Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Nguyễn Thị Mây’

Xao động xuân thì

Nguyễn Thị Mây

             Đặt thùng tưới xuống đất, tôi thở phào nhẹ nhõm. Vậy là xong! Mấy chục gốc mai trong vườn vừa được tắm mát, chúng hân hoan chìa những chiếc nụ bum búp, be bé đón nắng. Đó là niềm hy vọng của ba tôi, giấc mơ làm giàu của ba sắp trở thành hiện thực.

             Mấy hôm trước, ba bảo tôi vặt lá mai. Theo dự tính của ba thì đây là thời điểm thích hợp nhất. Hái lá sớm quá, chưa tết, mai đã ra hoa. Còn chậm, tết xong, mai mới từ từ nở thì … xuân muộn. Chắc hẳn không ai thèm chọn mua những cây mai như thế. Và, ba sẽ bán ế, giấc mộng vàng tan vỡ. Gia đình lại được dịp xào xáo. Ba mẹ thay phiên trách móc nhau. Tết sẽ buồn như … chết. Vì thế, tôi phải ra tay nghĩa hiệp, giúp ba ép mai nở đúng giờ giấc. Tôi ngắt lia, ngắt lịa, từng chiếc lá thi nhau lìa cành. Chúng bay tản mạn quanh tôi nửa như luyến tiếc nguồn cội, nửa như chế giễu: “Chưa hết đâu, còn phải quét lá nữa, bé ạ!”. Thấy vẻ mặt ủ rũ của tôi, ba an ủi: “ Bao nhiêu lá là bấy nhiêu tiền đó con!”. Tôi chẳng phấn khởi chút nào. Những điều ba nói thường ít có sức thuyết phục đối với mẹ và tôi. Bởi lẽ, kế hoạch nào của ba cũng vĩ đại nhưng thành quả đạt được luôn … hạn chế. Làm việc gì ba cũng phô trương ầm ĩ nhưng thu hoạch thì lặng lẽ, im lìm.

             Sau mấy lần đi buôn chuyến bị lỗ đến cụt vốn, ba chuyển sang nghề trồng cây cảnh. Ông đoán trước một tương lai xán lạn chưa từng thấy. Một vốn, chín mười lời! Theo ba, xã hội ngày càng đổi mới, phát triển. Đời sống nhân dân thoải mái, sung túc nên nhu cầu giải trí cũng được nâng bậc. Ngoài những phương tiện hiện đại như truyền hình màu, cát – xét, xe máy, … Phong trào chơi hoa kiểng, cây cảnh cũng rầm rộ. Thú vui tao nhã này được rất nhiều người ủng hộ. Từ nhà nghèo đến nhà giàu đều yêu thích. Không có một biệt thự nào vắng bóng cây cảnh trong nội thất. Thiếu màu xanh cây lá như thiếu khí trời và không có cây cảnh, chủ nhân ngôi nhà trở nên kém thẩm mỹ, trình độ văn hóa xem như còn thấp. Người ta đua nhau bỏ tiền ra mua tiếng lịch lãm, tao nhã. Ba tôi lý luận: “Cái gì nhà giàu thích thì báu và lên giá!Để minh họa, ba kể rằng:

             Ngày xưa, có hai vợ chồng nhà kia đã nghèo còn đông con. Họ làm lụng quanh năm suốt tháng vẫn không đủ sống. Một hôm, chịu hết nổi cảnh bữa no bữa đói, hai vợ chồng bàn nhau tìm cách tự tử cho rảnh nợ. Họ dắt đàn con vào rừng sâu tìm trái độc. Ở đó, họ bắt gặp một loại trái kỳ lạ, vỏ vàng xanh, ruột màu cam và hột lại đen bóng, mọng nước. Đoán chắc là trái độc, họ chia nhau ăn rồi chờ … chết. Nhưng, một lúc sau, họ chỉ thấy … no và còn có cảm giác khỏe khoắn như vừa được tẩm bổ. Hai vợ chồng chợt tỉnh ngộ. Họ thấy chết là ngu ngốc. Quanh họ còn biết bao điều bí ẩn, hay ho trời sinh ra để cho con người hưởng. Chưa chi đã vội đầu hàng hoàn cảnh. Hai vợ chồng liền dắt đàn con … về nhà. Hằng ngày, họ thay phiên trở vào rừng hái trái cho gia đình đỡ dạ. Nhưng, ăn hoài, họ phát ngán, bèn đem trái ra chợ bán. Lúc đầu, người nghèo mua ăn vì giá rẻ. Số tiền bán trái rừng vừa đủ để đổi gạo sống qua ngày nên hai vợ chồng gọi nó là Đu Đủ. Lâu dần, những người giàu cũng “thèm trái lạ”. Từ khi họ bắt đầu để ý tới đu đủ thì nó trở thành mặt hàng cao cấp, quí báu và giá bán tăng gấp mấy lần. Ba tôi kết luận: “Cây cảnh cũng thế. Loại nào, cây nào nhà giàu để ý có thể bán một hai chỉ vàng như không. Đây là cách làm ăn hợp thời, vừa mau phát đạt vừa được xem là nghệ nhân”.

            Để thực hiện ý định, ông vào rừng truy tìm cây quí. Ngày nào cũng vậy, sáng sớm, ba đã ra đi và đến mặt trời chếch bóng, ông mới quay về. Cái sọt cột sau poọc – ba – ga đầy nhóc cây là cây. Khi thì mai già, lúc lại toàn bồ đề con hay cây xanh. Ba giải thích, loại này quí lắm, chỉ cần nhìn mấy cái gốc, nó ngoằn ngòe cong queo tựa như những chú rắn bé tí cuộn vào nhau dưới vòm lá xanh um. Những nhánh bằng thăng nho nhỏ trông hao hao mấy cụm mây màu lục trôi là đà trên mặt đất.

             Tôi thắc mắc:

             – Sao chỉ toàn là lá, chẳng có hoa làm sao đẹp?

             Ba nạt ngang:

             – Đâu phải cứ phải hồng, đỏ, tím, vàng mới đẹp. Màu xanh là màu … hy vọng. Con nít mà biết gì?

             Thấy sắp có “chiến tranh”, mẹ vội kéo tôi vào nhà, để ba mặc tình trồng trọt, tỉa tót.

 Chỉ trong vòng mấy tháng, khoảng sân nhỏ nhà tôi rợn ngợp màu xanh cây cảnh. Chỗ này toàn mai, chỗ kia cau kiểng, chỗ nọ bồ đề. Ba tôi chỉ chừa một lối đi hẹp ơi là hẹp. Vậy mà ông vẫn chưa hài lòng, cứ tiếp tục vào rừng. Mẹ tôi thường rầu rĩ  than thở:

             – Ôi, chắc ba con định lập một khu rừng tại trung tâm thành phố đây mà!

             Nhưng, chiều nọ, ba tôi trở về với dáng vẻ “thân tàn ma dại”, mặt mày hốc hác, kinh hoảng như vừa gặp yêu quái trong rừng. Cái sọt trên poọc – ba – ga biến mất. Cả cây cuốc và dao phay cũng chẳng thấy. Sau một hồi thở dốc, lấy lại bình tĩnh, ba thều thào:

             – Đúng là đồ … ăn cướp mà!

             Mẹ tôi hết hồn, kêu lên:

             – Trời, ông gặp cướp à?

             Ba khua tay, múa chân:

             – Bà coi, cây mai đó là của tôi. Tôi đã “xí phần” lâu rồi. Tôi làm một cái rào để bảo vệ nó. Vậy mà sáng nay có mấy thằng ôn hoàng tới đào.

             Mẹ tôi nổi nóng:

             – Sao ông không đòi lại?

             – Đòi chứ sao không? Tôi đâu có sợ tụi nó.

             – Rồi sao? Mẹ tôi hỏi.

             Ba tiu nghỉu:

             – Tụi nó không trả còn vây đánh tôi. May là tôi … có võ, không thì làm sao chạy thoát về đây.

            Trong lúc tôi che miệng cười khúc khích thì mẹ tôi ấm ức:

             – Tức chết đi được! Còn cái sọt đâu?

             – Tôi bỏ luôn rồi. Tụi nó tới bốn thằng. Vả lại cái cuốc của tụi nó dài và bén lắm. May là chiếc xe đạp gởi ngoài bìa rừng…

             Ba lí luận:

             – Bà với con phải biết “ Mãnh hổ nan địch quần hồ”.

             Từ đó, ba tôi không vào rừng nữa mà bắt đầu giai đoạn tỉa tót, uốn nắn. Ba mua hàng kí lô dây chì để tạo dáng cho cây cảnh. Ông quấn quanh thân cây, bắt nó ưỡn ẹo đủ cách. Cây vươn cao, cây khom khom, lùn xuống, trông chúng co rúm thấy mà tội nghiệp. Thoạt nhìn như những tên tử tội bị trói, chờ giờ xử trảm. Mấy gốc bồ đề được ươm trồng trong những cái chậu tuyệt đẹp nhưng phải kèm cặp, chống chỏi đủ thứ vì hai phần ba rễ khoe mình trên mặt chậu, phần còn lại chỉ cắm hờ hững xuống lớp đất. Đau khổ nhất là mấy chục cây mai. Chẳng biết ai bày cách mà ba chặt ngang thân chúng. Ba cho rằng làm như vậy mai sẽ đẹp hơn. Khi mọc nhành mới, cành lá sẽ xum xuê. Tất nhiên hoa sẽ nhiều. Nhưng lúc bấy giờ, nhìn chúng, tôi muốn khóc, tưởng mình đang đứng giữa một nơi hoang phế, chết chóc với hàng mai cụt ngọn.

            Chưa hết, ba tôi còn bỏ ra hai chỉ vàng để mua về mấy cây si già cỗi. Ông chọn chỗ tốt gần nhà để dễ trông chừng. Nhưng, cây chưa kịp bén rễ thì “không cánh mà bay”. Sau một đêm mưa dông, sáng, ra vườn, ba kinh hoảng gào lên “Trời ơi là trời”. Tôi và mẹ chạy tới cũng hoảng hồn vì chẳng thấy mấy cây si. Tại đó, còn lại những cái lỗ sâu hóm, lưng lửng nước. Chưa bao giờ tôi thấy ba đau khổ như vậy. Ông không ăn, không ngủ mà chỉ … nhậu và nhậu. Ông say lúy túy. Hết chửi đời đến chửi trời, chửi đất. Ông tự làm khổ mình cho đến khi … ngã bệnh. Đã vậy, năm đó, tết đến, mấy cây mai cụt ngọn không chịu ra nhánh nhanh chóng. Chúng chậm chạp nhú vài ba cụm lá non xèo. Báo hại ba tôi thêm chán nản. Ông ủ rũ suốt ngày như cây nhớ rừng, xơ xác.

             Mẹ và tôi yêu ba lắm. Vì thế, cả hai âm thầm góp sức chuyển biến khu vườn này. Mẹ về ngoại xin mấy chậu Thiên Tuế. Tôi học hỏi các bạn cách trồng hoa hồng, hoa cúc, mãn đình hồng, … rồi ươm cây vào chỗ trồng cây si dạo nọ. Mấy chục gốc mai dường như thấu hiểu lòng tôi cũng vội vàng đâm chồi nẩy lộc, cành lá xum xuê, báo trước một mùa xuân tươi đẹp. Cây cối trong vườn thi nhau xanh tốt, nhẫy nhượt. Ngoài việc chăm bón, tôi còn bảo vệ cây trồng bằng cách treo trước cổng một cái bảng to tổ bố với hàng chữ: “ Coi chừng chó dữ và điện 220”. Kết quả, mùa đông sắp tàn, xuân sắp đến, toàn bộ cây cảnh không bị tên trộm nào để ý. Có lẽ những mặt hàng này chỉ thông dụng, không quý lắm. Dù sao, nó cũng giúp tôi nuôi dưỡng niềm tin. Tôi chẳng có tham vọng làm giàu mà mơ ước được sống hạnh phúc với ba mẹ trong mái ấm gia đình.

             – Cô bé … ơi cô bé!

             Giật nẩy mình, nhìn ra cổng, tôi trông thấy hai người lạ ăn mặc sang trọng, một già, một trẻ đến bên rào. Tôi lễ phép hỏi:

             – Dạ thưa, hai ông định tìm ai?

             – Có phải đây là vườn hoa kiểng của ông Hai Phi không cô?

             – Dạ phải! Tôi đáp.

             – Tôi là người quen cũ của ông Hai, muốn gặp để hỏi mua ít cây cảnh. Người đàn ông lớn tuổi bảo.

             Tôi mừng quýnh:

             – Dạ, mời hai ông vào.

             Người đàn ông còn trẻ trêu chọc:

             – Không mở cổng làm sao vào, cô bé?

             – Dạ, xin lỗi, tại mừng quá nên cháu quên.

             Gã con trai nói với người cùng đi:

             – Chú thấy chưa, người ta chờ mình từ lâu lắm.

             Tôi nguýt dài và nghĩ thầm: “Người đâu mà nhiều chuyện thấy bắt ghét”. Tôi liền hù:

             – Coi chừng chó dữ đó, ông kia.

             Hắn quay lại cười, nhe hàm răng trắng như … răng chó!

             – Hổng dám sợ đâu mà hù. Làm như người ta là con nít không bằng.

             – Chó dữ thiệt đó, coi chừng …

             Hắn lại cười:

             – Người dữ thì có!

             Tôi đỏ mặt, định cãi thì người đàn ông cao tuổi lên tiếng:

             – Trà, không được trêu chọc người ta.

             Trà làm bộ le lưỡi rồi tủm tỉm cười, thấy phát ghét. Mời hai chú cháu vào nhà gặp ba, tôi trở ra vườn ngồi chống càm bên hàng cúc đại đóa, lòng bỗng dưng buồn bã khác thường. Rồi đây những hàng cây, những đóa hoa đẹp sẽ rời bỏ nơi này về nhà khác. Chúng góp phần trang trí, tô điểm mùa xuân của một chỗ nào, không phải nhà tôi. Rồi đây, khi nhà nhà rực rỡ, lộng lẫy để đón giao thừa thì nơi này sẽ chỉ còn trơ khoảng sân cằn cỗi, bạc màu. Thảng hoặc sót lại vài loại cây hay hoa kém hương sắc. Cuối cùng, nỗi buồn cũng thấp thoáng quanh tôi.

             – Người đẹp hay hoa đẹp?

             Tôi giật mình quay lại. Gã “nhiều chuyện” lại làm tôi bực mình.

             – Vô duyên!

             Tự động ngồi xuống bên tôi, gã … bắt đầu nhiều chuyện:

             – Hình như trên trán tôi có hai chữ “vô duyên” thì phải?

             – Vô … duyên! Tôi buột miệng.

             Trà bật cười:

             – Thấy chưa? Lại vô duyên. Có lẽ hai đứa mình “vô duyên nên đối diện cứ … cãi liền”.

             Tôi che miệng cười khúc khích. Tưởng tôi hài lòng, Trà liền tấn công:

            – Bé cười, tôi mừng như chết đi được sống lại.

             – Xạo!

             – Hai đứa mình hợp nhau lắm chứ bộ. Cùng xạo có cỡ. Nhà không có nuôi chó mà dám treo bảng hù dọa.

             Trà bước đến bên rào, ngắt một cọng dây tơ hồng đưa ra trước mắt tôi:

             – Bé nè, dây điện 220 đây phải không?

             – Ừ đó, rồi sao?

             – Tốt, sẽ có người trèo rào vào hái trộm hoa.

             Trời! Liệu gã này có phải là kẻ gian không đây. Tôi liền đề cao cảnh giác. Chỉ vào cây cuốc đặt gần đó, tôi thản nhiên bảo:

             – Thử xem rồi sẽ biết.

             – Hãy đợi đấy, cô bé!

             Đêm nào tôi cũng thức rình đến khuya lơ khuya lắc. Không có ai lẽn vào vườn. Ngày Tết càng gần, cây cảnh trong vườn càng xanh tốt, ngào ngạt hương thơm, tôi càng lo lắng, sợ kẻ gian cướp mất công lao động khó nhọc bao ngày và mang theo cả niềm hy vọng của ba. Bây giờ, tôi lại mong bán được cây càng sớm càng tốt.

             Không uổng công chờ đợi, số mai trong vườn được người săn cây cảnh và cả những người yêu hoa thật sự tới mua gần hết. Các loại hoa cũng đem lại lợi nhuận đến cho gia đình tôi khá cao. Đúng lúc ấy, Trà và chú anh quay lại. Người đàn ông cao tuổi chọn mua mấy chậu thiên tuế. Còn Trà, anh ra vườn, sau một hồi ngắm nhìn, Trà chọn cả chục chậu hồng với giá mỗi chậu một trăm ngàn đồng. Trao tiền cho  tôi xong, trước khi ra về, Trà dặn dò:

             – Giữ giùm tôi nghe, cô bé. Hôm sau tôi cho người tới chở.

             Những đóa hồng nở rộ, tươi vui. Ong bướm dập dìu trong vườn hoa. Ai đi ngang cũng trầm trồ, khen ngợi. Vậy mà Trà đâu chẳng thấy. Anh đã trễ hẹn hai ngày. Ba mươi tết rồi còn gì nữa. Mặt trời chếch bóng đằng Tây. Đêm sắp về. Giao thừa gần kề. Không lẽ anh quên mấy chậu hoa ở đây. Thấy tôi nóng ruột, đi ra đi vào, ngồi đứng không yên, ba tôi bảo:

             – Ối, hơi đâu con lo. Họ là người quen cũ của ba. Hai chú cháu giàu lắm. Một triệu đồng  đối với họ có đáng là bao.

             Mẹ tôi cũng an ủi:

             – Ừ, kệ nó. Ai biểu mua mà không nhớ, ráng chịu. Đâu phải lỗi tại mình.

             Tôi thở dài:

             – Dù biết thế nhưng con vẫn thấy không ổn đâu ba mẹ. Chẳng lẽ tốn tiền mà không mua được gì. Làm sao đây ba?

             Ba nổi nóng:

             – Ai mà biết! Khi không họ đem tiền tới đây chớ ba có ép buộc gì đâu!

            Bỗng nhiên mẹ tôi tròn mắt, đưa một ngón tay lên môi:

             – Mẹ nghi quá! Hay là thằng này … khùng!

             Tôi bật cười nhưng sau đó cảm thấy mẹ nhận xét có phần hơi tàn nhẫn. Xem ra, Trà cũng … dễ thương chứ bộ.

             – Không phải vậy đâu, ảnh khôn thí mồ!

             – Vậy con ở đó đoán già, đoán non một mình đi. Để mẹ lo nấu nướng, rước ông bà.

             Thời gian như ngừng lại trước thềm năm mới. Đêm trừ tịch len lỏi vào khu vườn tĩnh mịch của tôi. Mùi khói nhang từ trong nhà lan tỏa, quyện lẫn hương hoa ngọt lựng, thanh thoát. Tôi bồi hồi đón giao thừa và chờ đợi những điều mới lạ đến với mình, dù vui hay buồn.

             – Chào cô bé! Chúc cô bé một năm vui vẻ, hạnh phúc!

             Trà đã đến, tuy có hơi muộn nhưng dù sao cũng còn kịp nhận hoa, không phải chờ sang năm mới, tôi mừng quýnh, reo to:

             – Anh Trà! Tới nhận hoa phải không?

             Trà mỉm cười vui vẻ:

             – Không, anh tới để chúc tết hai bác và tặng hoa cho bé.

             – Tặng hoa cho em! Hoa gì?

             Trà chỉ những chậu hoa hồng:

             – Tất cả những chậu hoa này, anh xin tặng cho bé.

             Quá sức tưởng tượng của tôi. Cả chục chậu hồng, lẽ nào anh … khùng thật. Tôi cảm thấy bứt rứt không yên:

             – Mua hoa để tặng người bán hoa à? Em không dám nhận đâu!

            – Sao vậy?

             – Như thế chẳng khác nào khi không mà nhận tiền người lạ.

            Trà đưa hai tay lên trời như cầu cứu:

             – Trời ơi là trời! Còn khách khí nữa, rõ khổ! Mình có phải là người lạ đâu. Chú anh quen ba em thì hai đứa cũng … quen luôn.

            Trà bỏ hai tay vào túi quần, đi tới đi lui một hồi rồi ngừng lại, nghiêm chỉnh hỏi:

             – Bây giờ chịu nhận chưa?

             Tôi thản nhiên:

             – Chưa.

             Trà phì cười, anh cú nhẹ vào đầu tôi một cái:

             – Ngu quá! Thôi thì cho anh gởi lại đây, qua tết anh mang đi.

            Tôi thắc mắc:

             – Qua tết còn mang đi tặng ai được nữa?

             – Chờ rằm tháng giêng, anh đem vào chùa để cầu … duyên. Còn em, nếu em không thích hoa thì anh sẽ tặng “quả” vậy.

             Trà đứng thẳng người, tay phải đưa lên ngực, giọng trang nghiêm như đang tuyên thệ:

             – Anh xin tặng “quả tim” của anh cho em. Chịu chưa?

             Vừa thích thú vừa thẹn thùng, chẳng biết làm sao, tôi nguýt Trà một cái rồi bỏ chạy vào nhà. Trà và tiếng cười đuổi theo.

             Tôi bắt gặp ba mẹ đứng bên hiên tự lúc nào. Cả hai nhìn chúng tôi rồi bảo nhau:

             – Mùa xuân thật tuyệt vời!

……

Read Full Post »

 Nguyễn Thị Mây

.

Ngôi nhà đứng chơ vơ, trầm mặc bên sườn đồi. Sương mù bảng lảng, phủ mờ mái ngói rêu phong xám xịt. Hàng cây lạnh lùng xòe nhánh lá rậm dầy, nối tiếp nhau một dãy. Trời thưa nắng, lối đi u tịch lạ lùng. Lá vàng xao xác dưới chân. Tôi chợt quặn lòng nhớ em và mùa đông năm cũ.

          Ngày đó, cũng trên đường này, tôi gặp em. Cô gái có khuôn mặt bầu bĩnh, thơ ngây. Đôi bím tóc dài buộc nơ màu tím. Tay cắp chiếc giỏ mây đáy tròn, em vừa đi vừa hát. Giọng lảnh lót, trong veo, vui nhộn. Tôi mơ hồ thấy một dòng suối từ thượng nguồn đang rì rầm qua khe núi, tràn xuống sườn đồi. Nước reo cùng tiếng gió, tiếng chim chìa vôi buổi sáng. Trời bỗng dưng xanh. Cây lá bỗng dưng  tươi  tắn và tôi bỗng dưng vui.

          Tiếng hát chợt ngừng bặt. Không gian chùng xuống, lặng đi. Tôi ngỡ ngàng nhìn cô gái đang dùng chân hất tung những chiếc lá khô. Hai cánh môi mím chặt, mắt long lanh ngấn nước.

          Tôi buột miệng:

          – Cô bé làm sao thế?

          Giật mình, em quay phắt lại. Nét mặt ủ dột thoáng sợ sệt:

          – Ơ, ông là ai? Tới đây làm gì?

          – Nhà tôi trọ dưới chân núi kia. Tôi đi dạo…

          Hình như em không để ý đến câu trả lời của tôi. Em mãi nhìn xuống những mái nhà lô xô thấp thoáng theo triền dốc  và những bóng người li ti di động không ngừng

Tôi giải thích:

– Họ đang họp chợ ở đó.

Em nhìn tôi, hỏi như nói một mình:

– Chẳng lẽ  mùa đông tới rồi sao?

Tôi ngạc nhiên nhìn cô gái. Em quên ý niệm về thời gian hay là không muốn nhớ? Em còn quá trẻ. Điều gì đã ẩn nấp trong lòng em, nhuộm xám ánh mắt nai tơ như thế .Tôi xác nhận:

– Mùa đông đã về.

Như bừng tỉnh, em kêu lên:

– Tôi thù ghét mùa đông!

Em bỏ chạy, đôi bím tóc đong đưa. Chiếc bóng nhỏ khuất sau ô cửa mở.

Những ngày kế tiếp tôi không gặp em. Hôm nào tôi cũng thơ thẩn lên đồi, men theo con dốc cũ, tìm đến tảng đá, ngồi ngóng về phía nhà em và chờ đợi. Chẳng biết để làm gì. Tôi cảm thấy bồn chồn, ray rứt không yên nếu không đến đó một lần trong ngày . Quyển sách mang theo, tôi chẳng đọc được chữ nào. Tôi nhìn đăm đăm vào trang giấy và không thấy gì hết. Bực bội, nhắm mắt, tôi lại thấy rất rõ, không phải chữ mà là em, cô gái tóc vấn bím, mang hài thêu màu đỏ. Bàn chân nhỏ hất tung những chiếc lá vàng.

Đúng lúc tôi quá nãn thì em xuất hiện. Không phải từ trong nhà đi ra. Em khệ nệ vác một bó cây khô ngược dốc. Hai bím tóc quấn quanh đầu như vương miện. lưng áo màu tím đẫm mồ hôi. Đôi gò má ửng hồng nhưng ánh mắt vẫn buồn, ngơ ngác.

Em không trông thấy tôi. Ném bó củi xuống, em ngồi bệt dưới tàn cây đại thọ. Đưa tay quệt mồ hôi trán, em lẩm bẩm:”Mệt quá! “

Tôi bật dậy, đứng như trời trồng mất mấy giây mới định tỉnh. Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:

– Cô bé …làm gì đó?

Em giật mình, đứng lên rồi lại ngồi xuống,  thở phào:

– Cũng là ông! Làm người ta hết hồn!

Tôi cười, đưa tay sờ càm:

-Cô bé cũng làm tôi giật mình.

– Tôi!

– Tiếng ông là đại từ chỉ người già. Lẽ nào tôi hóa lão sớm thế?

Cô bé trừng mắt;

– Còn tiếng “cô bé” chỉ hợp với những đứa bé gái hỉ mũi chưa sạch.

– Vậy là mình gọi nhau không đúng cách rồi. Tôi phải sửa lại thế nào, cô bé?

– Không cần thiết vì tôi chẳng muốn làm quen với ông.

– Nhưng tôi muốn.

Em lại trừng mắt với tôi, trông rất dễ thương.

Em buột miệng;

– Vô duyên!

Không nói gì nữa, em đến bên bó củi, nhấc lên, quay đi. Tôi vội đuổi theo:

– Giận sao, cô bé?

Em tránh sang bên, lầm lũi đi. Tôi đứng lặng giây lâu. Em dần xa. Tôi bàng hoàng như sắp đánh mất một cái gì rất quí. Tôi hớt hải đuổi theo. Chẳng biết lớ ngớ thế nào lại giẫm phải đá, trợt chân, lăn mấy vòng. Tôi kinh hoàng kêu lên:

– Ôi, chết tôi rồi!

Em nghe thấy, liệng bó củi xuống đất, chạy trở lại bên tôi;

– Trời, ông có sao không?

Tôi sượng sùng, nén đau, lắc đầu;

– Không, không sao!

Tôi gượng đứng lên nhưng   chân phải đau nhói. Hình như đã bị bong gân rồi. Tôi bóp nhẹ vào đó. Em bảo:

– Đâu, để tôi xem!

Nhưng rồi em chẳng biết làm gì hơn là đưa một ngón trỏ khều nhè nhẹ vào chân tôi. Nghĩ ngợi một hồi, em bảo:

– Phải rồi! Ông ngồi đây chờ nghe, tôi về nhà nhờ mẹ tới giúp ông.

Em chạy đi, lát sau, trở lại cùng với mẹ. hai người dìu tôi về nhà.

Đó là một ngôi nhà cũ kĩ và bé nhỏ giữa núi đồi hùng vĩ. Nó đứng trơ trọi cách xa làng bản như muốn được yên tĩnh, hòa nhập vào thiên nhiên hiền dịu. Tường nứt nẻ. những vết rạn nứt như nét vẽ đường chấp nối của những tảng đá núi chồng chất lên nhau. Mấy ô cửa đã ố màu, lỏng lẻo, mối mọt. sự tàn lụi thấp thoáng quanh đây, gợi buồn se sắt.

Gian nhà trước hai bên trưng bày trái ngược, hỗn độn. mỗi bên một hình thể khác nhau. Bên trái, trên tường treo những bức tranh  rất đẹp. Cạnh  cửa sổ là chiếc bàn mặt vuông, cẩn đá hoa bóng loáng. Ngoài lọ đựng bút, còn có một bình hoa bất tử.  Liền đó, chiếc tủ kiếng khá lớn chứa đầy sách và tranh vẽ.

Bên phải không rộng rãi, tao nhã như chỗ đối diện nó. Chỗ này tạp nhạp đủ loại vật dụng. Một chiếc bàn tròn và sáu cái ghế. Trên đó, bình tích, ly tách, gạt tàn thuốc, rỗ may…Không còn chỗ trống, bụi phủ mờ mờ. Trong góc nhà, tủ quần áo đặt cạnh tủ chén, giữa những chồng bát là tô, đĩa , muỗng, đũa ngà. Ngăn dưới, con búp bê tóc vàng hoe bị mớ vải thêu phủ quanh. Nó như ngạt thở tìm cách nhô đầu lên một chút.

Mẹ em  có tính cách rất khác em. Bà hay nói, nói liên tục, âm sắc, nhanh, Chốc chốc, bà cất giọng líu ríu. Tạo nên một luồn âm thanh nhào lộn, cuộn xoắn lấy khoảng không gian chật hẹp trong nhà. Tôi mệt mỏi lau mồ hôi trán. Em đưa mắt nìn tôi rồi thẩn thờ quay đi. Thỉnh thoảng, em gắt lên ”Mẹ à!”. Bà không hiểu ý em lại nói.

Qua lời bà, tôi biết được gia cảnh nhà em. Ba em đã bỏ đi khi gió chướng tràn về, bứt lìa những chiếc lá vàng khỏi nhành cây, ném tả tơi trên triền dốc vắng. Mẹ em nghi ngờ chồng say mê một người đàn bà khác dưới thị trấn. Bà cho rằng đó là một con yêu tinh đã đưa móng vuốt ra chộp lấy người đàn ông tài hoa, lãng mạn và yếu đuối. Ba em là một họa sĩ chuyên vẽ tranh tàu. Những bức tranh thủy mạc của ông được người vùng nầy ưa thích lắm. Mẹ em mang ra cho tôi xem mấy bức họa của ông. Tranh sơn thủy, chim, hoa và người. toàn bộ cảnh sắc được ghi chép lên giấy hoặc khung lụa với hai màu đen trắng. Chúng gây ấn tượng mạnh mẽ nơi tôi. Mỗi bức mang một phong cách khác nhau. Ba em đã dùng đường nét để tả tình, dùng màu sắc đậm nhạt để để gợi tình cảm nơi người nhìn ngắm. những bức vẽ cảnh núi đồi rất độc đáo. Chỉ với khuôn khổ nhỏ bé mà ông thể hiện cả một dãy núi rừng trùng điệp. Khi vẽ nó, có lẽ ông đã ngắm nhìn thiên nhiên với nhiều góc độ khác nhau. Từ xa đến gần, từ gần ra xa. Từ trên nhìn xuống rồi từ dưới nhìn lên. “Luật xa gần” trong hội họa dường như không có chút ảnh hưởng gì đối với ông. Người họa sĩ qua nét cọ đã thu xếp lại thiên nhiên lên khung vải. Lạ nhưng không sai. Khác thường nhưng không tách rời hiện thực. Dưới mỗi tấm tranh đều có đề thơ và đóng dấu. Tôi lâng lâng trong niềm cảm phục người nghệ sĩ tài hoa và buồn buồn bởi những trắc trở tình duyên, hoàn cảnh sống của ông. Tôi hiểu vì sao ông rời bỏ nơi nầy. Tôi biết lý do ông vẽ tranh tả người đều là người lạ. Không có khuôn mặt trong tranh nào là của mẹ em. Ở bà, ông chỉ nhìn thấy có một nửa điều mình cần thiết. Tiền và tài tề gia, nội trợ. Một nửa phần còn lại nằm trong dáng dấp người trong tranh. Nàng đẹp, tinh khiết như nắng mai. Lặng lẽ như rừng thông vắng gió.

Người họa sĩ ấy đã ra đi, tìm kiếm mẫu người như ý. Chẳng biết ông có bắt gặp hạnh phúc hay là chỉ làm rối rắm thêm đời mình trong buổi xế tà? Và, tạo thêm nỗi đau day dứt, không nguôi trong lòng em từ thuở bình minh của cuộc đời.

Tôi yêu em. Người con gái mang hài bằng vải thêu màu đỏ. Tôi muốn lửa tim  mình sưởi ấm lòng em, làm tan biến lạnh lùng quanh em. Để em yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống với bao điều tươi đẹp, thú vị bất ngờ.

Tôi  mơ tưởng. Tôi khát khao. Tôi phác họa  một mái ấm có em hồn nhiên, yêu đời, yêu tôi. Tôi vẽ trong trí dáng em thong dong áo trắng, hài vải hoa tung tăng  bên tôi trên lối mòn đầy xác lá thu. Em nhón chân, bước sẽ. sợ lá vàng nhầu nát, đớn đau.  Và, em hát rộn  vui như tiếng chim chìa vôi hót chào buổi sáng.

Tất cả những điều đó, bây giờ ẩn kín trong kí ức tôi, để mỗi độ

Đông về lại chổi dậy , gợi buồn se sắc. Tôi chưa kịp tỏ tình, em đã bỏ đi sau ngày mẹ mất. Em nhường ngôi nhà cho cha và người đàn bà lạ. Em theo người dì đi về phía phố đông. Có người bắt gặp em ra vào ở một trường Đại học. Tôi định đi tìm em. Nhưng cuộc sống tất bật, đầy lo toan cứ lôi tuột tôi xa dần kỷ niệm ngọt ngào.

Thôi, tạm biệt em. Em hãy vui sống đời đáng sống! Ngôi nhà cũ , con dốc ngập lá vàng rơi, em và tôi hãy xem như một bức tranh xưa. Bức tranh nhen nhóm chút nhớ tiếc giữa những tháng ngày đối mặt, vượt qua thách thức cuộc đời. Em hãy về phía mùa Xuân rực rỡ em nhé!

NGUYỄN THỊ MÂY

.

Read Full Post »

.

NGUYỄN THỊ MÂY

 Ryokan Moon

Nắng đổ hối hả lên chóp tháp Hải Đăng, phủ vàng mái nhà lô xô cao thấp phía dưới chân đồi, len lỏi qua kẽ lá, làm cho buổi chiều khô cứng, hầm hập và Thư muốn phát sốt. Thư đưa chiếc máy ảnh hờ hững chụp vài cảnh vật phía xa. Thư như trôi đi trong không gian đầy ắp kỷ niệm. Ký ức tưởng ngủ yên bỗng ào ạt cuồn cuộn quay về. Như con sóng dưới kia làm chòng chành chiếc thuyền chài ai neo bên bến. Thư nhớ lắm ngày xưa. (more…)

Read Full Post »

Bâng khuâng hoa trắng

 

 

NGUYỄN THỊ MÂY

8520472848_0dd5c0e5f1

 

                   Chiều nay, không như mọi chiều. Nắng hửng vàng. Cây lá lao xao. Bà con trong xóm rộn ràng kéo nhau ra ngõ. Họ tụm năm, tụm ba bàn tán về Đạm và  chiếc xe sắp được đem ra chạy thử. (more…)

Read Full Post »

Bất ngờ phố thị

NGUYỄN THỊ MÂY

 

be1baa5t-nge1bb9d-phe1bb91-the1bb8b

Tôi vẫn vậy, thích lang thang một mình trên phố, thích đi dọc vĩa hè dưới tán những cây bàng trẻ trung, mơn mởn rồi rẽ sang đường phượng vĩ. Những ngày hè, vòm cây đỏ rực màu hoa. Thỉnh thoảng, tôi phải bước một bước dài hoặc thật ngắn để không giẫm lên một cánh hoa rơi. Tôi muốn nhặt một đóa hoa rơi nhưng không dám. (more…)

Read Full Post »