòng nhạc này giúp tập trung hơn” – bà tâm sự. Thỉnh thoảng bà cao hứng hát “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng…”.

“Để gió cuốn đi”

Đến thăm nhà, bà vui vẻ tiếp đón như một người bạn đồng niên. Trong căn nhà nhỏ nhắn thuê gần mộ Hàn Mặc Tử là một không gian của hồn Việt. Trên tường bà treo những bức thư pháp mình vẽ bằng bút lửa. Bức thư pháp lớn nhất – chữ “Tâm” kèm dòng chữ “Cuộc đời sẽ rất đẹp nếu chúng ta biết sống bằng một trái tim yêu thương và độ lượng” – bà treo giữa nhà, bên cạnh là những câu thơ Hàn Mặc Tử và ca từ trong nhạc Trịnh…

Lật tập thơ Trăng Hàn của Hàn Mặc Tử để ngay ngắn trên bàn, bà dừng lại đọc Đây thôn Vĩ Dạ, bài thơ bà tâm đắc. Tôi hơi ngỡ ngàng khi thấy một bức tranh minh họa câu thơ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay do chính bà vẽ. Chỉ vào nét mờ ảo hư hư thật thật như vào cõi mộng, bà nói đùa: “Ghềnh Ráng cũng đẹp, lãng mạn như bến sông trăng. Tôi đến với Hàn Mặc Tử là một cái duyên nhưng Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/Ai biết tình ai có đậm đà. Thơ Hàn Mặc Tử rất lãng mạn và gần gũi với thiên nhiên”. Bà nói chuyện, lẫy cả thơ Hàn Mặc Tử như một người bản địa. Lưu loát, tinh tế.

Trên kệ sách là tập nhạc Trịnh viết bằng song ngữ Pháp – Việt. “Nhạc Trịnh thấm đẫm tình người, giai điệu miên man vào suy ngẫm tĩnh lặng. Tôi thích nhạc Trịnh còn vì tinh thần phản chiến, nhất là bài Đại bác ru đêm gợi điều gì đó khủng khiếp và sự chán ghét chiến tranh”.

Tôi hát cho bà nghe, bà cũng nhẩm theo Hàng vạn tấn bom dội về thành phố/người phu quét đường dừng chổi đứng nghe”, nét mặt lúc say sưa, bà gõ nhịp. Giọng hát chưa tròn, tôi ngỏ ý sẽ chỉ bà hát một số bài nhạc Trịnh, đôi mắt bà long lanh sáng lên: “Lúc trước ở Pháp chúng tôi có nghe giảng về nhạc Trịnh nhưng ít người hát được. Nhất định tôi sẽ tập hát nhiều nhạc Trịnh để về Pháp hát cho bạn bè nghe”.

Mỗi ngày bà cố hoàn thành một bức thư pháp qua bút lửa. Bà tâm sự: “Mỗi lần cầm bút đầu óc trống rỗng như đang thiền định, gội rửa tất cả phiền muộn, hòa suy tư trong nét bút”.

Chiều nào bà cũng ra biển, đọc một bài thơ Hàn Mặc Tử rồi đi bộ dọc Ghềnh Ráng. “Đứng trên đồi Thi Nhân nhìn ra xa, gió biển Quy Nhơn cuốn mình vào một cảm giác rất lạ – người phụ nữ đã bước qua tuổi thất thập cổ lai hy tâm sự – Tôi học bút lửa không phải vì nhu cầu việc làm mà chỉ… để gió cuốn đi”. Còn nghệ sĩ Dzũ Kha thán phục: “Làm việc với bà tôi cứ nghĩ đó là một thanh niên trai tráng. Không có biểu hiện tuổi già, phân biệt quốc gia hay văn hóa trong con người này. Tôi xem bà như một người bạn để cùng thổi lửa vào thư pháp sưởi ấm thơ Hàn”.

VŨ NGỌC

__________

(*) Nghệ thuật bút lửa là cách viết bằng bút có ngòi là dây lò xo xoắn, được làm nóng bằng điện (5 ampe) để làm cháy gỗ. Khi viết, ngòi chạm vào gỗ phát ra lửa, bốc khói. Bút lửa thường viết trên gỗ thông, gỗ mít mềm dễ cháy theo ý muốn, riêng nghệ sĩ Dzũ Kha đạt đến trình độ viết bút lửa trên giấy thường.

Read Full Post »

TRƯƠNG TẤT THỌ

Thời gian trôi qua  với biết bao nhiêu kỷ niệm. Kỷ niệm vui làm con tim rộn rã, kỷ niệm buồn làm tâm hồn xao xuyến bâng khuâng. Và tôi nâng niu kỷ niệm như những bảo vật quí giá nhất  vì sự kiện rồi sẽ phôi pha còn kỷ niệm sẽ luôn sống mãi trong tâm hồn, trường cửu với thời gian. Bài viết này kính tặng các thầy cô Tôn Thất Ngạc, Trương Ân, Vương Quốc Tấn, Lê Nhữ Tri, cô Bùi Khương, cô Bích…

 

Kỷ niệm lễ phát thưởng ở trường cũ thời 1960, tác giả ngồi ngoài cùng bên phải, cô Bích ngồi giữa

Lên lớp 11, tôi học Vật lý với thầy Vương Quốc Tấn , cũng mới ra trường. Kỷ niệm đầu tiên, đó là cái tội…chọc thầy của tôi. Nguyên tôi viết chữ đẹp nên được giao nhiệm vụ viết sổ đầu bài. Hôm đó vào giờ của thầy, tôi đã bắt con cào cào lớn bỏ vào sổ điểm rồi lấy sổ đầu bài giằng lên. Khi vào lớp thầy vừa mở sổ gọi đọc bài thì con cào cào búng thẳng vào thầy làm thầy sợ xanh mặt. Sau nầy tôi mới biết thầy bị bệnh yếu tim. Hối hận.

Không riêng tôi, các cô gái lớn và đẹp trong lớp tôi cũng nhè thầy chọc hoài, cứ một lát các người đẹp lại dài cổ ra gọi “ Th..ầ…y” rồi khúc khích cười khiến thầy trở nên bối rối…Sau này có một bài ca “tình yêu đến từ nơi đâu…” nhưng riêng tôi lúc ấy thì biết rằng tình yêu đến tứ cái chuyện chọc quê thầy giáo mới ra trường với kiểu gọi “Th…ầ…y” pha tí ti nũng nịu…

Tôi thương thầy Tấn nhiều vì thầy là cây vợt bóng bàn của ĐHSP Huế, đàn ghi ta cũng khá, có tâm hồn âm nhạc (hình như giống tôi). Về trường, thầy phụ trách bộ môn bóng bàn và tôi là vận động viên chủ lực của trường, đoạt các chức vô địch mang danh dự về cho trường, tham dự vòng chung kết toàn quốc… Dưới sự lãnh đạo của thầy, đội bóng bàn trường đoạt luôn chức vô địch thanh niên tỉnh làm thầy khoái qúa dẫn chúng tôi ra nhà hàng đặc sản Ngũ Châu ăn bồ câu quay. Hôm đó thầy ứng chi 105đ (thời 1961 là số tiền lớn, nghe đâu sau này trường không chịu hoàn lại làm thầy bị thiệt), nhưng tôi lại khoái mẫu đàn ông chịu chơi mà không chơi chịu, dám chơi, dám chi như thầy. Những ngày chủ nhật, thầy hay đạp xe ra nhà tôi chơi, đàn hát với tôi rồi chở tôi trên xe miti (tức ngồi đòn giông mi tóc) đi dợt bóng bàn. Mối liên hệ giữa tôi với thầy Tấn vừa là thầy trò vừa như anh em kể cả những lúc tôi chọc quê thầy khi bắt gặp thầy chở “nàng “ đi chơi trên xe Jeep ca pô cao ở vùng quê. Thầy thì chối biến, còn tôi lại tống cho thầy một quả ấm ớ hội tề cho thầy sợ chơi:

-Phần em thì em cứ “hê”, phần thầy nếu có oan uổng thì cứ việc thanh minh thanh nga, có sao đâu…

Tác giả 1961

Năm l997, đang đi trên đường XVNT, thấy dáng ai đi như dáng thầy Tấn 35 năm trước, tôi mừng qúa nhưng không thể quẹo trái được vì đường quá đông xe, tôi phải vừa ép trái vừa canh chừng bóng thầy. Rê khỏang trăm mét, tôi quay lại và gặp thầy, mừng ơi là mừng. Ngày 20-11 năm đó vì bận việc, tôi bảo tài xế mang quà đến tặng thầy, thấy tên tôi, thầy phán “Cậu này hồi xưa học giỏi lắm!”. Nghe nhân viên báo cáo lại, tôi sướng rên mấy đìu hiu.

Hồi học trường Cường Để 1960, tôi còn rất thương cô Bùi Khương, cô là cưu nũ sinh Marie Curie, dạy Pháp Văn đồng thời cũng là GV chủ nhiệm. Học trò miền Trung mà được một cô giáo học trường Pháp ở Saigon dạy Pháp Văn thì tuyệt cú mèo nên chúng tôi ái mộ cô lắm. Kỷ niệm “êm đềm” nhất với cô , là khi tham gia công tác hiệu đoàn, tôi hỏi cô thứ hạng tháng vừa qua, cô chỉ cười nói:

-Tháng nào cũng phê em giỏi, khá hoài nên tháng này cô phê khác…

-Cô phê sao cô?

Cô cốc đầu tôi rồi cười bí mật:

-Khi phát sổ liên lạc ra sẽ biết…

Quả nhiên đến giờ chủ nhiệm, cô phát sổ tôi thấy cô phê một lời phê rất đặc biệt, “không đụng hàng”, đó là :

-Hạnh kiểm: Ngoan!

-Học lực: Nhỏ mà học giỏi, đáng khen!

-Chuyên cần: Khá!

Tôi khoái chí nhìn cô cười và bắt gặp cô nhìn tôi đầy thương mến, cười trên đôi môi và cả trên ánh mắt. Tôi nhớ mãi lời phê ấy của cô như là một kỷ niệm khó quên thời đi học.

Kỷ niệm ngày xưa đi học đối với tôi là cả một dĩ vãng vàng son vì được rất nhiều thầy cô cưng. Tôi thuộc dạng “ngu trường kỳ, thông minh đột xuất” nên lấy đó làm tiền đề khai thác  để các cô bạn gái noi theo mà … cưng tiếp cho…đạt chất lượng 5 sao.

TTT

Read Full Post »

Hồ Ngạc Ngữ

Biển rất xanh nên lòng anh rất rộng
Cũng rất buồn khi anh nhớ đến em
Có những ngày mặt biển rất mông mênh
Những cơn sóng nhớ ai mà đầu bạc

Những cơn gió đã là cơn gió khát
Mang cô liêu trong nỗi nhớ nghìn trùng
Anh đã chìm vào đôi mắt xanh trong
Chợt hiểu tình yêu sâu hơn lòng biển

Anh biết biển đời là nơi hò hẹn
Những nỗi biệt ly, những cuộc sum vầy
Những dấu chân buồn trên cát đêm nay
Sóng sẽ xóa để mong người đừng nhớ

Anh yêu biển những đêm trời trở gió
Nghe mênh mông tiếng sóng lòng mình
Thấy cuộc đời như hoa sóng dưới chân
Buồn hiu hắt tiếng dã tràng xe cát…

Read Full Post »

Cứ đêm đêm hòn đá lại lăn lông lốc từ cửa kinh thành đến đập vào cửa nhà từng viên quan có chức sắc, từ hòn đá phát ra lời đòi mạng thống thiết
Để trở thành một địa điểm được nhiều người dân coi là linh thiêng, “hòn đá oán hờn” trong ngôi chùa Thập Tháp Di Đà (Thường gọi là chùa Thập Tháp) ở Bình Định có lẽ đã “góp công lớn” vì những truyền thuyết nửa thực nửa hư về nó được người trong vùng truyền tụng đời này qua đời khác. 200 năm đã trôi qua, hòn đá trắng lạ kỳ vẫn trơ trơ giữa sân chùa, vừa như một điểm nhấn cho cảnh quan, vừa như một chứng tích lịch sử.Chứng tích lịch sử

Ngôi chùa nằm ở phía Bắc thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận thôn Vạn Thuận (xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, cách TP.Quy Nhơn gần 30km và cách quốc lộ 1A khoảng 100m). Du khách đến vãn cảnh chùa nếu hỏi chuyện sẽ được các nhà sư ở chùa Thập Tháp kể cho nghe những câu chuyện ly kỳ, huyền bí liên quan đến những dấu tích lịch sử còn sót lại trong ngôi chùa cổ tự này.

Chuyện kể rằng, hơn 200 năm trước đây, khi chúa Nguyễn Ánh chiếm được thành Hoàng Đế, liền sau đó ông ta đã mở cuộc trả thù tàn khốc, nơi đổ máu đầu rơi nhiều nhất chính là chốn kinh đô xưa. Lúc ấy, Nguyễn Ánh chiêu dụ những người trong hoàng tộc nhà Tây Sơn ra đầu thú với lời hứa hẹn sẽ không trả thù; ai bị trọng tội thì hình phạt cao nhất là đày vào miền Nam khai khẩn đất mới; ai có tài sẽ được trọng dụng.

Để tránh phải sống chui lủi “ngoài vòng pháp luật”, rất đông người có quan hệ dòng tộc với nhà Tây Sơn ra trình diện. Nhưng ngay sau đó, Nguyễn Ánh trở mặt nuốt lời, mang ra chém đầu bất kể già trẻ lớn bé “những kẻ thù xưa” rồi chôn tập thể.

Đao phủ của Nguyễn Ánh kỳ công đi khắp các vùng, rồi tìm được một hòn đá lớn màu trắng tinh khôi mang về dùng để kê đầu các nạn nhân. Tảng đá ấy được đặt ngay cổng thành Hoàng Đế, quân lính và đao phủ đưa nạn nhân lên đó mà chém. Hàng trăm kiếp người đã từ giã cõi đời trên hòn đá này, nỗi oán hờn của người dân với bạo chúa chất cao như núi.

Nỗi oan khất, đau đớn của hàng trăm người như lặn vào tảng đá kia khiến sau đó, khi đã xong nhiệm vụ hành hình, dù bao nhiêu quân lính cũng không thể nhích hòn đá ấy rời khỏi chỗ đã giết những người vô tội. Truyền thuyết kể lại rằng, hàng đêm người ta nghe trong tảng đá vẳng ra tiếng than khóc ai oán, người dân và cả quan quân nhà Nguyễn Ánh không ai dám đi ngang nơi cổng thành.

Hòn đá kỳ lạ chất chứa căm hờn của hàng trăm người dân đối với bạo chúa Nguyễn Ánh

Dân gian thêu dệt nên câu chuyện, cứ đêm đêm hòn đá lại lăn lông lốc từ cửa kinh thành đến đập vào cửa nhà từng viên quan có chức sắc, từ hòn đá phát ra lời đòi mạng thống thiết. Cả vùng bất ổn, không chỉ những quan lại trong triều mà người dân sống quanh thành (nay thuộc xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn) cũng sống không yên. Quan lại sợ hãi, lập đàn cầu siêu giải oan nhưng đâu lại vào đấy.

Một ngày nọ, vị cao tăng trụ trì chùa Thập Tháp đến thành xin được lập đàn cầu siêu để giải nỗi oan khuất tày trời, lấy lại sự yên bình cho người dân trong vùng. Mừng như bắt được vàng, quan quân trong triều đón tiếp vị sư rất long trọng. Sau 3 ngày đêm kinh kệ, vị sư xin được mang hòn đá kia về chùa Thập Tháp. Kỳ lạ thay, lúc này chỉ cần 4 người khiêng nhưng hòn đá được chuyển đi nhẹ tênh, khác với việc trước đó cả trăm quân lính hè nhau di chuyển đi mà đá không nhúc nhích.

Hòn đá oán hờn

Các vị sư trong chùa kể lại, hòn đá được mang về đặt cạnh cây thị cổ thụ 300 năm tuổi nằm phía Nam tường thành của nhà chùa và được đặt tên là Hòn Đá Chém. Thế nhưng đã về đến cửa Phật mà nỗi oan khiên trong Hòn Đá Chém vẫn còn vất vưởng.

Nhà sư Mật Hạnh, người đã nhiều thập kỷ gắn bó với ngôi chùa kể lại, ngày xưa khi ông mới đôi mươi, vào những đêm mùa đông, trong thời tiết âm u, có lúc ông loáng thoáng nhìn thấy một phụ nữ mặc áo cụt trắng, quần đen bước ra từ hòn đá kia rồi đi đến chỗ đặt tấm bia di tích của nhà chùa. Khi chó trong chùa sủa ran là bóng người phụ nữ kia biến mất.

Nhà sư Mật Hạnh cười: “Thực sự thì cũng không dám khẳng định đó là ma hay chỉ là ảo ảnh. Cũng có khi do nghe nhiều truyền thuyết về hòn đá quá nên tưởng tượng ra ma quái mà thôi”.

Thời gian sau, vị cao tăng trong chùa có tên Phước Huệ một lần nữa chuyển Hòn Đá Chém vào để ngay bậc tam cấp bước vào khu Phương Trượng của chùa. Đêm đầu tiên chuyển hòn đá vào chùa, nhà sư Phước Huệ đang ngon giấc thì thấy có một vị mặc trang phục võ tướng hiện hình nói rằng: “Ông ỷ là đệ tử nhà Phật nên phá nhà tôi hả?”.

Nhà sư Phước Huệ hét to một tiếng khiến tất cả sư đệ trong chùa đều nghe thấy lao đến, mới biết sư phụ mình nằm mơ. Cũng có thể đó chỉ là nội dung những truyền thuyết được nghe trong ngày, đêm đến ám ảnh cả vào trong giấc mơ.

Người trong chùa còn lưu truyền lại những câu chuyện ngày xưa, những đêm nhà chùa tổ chức cúng hành binh, hành khiến hàng năm vào lúc nửa đêm 30 tháng Chạp, rạng sáng ngày mùng 1 Tết Nguyên Đán. Bàn thờ cúng được đặt ngay chánh điện, nơi đặt Hòn Đá Chém bên dưới. Trong mỗi lần cúng, đến khi đổ 3 hồi trống chiến là tự nhiên có một dải lụa trắng, tỏa ra ánh hào quang sáng rực xuất hiện bay lượn ngang chánh điện một lần rồi biến mất.

200 năm đã trôi qua, Hòn Đá Chém vẫn còn yên vị ngay cửa khu Phương Trượng của chùa Thập Tháp, cao khoảng 40cm, dài 1,5m, rộng 1,3m, 4 góc được đẽo 4 nét hoa văn đơn giản nhưng trải qua bao nhiêu vết bụi của thời gian, những hòn đá vẫn giữ được màu trắng sáng tuyệt đẹp của loại đá trắng không tì vết. Nếu không được kể chuyện về nó, thoạt trông không ai có thể ngờ trong hòn đá hiền hậu kia đã chứa biết bao nỗi oan khuất của hàng trăm mạng người là nạn nhân của bạo chúa Nguyễn Ánh ngày xưa.

Hòn đá chứng nhân lịch sử, lại gắn liền với nhiều truyền thuyết như thế nhưng không được thờ cúng, nay giản dị làm một bậc tam cấp cho người ta bước chân qua. Những nhà sư trong triều cho biết, oan khuất rồi cũng đã đi qua.

Ngày xưa khi dời hòn đá từ cổng kinh thành về chùa, người ta cũng chỉ có mục đích mong mỏi lớn nhất là làm dịu đi những oán hờn của người oan trái chứ không có mục đích dời hòn đá về đây làm vật thờ cúng. Đá lại trở về với công dụng của đá, ngày ngày du khách bước chân qua để nhớ lại bài học ngày xưa bạo chúa Nguyễn Ánh vì nuốt lời tàn độc nên cuối cùng đã phải trả giá đắt khi vương triều lụn bại, phải nhận một cái chết tức tưởi và bị lịch sử muôn đời coi như đối tượng “rước voi về giày mả tổ”.

Hòn đá oán hờn ngày xưa nay thành hòn đá hiền hòa, thành hòn đá xinh đẹp, thành hòn đá nâng niu bước chân du khách.

Trong tất cả những ngôi chùa ở miền Trung được xây cất từ thời các chúa Nguyễn, thì chùa Thập Tháp là chùa cổ nhất thuộc phái Lâm Tế. Chùa Thập Tháp là một trong 5 ngôi chùa của tỉnh Bình Định được chép vào sách Đại Nam Nhất Thống Chí với lời đánh giá: “Chùa này cùng chùa Linh Phong đều nổi tiếng là danh thắng”.Chùa được xây dựng trên một gò tương đối rộng hình mai rùa có chu vi gần 1km gọi là Gò Thập Tháp. Tên gọi này bắt nguồn từ chỗ nơi đây xưa kia có 10 ngọn tháp do người Chàm xây để “yểm hậu” cho thành Vijaya. Vào năm Quý Hợi niên hiệu Chính Hòa thứ 4 nhà Lê (1683), một ngôi chùa khang trang được hưng công xây dựng mà vật liệu chính là gạch đá lấy từ mười ngôi tháp Chàm đã bị đổ.

Cho đến ngày nay, trải qua nhiều lần trùng tu, tái tạo, cái cũ và cái mới đan xen nhưng chùa vẫn giữ được tổng thể hài hòa, tôn nghiêm cổ kính. Năm 1990, Chùa Thập Tháp được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao, Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia.

Theo Pháp luật & Thời đại

Read Full Post »

TTO – Những tảng đá núi nhấp nhô, ngổn ngang giữa ngàn lớp sóng vỗ; cỏ cây ướt đẫm sau những trận mưa bất chợt; mặt nước biển xanh màu ngọc bích bên dải cát mịn… Tất cả tạo nên một Ghềnh Ráng nguyên sơ, một bức tranh sơn thủy hữu tình kỳ vĩ và thơ mộng.

Câu cá ngày biển động tại bãi tắm Tiên Sa

Ghềnh Ráng là một quần thể sơn thạch của dãy núi Xuân Vân chạy đến sát chân biển phía nam thành phố Quy Nhơn, Bình Định. Điểm xuất phát lý tưởng để khám phá danh thắng này là những bãi tắm kéo dài từ đường An Dương Vương đến đường Hàn Mặc Tử – nơi có cổng chào tham quan Ghềnh Ráng.

Dọc bờ biển, khách có thể khám phá cuộc sống của người dân làm nghề chài lưới, giăng câu, hay vào những buổi trưa, chiều nằm tắm nắng trên dải cát mịn, lắng nghe sóng vỗ rì rào.

Từ cổng tham quan Ghềnh Ráng, con đường nhựa sẽ đưa du khách lên đồi Thi Nhân, viếng thăm nơi an nghỉ của nhà thơ Hàn Mặc Tử. Ấy là một ngôi mộ được xây trên một gò cao, lưng dựa vào núi, mặt quay ra biển, với cỏ cây bao quanh gợi lên trang đời và sự nghiệp dang dở của người thi sĩ tài danh, bạc mệnh.

Những ai yêu thơ Hàn Mặc Tử đều biết vào những năm tháng cuối đời, thi sĩ họ Hàn đã sống cùng căn bệnh hiểm nghèo trong trại phong Quy Hòa. Và thiên nhiên Ghềnh Ráng đã tiếp thêm nguồn cảm hứng cho ông viết lên những áng thơ bất hủ trước lúc đi xa.

Ngày nay, để tưởng nhớ những đóng góp của ông, bên đồi Thi Nhân còn có khu trưng bày cuộc đời và thi ca của nhà thơ, có dịch vụ bút lửa Zũ Kha ghi lại những áng thơ nổi tiếng trên những thớ gỗ mộc như món quà tri ân với những người yêu thơ Hàn Mặc Tử.

Khung cảnh hữu tình dọc bờ biển đường An Dương Vương kéo dài đến khu du lịch Ghềnh Ráng – Ảnh: Tiến Thành
Khám phá cuộc sống của người dân bản địa – Ảnh: Tiến Thành
Mộ thi sĩ Hàn Mặc Tử nằm bình yên giữa đất trời, cỏ cây – Ảnh: Tiến Thành

Men theo con đường đất uốn lượn theo triền núi, du khách sẽ chiêm ngưỡng những tác phẩm điêu khắc mà tạo hóa đã ban tặng cho Ghềnh Ráng.

Đó là bãi tắm Hoàng Hậu với những khối sơn thạch nhiều hình dạng, kích thước khác nhau. Là bãi Ðá Trứng rộng chừng hơn 100m2 bày la liệt những hòn đá xanh hình tròn, mặt nhẵn như quả trứng đùa giỡn cùng sóng biển. Là đá Vọng Phu được sóng và gió biển tạc khắc như hình dáng người vợ ngóng chồng. Hay đá có hình sư tử dũng mãnh vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” hàng trăm năm nay trước sóng gió biển Đông…

Từ bãi tắm Hoàng Hậu, đi tiếp 1.000m nữa, du khách sẽ đặt chân đến bãi Tiên Sa. Đây cũng là điểm cuối của hành trình khám phá Ghềnh Ráng với câu chuyện đậm màu sắc huyền thoại.

Gian hàng trưng bày thơ Hàn Mặc Tử bằng bút lửa của nghệ nhân Dzũ Kha – Ảnh: Tiến Thành

Chuyện rằng, ngày xưa ở Bồng Sơn có người con gái xinh đẹp, nết na. Cô và một chàng trai trong làng đã thầm yêu nhau. Nhưng rồi tiếng đồn về nhan sắc của nàng đã lọt đến tai một viên quan hám sắc và độc ác. Hắn cho người theo dõi và tìm mọi cách chiếm đoạt nàng. Để giữ trọn lòng chung thủy với người yêu, nàng khóc lạy cha mẹ, từ biệt chàng trai rồi bỏ làng trốn vào Quy Nhơn.

Biết tin, viên quan huyện lập tức sai tùy tùng đuổi theo. Tới Ghềnh Ráng thì trời nổi dông bão, cô gái biến mất trong đêm mưa gió tầm tã. Bọn chúng lùng sục khắp nơi nhưng không tìm ra dấu vết gì nên cho rằng cô gái đã liều thân nhảy xuống biển cả, đành tức tối trở về chịu tội với quan trên.

Chàng trai mất người yêu cũng chạy vào tìm kiếm. Anh leo hết tảng đá này đến tảng đá khác cất tiếng gọi người yêu. Tiếng anh tha thiết vang động khắp núi rừng và biển cả, nhưng trong đêm tối, anh chỉ thấy hình bóng người yêu thấp thoáng ẩn hiện, khi tha thướt trên rừng, khi nhấp nhô theo sóng biển như tiếc thương, vẫy gọi.

Từ đó, mỗi khi chớp sáng trên Ghềnh Ráng, người trong vùng lại ngước tìm hình bóng cô gái thấp thoáng hiện lên. Vì vậy chốn này được gọi là Ghềnh Ráng – Tiên Sa…

Sóng biển nô đùa trên bãi Đá Trứng – Ảnh: Tiến Thành
Khối đá núi có hình thù kỳ dị tại bãi tắm Hoàng Hậu – Ảnh: Tiến Thành
Đá Vọng Phu – Ảnh: Tiến Thành
TP Quy Nhơn nhìn từ đường lên đỉnh Xuân Vân – Ảnh: Tiến Thành

Với du khách ưa thích mạo hiểm, một chuyến trekking hoặc leo lên đỉnh Xuân Vân hiểm trở nhìn bốn bề cảnh vật: phía nam với những dãy núi trùng điệp chạy dọc ven biển đến tận Quy Hòa, phía bắc là dải cát vàng chạy dọc biển và nhà cửa thành phố Quy Nhơn, phía đông và tây là biển cả và bán đảo Phương Mai, đầm Thị Nại… có lẽ sẽ không gì thú vị bằng.

TIẾN THÀN

Read Full Post »

Thái Minh Quang

 

Tạp chí “Xưa và Nay”, số 62B (2037), 1999

Người am hiểu khá sâu tiếng Việt, thường phàn nàn với bạn bè về việc đổi Qui Nhơn từ “i ngắn” thành “y dài”. Từ điển Larousse năm 1969 (in tại Ý) (Atlas moderne Larousse) xuất bản tại Paris, trang 24 phần Index des noms (tức phụ lục địa dư các địa danh trên thế giới) ở cột 4, dòng 2 tính từ dưới lên có ghi: Qui Nhơn. Người nước ngoài cần giao dịch, ký hợp đồng, chuyển gạo tiền nong hàng hóa… chỉ căn cứ vào từ điển Larousse. Nếu một đơn vị hành chính hay doanh nghiệp nào đấy chuyển tiền hay hàng hóa ghi chữ Quy Nhơn… tất đối tác nước ngoài không nhận được (Đúng hơn là không được nhận) và ngược lại. Biết bao phiền toái, tổn thất trong chuyện i ngắn với y dài này. Nếu có khách du lịch, cầm trong tay một từ điển danh tiếng Larousse (hay các từ điển, sách hướng dẫn du lịch các nước, chắc phải dựa vào từ điển người Pháp về Việt Nam) họ sẽ khó khăn thế nào khi cố gắng tìm đất Qui Nhơn mà có khi họ đang ở tại đất này! Họ sẽ không thể nào hiểu được khi hai chữ viết khác nhau mà lại là một trong đầu họ. Đấy là 2 địa danh, 2 nơi chốn khác nhau?

Trong bối cảnh ấy, tôi tìm đến các văn bản có liên quan đến hai chữ Qui Nhơn. Tôi đã đọc và ghi chép lại các từ điển sau đây:

Từ điển Việt-Pháp (J.F.M Genibrel NXB Tân Định, 1898)

Đây là từ điển lâu nhất mà tôi có. Từ điển này do các nhà ngôn ngữ học đã để ra 14 năm (1884-1898) để biên soạn: chuyển tiếng Việt từ tự dạng chữ Nôm sang tự dạng La tinh. Trang 639 ghi: Qui: lại, về… hội tụ… Cũng trang 639 ghi: Qui (con rùa – Tortue).

Như vậy, với từ điển này Qui với nghĩa là qui tụ hay qui theo nghĩa Hán tự (con rùa) cũng viết như nhau: “i ngắn”.

Hán Việt Tân tự điển (Nhà sách Khai Trí-Sài Gòn, tháng 4 – 1975).

Trang 558 ghi Quy Nhơn: quay về với điều nhân đức – tên một tỉnh ở trung phần Việt Nam.

Trong từ điển này không có chữ Qui (i ngắn)

Từ điển tiếng Việt (NXB Khoa học Xã hội Hà Nội – 1988)

Trang 839: Xem: qui, quỉ, quì, quĩ, quí, quị v.v.. như quy, quỳ, quỷ, quỹ, quý, quỵ… Tức i như y (nghĩa như nhau và song song tồn tại).

Từ điển Việt – Hán (NXB Giáo Dục-1996-GS Đinh Gia Khánh hiệu đính – in lần thứ 5 có sửa chữa và bổ sung) trang 896, 897 ghi qui là rùa và qui là quay trở lại (hồn qui, vinh qui)… Từ điển tiếng Việt (NXB Mũi Cà Mau, 1997 – Phan Canh).

Trang 929: Qui = rùa, và cách 3 dòng ghi: Qui = về, trở về (qui chính, qui định, qui hàng, qui hoạch, qui hướng, qui hồn…) không có chữ quy.

Từ điển tiếng Việt (Trung tâm tự điển – NXB Đà Nẵng – 1995)

Trang 784 không có chữ qui.

Từ điển Việt – Pháp (Dictionnaire Vietnamien- Francaise- NXB Thanh Hóa 1996 – Lê Phương Thanh).

Tất cả đều y (dài) (trang 644- 645)

Hán Việt từ điển (Đào Duy Anh – NXB TP Hồ Chí Minh- 1994)

Trang 163: Qui bản, Qui Nhơn (165) tỉnh lỵ tỉnh Bình Định.

Từ điển tiếng Việt thông dụng (NXB Trẻ –1997- Nguyễn Văn Xô).

Không có chữ Quy mà có (trang 363) Qui: (1) con rùa, (2) về (sinh ký tử qui), (3 )phép tắc định trước.

Những từ Việt Hoa thông dụng (NXB Đồng Nai- 1997- Vương Bình).

Qui: rùa (363)

Qui: về (394) không có chữ Quy.

Từ điển Hán thông dụng (NXB trẻ-1997, Lâm Hòa Chiến, Lý Thị Xuân Cúc, Xuân Huy)

Quy (1) rùa (2) về (trang 820)

Cũng tác giả Lâm Hòa Chiến trong từ điển Việt Hoa (NXB trẻ – 1998), không nói đến qui là rùa, trang 323 lại nói qui thuận (Như vậy, một tác giả hai cuốn từ điển viết khác nhau, có lẽ quan điểm tác giả thấy hai chữ có thể thay thế nhau tùy từng trường hợp cụ thể).

Nhìn lại 13 cuốn từ điển mà tôi đã mô tả ở trên ta thấy gì? Rõ ràng đấy là sự không thống nhất. Chưa có thể kết luận: khi viết qui (i ngắn) tức là rùa và quy (y dài) mới là quy tụ. Các nhà từ điển học khi viết sách đều có quan điểm riêng trước những hiện tượng ngôn ngữ còn tìm tòi, cải tiến, tranh luận. Hẳn họ quá biết, từ khi có “chữ quốc ngữ” bao nhiêu cuộc tranh luận với tinh thần khoa học và yêu đất nước đã xẩy ra. Trong đó không ít cuộc tranh luận và giấy mực bàn về i (ngắn), hay y (dài). Có ý kiến cho rằng từ nào có vần bằng thì i (ngắn), (so bì, lì xì, lui cui). Từ nào có vần trắc thì y (dài) (tỷ mỷ, sơn thủy, cô giáo Thúy…). Nhưng trên thực tế lại không đơn giản như vậy.

Tóm lại không thể đưa ra quan điểm dành riêng cho qui (i ngắn) là rùa và quy (y dài) là quy tụ. Tuy rằng trong chữ Hán, đồng âm nhưng tự dạng khác nhau. Trên thực tế không ai hiểu Qui Nhơn (i ngắn) tức là đất chỉ có rùa và người hay người như rùa! Cũng không có cơ sở khoa học để nói nếu viết i ngắn chữ qui sẽ đọc thành chữ (u…i…ui).

Trong sự không thống nhất ấy buộc ta phải thống nhất những điều cơ bản:

1- Đây là danh từ riêng. Không ai có quyền bắt nhà thơ Hồ Dzếnh phải bỏ chữ Z trong tên ông. Là danh từ riêng, khi mới ra đời thế nào, nay để vậy, “Nhất thành bất biến”.

Ông Đào Duy Anh trong đất nước Việt Nam qua các đời (NXB Thuận Hóa, 1994) trang 99 mục trấn Quảng Nam ghi: “Thái tổ Gia dụ Hoàng đế năm thứ 46 (1602) đổi phủ Hoài Nhơn làm phủ Qui Nhơn.” Hay tìm lại văn bản hành chính trước đây: đều ghi là Qui Nhơn (Collège de Qui Nhơn – trường Quốc Học Qui Nhơn) v.v..

Muốn thay đổi một địa danh phải :

+ Có hội thảo khoa học và sự nhất trí.

+ Phải thông báo chính thức (được Quốc Hội thông qua) trong và ngoài nước.

Không thể tùy tiện.

Chúng ta còn nhớ vụ kiện khắp thế giới đều biết: Nữ văn sĩ Pháp Françoise Sagan viết cuốn: Buồn ơi! Chào mi (Bonjour tristesse) bị một công dân kiện vì đã đưa họ, nói xấu họ trong cuốn sách nói trên. Tòa án gọi nữ văn sĩ. Nữ văn sĩ đã không hầu tòa vì chữ “Françoise” của tòa thiếu một nét: dấu Cédille ở dưới chữ C. Tòa đành chịu

2- Trong khi chờ đợi một quyết định khoa học, trên phương diện hành chính nên giữ nguyên chữ cũ: Qui Nhơn.

Bởi liên quan đến cuộc sống, giao dịch, ngoại giao… cần hết sức thận trọng.

THÁI MINH QUANG

Read Full Post »

(baobinhdinh.com)   Thi Lại hay Thị Nại trên vùng biển Quy Nhơn xuất hiện từ thế kỷ X đến XV. Người Champa đã hình thành nên một thương cảng khá sầm uất ở vùng này. Năm 1987, một cuộc khảo sát tại vùng ngoại vi Quy Nhơn đã tìm thấy dấu tích thành Thi Nại cổ – một tòa thành trong lịch sử có vai trò to lớn trong việc giao thương giữa Champa với bên ngoài. Thành Thị Nại cổ đóng vai trò vừa là quân cảng (phòng thủ về quân sự) vừa là thương cảng (trao đổi thương mại). Khi vai trò quân cảng không còn nữa, người Champa đã xây dựng thương cảng Thi Nại khá quy mô. Tàu buôn các nước trong khu vực đã đến đây buôn bán, trao đổi hàng hóa với Champa; hàng hóa Champa cũng từ đây xuất đi các nước trong khu vực. Tư liệu về những con tàu đắm tìm thấy tại các vùng biển Pandanan, Bornéo ở Philippines đã chứng minh điều đó. Đã trên 1.000 năm nhưng dấu vết về thương cảng cổ được ghi chép trong lịch sử vẫn chưa tìm thấy.

Trên vùng biển Nhơn Hải thuộc TP Quy Nhơn vẫn còn một bờ thành nằm chìm trong lòng biển. Bờ thành chỉ có thể thấy được khi thủy triều xuống. Bề mặt bờ thành phẳng, nhưng độ cao của thành chưa xác định được. Người dân cho biết, bờ thành này đặc nguyên một khối, không xây bằng vật liệu đá hoặc gạch truyền thống mà bằng hồ vữa. Điều chưa thể lý giải là làm thế nào trong môi trường nước như vậy, người xưa lại đắp được bờ thành này. Hiện bờ thành vẫn còn khá nguyên vẹn và chắc chắn. Đây thật là một kỳ tích vì chưa tìm thấy ở đâu dọc dải miền Trung (vùng đất cư trú của người Champa xưa) có loại hình này.

Bờ thành nối hai bờ vách núi, chính giữa chừa khoảng trống cho thuyền vào – ra. Tuy chưa trực tiếp khảo sát nhưng theo chúng tôi, xét về vị trí thì khu vực này không có một yếu tố thuận lợi nào cho một cảng vì sau lưng là núi dựng đứng, vịnh thì quá khiêm tốn, thuyền vào ra không những quá hẹp mà cũng không thuận lợi. Hay đây là một con đường nối liền giữa hai vách núi, là công trình phòng thủ về quân sự? Nhưng phòng thủ sao lại nằm dưới nước? Thật chưa có lời giải đáp thỏa đáng cho các nghi vấn đưa ra. Tuy nhiên, dẫu sao đi nữa, đây là một di tích rất lạ của người Champa.

Cùng với hệ thống tường thành bằng đá chạy dài trên đỉnh núi Phương Mai, dấu tích lạ bờ tường thành vịnh Nhơn Hải là một điểm cần chú ý khi đến thăm quan.

ĐINH BÁ HÒA

Read Full Post »

Nam Thi.

 

Đó là  một sáng cuối năm 1970 ở Sài Gòn.

(more…)

Read Full Post »

Phạm Văn Phương

Khi tôi biết yêu, Người đã ở đó rồi

Một thành phố nhỏ nhoi và bình lặng

Thành phố không dèn mầu và âm âm tiếng sóng

Bạn bè đông vui

 

Rồi chúng tôi chia tay, mối đứa một góc trời

Thi thoảng gặp nhau thường nhắc

Ly rượu ấm trong chiều gió bấc

Nụ cười giêng hai

 

Đi hết thanh xuân, ngừoi vẫn mong ngừơi

Thương nhớ quá mà không tìm nhau được

Thành phố đồi thay nhiều, ai cũng khác

Bạn bè dần vơi

 

( Lòng vẫn yêu hoài một thành phố nhỏ nhoi

Thành phố không đèn mầu, và em bình lặng

Sóng cứ vỗ mênh mang vào xa vắng…)

 

Tôi lại về trong buâng khuâng đêm

Năm tháng như mây trời phiêu dạt

Sợi tóc trắng cầm tay soi dưới nguyệt

Trăng không mầu, em trong chiêm bao

 

Những con còng se cát đã về đâu?

 

Read Full Post »

« Newer Posts