Feeds:
Bài viết
Bình luận

Posts Tagged ‘Nam Thi’

Nam Thi.

 

Đó là  một sáng cuối năm 1970 ở Sài Gòn.

(more…)

Read Full Post »

Lời cảm ơn muộn màng

NAM THI

 

Chuyên về nhà sau cuộc họp của Hội Cựu Chiến Binh Xã để chuẩn bị kỷ niệm ngày thành lập QĐND. Những cựu chiến binh thời đánh Mỹ phần nhiều đã già yếu nên lần lượt xin nghỉ và “bàn giao” công việc của Hội cho lớp cựu chiến binh chiến trường Kampuchia như anh, phần đông mới trong ngoài bốn mươi. Vào thời điểm ấy nhiều người còn làm việc, riêng anh đã ra quân, nghỉ mất sức vì là thương binh 2/4. Mảnh đạn cối còn trong hộp sọ vẫn hành anh mỗi khi trở trời.

Nhà của Chuyên nằm trên bờ sông Sài Gòn, tuy cách trụ sở xã khoảng một ki-lô mét  đường chim bay, nhưng anh phải đi xa hơn theo đường vòng trong ấp ra. Đường nhựa chỉ chạy từ liên tỉnh lộ 8 rẽ vào ấp, đến đình Hòa Phú thì bắt đầu con đường đất rải đá chạy ngoằn ngoèo theo bờ con sông Lu, một nhánh phụ, ra đến điểm hợp lưu với sông Sài Gòn. Chiếc xe cúp cánh én của Chuyên tuy cũ nhưng lại dễ lái trên con đường gồ ghề trơn trợt đó. Hai bên đường mọc đầy lau sậy và cỏ Mỹ cao ngang tầm người. Chuyên yêu con đường hoang sơ vắng vẻ ấy, bốn mùa ngát hương cỏ dại và lộng gió.

Những năm gần đây cánh đồng lúa giáp bờ sông được quy hoạch thành đất vườn trồng cây lâu năm nên người ta bắt đầu trồng cây ăn trái thay thế lúa nước. Khi anh mới từ nội thành chuyển về đây bốn năm trước, cả vùng chỉ có vài căn nhà lá, nhưng nay đã có nhiều nhà cấp ba, cấp bốn lợp ngói, lợp tole. Nhiều “đại gia” từ thành phố về mua hằng mẫu đất để làm nhà nghỉ và đầu cơ đất đai. Họ bỏ tiền kéo điện hạ thế, rải đá con đường cho ô-tô chạy được bất kể mưa nắng. Chuyên không chỉ được “ăn theo” các tiện nghi đó mà còn được thuê trông nom nhà cửa, vườn cây, ao cá cho họ.

Sau khi ra quân, anh sống với cha mẹ trong nội thành một thời gian. Anh không kiếm được việc làm phù hợp vì lúc ấy vết thương ở đầu thường xuyên hành hạ. Một đồng đội cũ của anh quê ở ấpHòa Phú nầy khuyên anh nên về sống ở nông thôn sẽ tốt cho sức khỏe của anh hơn. Thật ra, lý do chính anh bỏ thành phố vì anh không chịu được cảnh ăn không ngồi rồi, trở thánh gánh nặng cho cha mẹ, anh em. Anh cảm thấy lạc lõng, dư thừa ngay trong gia đình mình. Những năm tháng trong quân ngũ anh luôn có đồng đội, sống chết có nhau. Hơn nữa, anh là một trung đội trưởng dày dạn chiến trường, được anh em yêu thương kính nể. Lòng tự trọng thúc giục anh phải ra sống tự lập.

Người đồng đội giúp Chuyên mua lại mảnh đất trên bờ sông Sài Gòn, gia đình và đơn vị cũ giúp dựng căn nhà lợp lá dừa và những vật dụng sinh hoạt cần thiết. Thời gian đầu anh vẫn ở chính trong nội thành, nhưng dần dần anh chuyển hẳn về căn nhà “riêng” của mình để chăm sóc ao cá và hai con bò cái giống. Đó là vốn liếng ban đầu. Với tiền trợ cấp thương binh, tiền thù lao của mấy đại gia chủ đất và hoa lợi thu được, cuộc sống của anh đã ổn định. Người thân trong gia đình và bạn bè khuyên anh kiếm vợ để có người “hôm sớm lúc về già” nhưng anh chỉ lắc đầu. Không phải anh không mơ ước một mái ấm nhưng ở tuổi anh tuy chưa già nhưng đã quá lứa thì tìm đâu ra người phù hợp. Có thể cũng có ai đó có cảm tình với anh vì dẫu sao anh cũng là một người đàn ông cao ráo, lịch sự, có học nhưng thương tật của anh làm họ nản lòng. Trước khi nhập ngũ anh cũng trải qua vài mối tình học trò nhưng chuyện ấy đã lùi xa trong ký ức nhạt nhòa. Anh không những đã quen với cuộc sống độc thân, mà thậm chí còn tránh xa những tác động làm xáo trộn nó.

Lúc đầu, nhà của anh nằm thoi loi giữa đồng ruộng, sông nước. Gần đây anh mới có hàng xóm. Đó là cô giáo Minh và cậu con trai nhỏ. Minh là con gái của người nông dân đã bán đất cho anh trước đây. Nghe nói Minh thôi chồng, dắt con về sống với cha mẹ một thời gian rồi được cha cho đất cất nhà ra riêng. Anh chưa bao giờ qua thăm nhà Minh. Thản hoặc, có tình cờ gặp nhau giữa đường họ cũng chỉ chào nhau. Ấy thế mà đã có lời xì xầm ngoài Ủy ban rằng anh và Minh sắp đậu gạo nấu cơm chung. Có người còn chêm “ nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo”. Anh hơi bực mình vì sự ám chỉ anh và Minh là loại nồi méo, vung méo…

Anh về đến nhà lúc gần 5 giờ chiều. Thấy trong nồi còn cơm nguội đủ ăn bữa tối, anh cho ít nước vào cơm và cắm điện hâm nóng. Rồi anh xúc thức ăn ra ao vãi cho cá. Lũ cá rô phi háu ăn cỡi len nhau giành mồi làm mặt nước ao sủi bọt. Anh lấy vợt bắt hai con bằng bàn tay và hái thêm mớ đọt rau muống mọc quanh bờ ao. Cá rô phi chiên xù, rau muống luộc, nước luộc rau làm canh. Một bữa cơm tối không đến nỗi tệ. Tuy vậy, ăn mãi món cá cũng ngán, nên anh tính mai sẽ ra chợ mua ít thịt để đổi khẩu vị. Hơn nữa, ba ngày rồi con chó Ky bỏ ăn, có lẽ nó cũng chán món cá chan nước rau muống như anh.

Thỉnh thoảng con Ky vẫn bỏ ăn như vậy, có khi do bịnh hoặc do nó mãi bận vào trong ấp tìm bạn tình. Nhưng lần nầy nó bỏ ăn lâu quá khiến anh áy náy. Thật ra, Minh mới là chủ của Ky, nhưng từ hơn năm nay nó vẫn ăn bữa trưa với anh. Vì hai nhà chỉ cách nhau hàng rào trúc thưa nên con Ky vẫn qua lại nhà anh dễ dàng. Lần đầu thấy nó thực lòng anh không biết chó của ai nhưng khi anh huýt sáo gọi, nó chạy lại ngoắc đuôi. Sẵn có mấy cục xíu quách còn lại từ bữa nhậu hôm trước anh ném cho nó. Và hai bên làm quen và thân thiện với nhau từ đó. Sở dĩ anh biết được tên nó vì thường nghe  chủ nó gọi. Hai mẹ con Minh thường nghỉ trưa ở nhà cha mẹ trong ấp nên anh trở thành “bảo mẫu” của Ky. Buổi trưa anh thường treo võng nghỉ lưng dưới gốc xoài và Ky khoanh đuôi nằm bên cạnh. Chiều tối, nghe tiếng máy xe của mẹ con Minh nó mới chạy về với chủ.

Có lần Minh đi làm sớm quên tắt bóng điện trước nhà, Chuyên chợt nghĩ một trò vui. Anh viết một mảnh giấy nhỏ nhắc Minh nhớ tắt đèn, xếp lại cho vào túi nylon nhỏ cột vào dây đeo cổ của Ky. Sáng hôm sau, như thói quen Ky chạy sang nhà anh mang theo “thông điệp” của chủ nó: “ Cảm ơn ông láng giềng nhắc nhở. Tôi cũng biết lâu nay con Ky ăn nhờ nhà anh. Cảm ơn anh lần nữa. Minh”. Kể từ đó, mỗi khi họ cần thông tin lẫn nhau đều nhờ Ky, một giao liên hoàn toàn đáng tin cậy. Lần gần đây nhất, Minh viết cho anh: “ Mấy bữa nay trời nóng quá, chắc anh bị đau đầu nên không nghe anh mở TV xem bóng đá?. Anh ở một mình nên cẩn thận…Minh”. Quả thật, thứ bảy tuần rồi anh đau đầu như búa bổ, phải uống thuốc ngủ và lên giường từ sớm, bỏ không xem bóng đá Anh mà anh vẫn ghiền.

Chuyên chuẩn bị ăn cơm thì nghe tiếng Minh gọi anh từ bên kia hàng rào trúc. Đây là lần đầu tiên Minh trực tiếp gọi như thế nên anh đoán ắt hẳn có việc quan trọng. Anh vội chạy ra. Minh nói vọng sang:

– Anh Chuyên ơi, con Ky đau nặng, bỏ ăn mấy bữa nay. Nó nằm một chỗ, coi bộ yếu lắm. Anh qua xem thử thế nào.

– Vậy hã. Hèn chi mấy bữa nay không thấy nó qua bên tôi. Tôi qua liền.

Chuyên chạy vào nhà, mặc vội cái áo rồi vạch hàng rào qua nhà Minh. Cô dẫn anh đến chỗ Ky nằm ở nhà bếp. Nó nằm khoanh trên tấm bao bố. Anh ngồi xuống bên nó. Nó nhìn anh yếu ớt. Minh cho biết hôm qua nó nôn mửa và tiêu chảy. Anh thoáng ân hận, lẽ ra anh phải đi tìm nó sớm hơn khi không thấy nó qua nhà anh mấy hôm rồi.

Anh bảo Minh nấu cho nó ít cháo loãng xem thử nó có uống được không vì xem ra nó mất nhiều nước do tiêu chảy. Anh quay về nhà lấy xe chạy vào ấp mua thuốc thú y. Hai mươi phút sau mang thuốc về, tự tay tiêm cho Ky như anh vẫn quen chữa bịnh cho bò, heo. Anh lấy ít muối và  đường pha dung dịch mặn ngọt rồi dùng muỗng đút cho nó. Dung dịch nầy giúp giữ nước cho cơ thể, trước đây anh vẫn thấy y tá đơn vị sử dụng.

Khoảng nửa giờ sau, Ky có vẻ tươi tỉnh hơn và ăn được một ít cháo loãng. Minh đắp cho nó bằng tấm mền cũ. Chuyên thấy có thể yên tâm ra về.

– Tôi về đây. Có lẽ nó qua khỏi. Nếu nó còn yếu, mai tôi nhờ thú y chuyền nước biển cho nó.

Minh vỗ đầu con Ky.

– Xin lỗi Ky, tao vô tình quá.

Khi anh đứng dậy ra về thì Minh khẽ bảo:

– Anh ở lại ăn cơm với em cho vui. Tối nay cu Tâm ở lại trong nhà ngoại.

Anh chưa kịp nói lời từ chối thì Minh đã nắm tay anh đưa ra nhà trước, rót nước cho anh uống và bảo anh đợi cô dọn cơm…

Sáng sớm hôm sau Chuyên sang thăm con Ky. Nó vẫn còn yếu nhưng đã biết ngoắc đuôi mừng. Anh nói nhỏ với nó: “ Tao cảm ơn mày, Ky à”. Lúc ấy, Minh đang pha hai phin café ở chiếc bàn ăn nhỏ. Mùi café thơm ngào ngạt…***

* Nam Thi

12-9-2011

Read Full Post »

Sợi tóc mong manh

NAM THI

 

Con tàu gỗ tiếp tục chạy về hướng Nam, giữ khoảng cách vài kilomet dọc theo bờ biển. Trời cuối Thu âm u, nhưng biển lặng sóng. Khi tàu mới rời bến Quy Nhơn, nhiều hành khách còn ngồi trên boong nhưng đến lúc nầy hầu hết đã chui vào hầm tàu tìm chỗ nằm, nhiều người bắt đầu nôn mửa, chỉ còn lại bác tài công trong ca-bin và ba người ngồi lại ngoài buồng lái có mái che: Minh, một anh lính nhảy dù và một cô gái.

 

Tàu chạy được nửa giờ, có lẽ bắt đầu vào địa phận Phú Yên. Trên bầu trời hướng Tây, phía bờ biển hai chiếc máy bay khu trục Sky raiders đang quần đảo phía trên những cột khói đen lan tỏa vào những đám mây xám. Anh lính dù quay lại nói với bác tài công:  “Chắc đang hành quân giải tỏa đoạn gần đèo Cù Mông, đúng không?”. Bác tài công miệng phì phèo điếu thuốc, nói đùa : “ Chắc vậy. Đứt đường như cơm bữa mà, có vậy mới có khách đi tàu. Bình thường thiên hạ leo hết lên xe đời mới của Phi Mã, Phi Long, Tiến Lực, ghe tàu bọn tôi đói meo…”. Anh lính dù cười: “ Vậy là bác ủng hộ VC cắt đường ha…?”. Bác tài ném điếu thuốc xuống biển dãy nảy: “ Nói thế chết tui…”. Cả ba người đàn ông cùng cười và giới thiệu tên với nhau. Thuấn, tên anh lính dù, châm một điếu Bastos xanh bằng chiếc hộp quẹt Zippo, nối một điếu khác cho bác tài và quay sang Minh: “ Cậu hút thuốc chứ?” Thấy Minh cười, anh gõ gõ bao thuốc, lấy ra một điếu trao cho Minh cùng chiếc hộp quẹt: “ Thuốc Bastos nặng đấy, …”. Minh rít một hơi dài  để chứng tỏ mình biết hút, rồi gợi chuyện: “ Tôi là dân miền trên mà. Từ nhỏ đi chăn bò đã phì phèo điếu thuốc to bằng ngón tay cái, quấn bằng lá thuốc núi, hút không quen say mửa tới mật xanh. Bastos ăn thua gì, anh”. “ Vậy cậu quê ở Bình Khê, hay An Túc?”. “Dạ, Bình Khê”. “ Tôi ở Tuy Phước, dân biển. Cậu đi Nha Trang chơi à?”. “ Dạ không. Tôi chỉ ghé Nha Trang thăm ông anh đóng quân ở đó, vài hôm sẽ đi Sài Gòn…”. “ Học ở Sài Gòn à? Sinh viên trường nào?”.  “Dạ, tôi học Văn Khoa, …”. “ Tôi cũng nghĩ vậy. Trông dáng của cậu là biết ngay. Ông sinh viên văn khoa nào cũng có dáng triết gia hay nghệ sỹ…”. Minh hơi ngạc nhiên vì sự rành rọt giới sinh viên của anh lính dù. “ Vậy, chắc trước đây anh cũng học trong đó…?”. Thuấn ném mẫu thuốc xuống biển, khẽ khàng: “ Ừ. Tôi học Khoa học, không qua nổi chứng chỉ Toán Đại cương, nên đi lính. Một năm làm sinh viên cũng vui. Có lẽ đó là khoảng thời gian đáng nhớ nhất, tuy chưa hẳn là đẹp nhất vì gặm bánh my mòn răng… ha ha”. Anh lính dù ngã lưng vào thành ca-bin như muốn cắt đứt cuộc đàm thoại. Minh cũng nghĩ không nên đào sâu thêm chuyện riêng tư của người mới gặp tình cờ.

 

Cô gái mãi nhìn về phía khơi xa đang dần tím sẫm, dường như không để ý đến câu chuyện của hai người đàn ông. Minh chỉ nhìn được nửa khuôn mặt cô. Sống mũi thẳng, mắt có đuôi và lông mày xanh dài hao hao giống Tâm nhưng cô có vẻ gầy hơn Tâm. Cô lgợi cho Minh nhớ đến Tâm, người yêu của anh. Anh đang mỗi lúc mỗi xa Tâm hơn, chẳng biết có còn gặp lại nhau không. Giờ nầy chắc Tâm đang giúp mẹ nấu cơm chiều trong căn bếp nhỏ lợp tôn. Căn nhà đơn sơ trên bãi biển Khu 2, xóm dân chài và dân tản cư từ khắp vùng nông thôn trong tỉnh đổ về. Mẹ của Tâm nấu cơm tháng cho học sinh các trường trung học và giáo sinh của trường sư phạm Quy Nhơn nơi Tâm theo học năm thứ hai. Anh đã từng ăn cơm tháng ở đó cho đến khi vào Sài gòn. Minh và Tâm yêu nhau và mẹ Tâm xem anh như con rể tương lai. Cho đến lúc nầy, chắc bà vẫn tin rằng sau khi Minh tốt nghiệp và Tâm ra trường họ sẽ cưới nhau.

 

Anh lấy ve dầu Nhị Thiên Đường mà Tâm mua cho. Anh không thích mùi dầu nhưng vẫn thấm vào đầu ngón trỏ thoa lên mũi. Mùi dầu xua đi mùi tanh tanh của con tàu làm anh dễ chịu. Ít ra cũng còn chút gì đó của Tâm theo anh. Anh chợt có ý nghĩ mình sẽ giữ chai dầu ngay cả khi không còn dầu. Và biết đâu ngày nào đó gặp lại nhau anh sẽ cho Tâm xem chai dầu đó…

 

Cô gái bỗng quay lại, nói với Minh: “ Anh cho em xin chút dầu nhé. Em quên không mang theo. Em vốn ghiền dầu, do vội vàng em quên mất”. Minh đưa ngay chai dầu cho cô ta, ân cần: “ Mời cô. Sao cô không xuống dưới kia nằm cho yên, trên nầy mưa gió và dễ say sóng…”. Cô gái vừa xoa dầu vừa đáp:  “ Em không sợ say sóng mà sợ ngợp. Ở dưới kia nhiều người nằm như cá hộp, nôn mửa tùm lum. Anh đừng lo, em dạy học ở ngoài Cù lao Xanh, đi tàu thuyền như cơm bữa nên quen rồi…Sợ anh Minh là dân thư sinh chịu sóng gió không quen thôi. Em tên Xuân. Em vào Nha Trang thăm ông anh nằm ở quân y viện”. Té ra, nãy giờ Xuân đã theo dõi câu chuyện giữa hai người đàn ông. Là cô giáo ngoài đảo xa, Xuân hẳn đã trải đời và bạo dạn hơn Tâm của anh. Anh Lính chen vào: “ Tôi quên tự giới thiệu với cô em, tôi là Thuấn, còn ông sinh viên hào hoa nầy là Minh. Tôi đề nghị thế nầy: nếu vào đến Nha Trang ai nôn mửa sẽ đãi người khỏe một chầu ăn sáng. Đồng ý không quý vị?” Xuân nhanh nhẩu: “ Em nghe lén tên của hai anh rồi.Em đồng ý hai tay. Chỉ sợ anh Minh thư sinh thôi. Còn anh Thuấn là thiên thần mũ đỏ, đi tàu bay không say, chưa biết đi biển thế nào. Em chắc thắng một trăm phần trăm.” . Minh hơi chột dạ vì đây là lần đầu tiên anh đi biển nhưng không còn đường rút lui, nên phải nói cứng:  “OK. Ông vua cũng thua thằng liều mạng. Chơi luôn”. Thuấn tiếu lâm:   “Biết trước có chuyến đi nầy, tôi đã xin qua Thủy Quân Lục Chiến. Tôi vốn dân biển mà…”. Cả ba ngoéo tay nhau, cười rôm rả, khiến bác lái tàu cũng cười theo và xin làm trọng tài.

 

Càng về chiều gió càng mạnh và mưa nặng hạt dần. Thuấn và Minh bảo Xuân đổi chỗ vào ngồi giữa họ để tránh gió. Thuấn lấy từ trong ba lô con cóc ra một tấm poncho che mưa tạt vào chỗ họ ngồi. Anh cởi áo jacket khoác cho Xuân. Lúc ấy Minh mới nhận ra hai cặp hoa mai đen thêu trên cổ áo rằn ri của anh. Xuân bảo: “ Em cảm ơn anh. Trung úy Thuấn, vậy mà nãy giờ anh giấu…”. Minh chen vào: “ Tại cô Xuân không để ý anh Thuấn đã từng học đại học, nên đi lính là sỹ quan chắc rồi. Hẳn anh từ Trường Võ Bị Đà Lạt, phải không anh Thuấn?”. Thuấn cười: “ Đúng rồi. Tôi tưởng vào Võ Bị học xong mấy năm là hòa bình, ai dè đến nay vẫn đánh nhau ỳ xèo, chưa biết bao giờ mới dứt.  Ra trường người ta điều động về binh chủng Dù… Cũng thế thôi.”. Lúc gần tối, có hai chiếc ca-nô tuần duyên của hải quân chận tàu của họ kiểm tra., một chiếc cập mạn, còn chiếc còn lại cảnh giới từ xa một trăm mét. Dường như lính hải quân quen mặt chiếc tàu chợ nầy nên họ chỉ kiểm soát qua loa. Mấy chú lính hải quân trẻ măn đưa tay chào Thuấn thật nghiêm chỉnh. Thuấn chào lại. Minh có cảm giác Thuấn trở thành một người khác, lạnh như thép.

 

Đêm xuống. Biển đen như mực. Sóng vỗ mũi tàu ánh lên màu lân tinh.  Chỉ còn chút ánh sáng vàng vọt của bóng đèn điện nhỏ xíu từ ca-bin rọi ra và đóm lửa từ đầu điếu thuốc của Thuấn. Tiếng máy tàu đều đều, lẻ loi giữa rào rào sóng biển vỗ mạn tàu. Trên con tàu nhỏ bé nầy, mấy chục mạng người nằm bên nhau, giao sinh mệnh cho người lái tàu. Ở đây, họ có lẽ bình yên hơn những người trong đất liền cách họ vài cây số đang sống dưới làn bom, hòn đạn. Sóng biển dữ dằn nhưng không thù oán ai. Nếu tàu đắm, nhiều người có thể chết đuối nhưng không ai chết vì hận thù.

 

Xuân có vẻ mỏi, cô duỗi người nằm trên sàn gỗ. Minh trải chiếc khăn tắm trên túi xách của mình cho cô gối đầu. Ba người đắp chung tấm poncho của Thuấn, không những che mưa mà còn góp hơi ấm cho nhau trong suốt cuộc hải hành.

 

Gần sáng, tàu cập bến gần cầu Hà Ra. Ba người không ai bị nôn mửa. Thuấn chúc mừng chiến thắng chung của họ và làm bộ dõng dạt theo phong cách nhà binh: “ Ba anh em mình không ai thua cuộc. Tôi đề nghị thế nầy: Tôi, trung úy Nguyễn Văn Thuấn, số quân 65/24367, sỹ quan thuộc tiểu đoàn 9 Lữ đoàn dù, là người lớn tuổi nhất, nên quyết định tôi sẽ bao hai bạn Xuân và Minh một chầu ăn sáng. Đây là mệnh lệnh. Rõ chưa”. Xuân và Minh bụm miệng cười, cũng làm bộ đứng nghiêm, nói : “Rõ, xin tuân lệnh”. Bác tài công vỗ tay cười tán thưởng nhưng xin lỗi không đi theo họ được vì bận bốc hàng lên tàu cho kịpchuyến trở về Quy Nhơn ngay sau đó.

 

Trước khi chia tay, họ trao địa chỉ cho nhau.

 

Minh đi dạo dọc bờ biển Nha Trang. Biển động, sóng to, bãi biển vắng người. Anh thầm hát một khúc nhạc xưa:” Chiều này mưa thu Nha Trang im vắng, không bóng người qua…” mà anh đã được nghe nhiều năm về trước. Thành phố biển thật thanh bình, dường như chiến tranh không hề xảy ra ở đây.

 

Vài ngày nữa anh sẽ về Sài Gòn, chiến trường của anh. Ở đó, tuy không bom đạn, cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng ác liệt. Khi ngồi trên bờ cát, anh nhớ lại chuyến đi biển đêm qua, nhớ đến Xuân và Thuấn. Dường như không có chiến tuyến nào ngăn cách họ và anh. Mặc dầu anh biết, nếu gặp nhau trên chiến trường, có thể anh và Thuấn phải bắn nhau. Biết bao giờ được gặp lại họ, tay bắt mặt mừng, nhắc lại những kỷ niệm trên biển đêm qua.

 

Anh nhớ đến bức thư Tâm trao cho anh khi chia tay mà anh chưa kịp đọc. Anh mở ví lấy bao bì màu xanh có lá thư bằng giấy pelure với nét chữ quen thuộc của Tâm. Khi mở lá thư, dường như có vật gì đó rất nhỏ rơi ra, nhỏ đến nỗi anh không kịp nhìn. Trong thư Tâm viết:

 

 Anh yêu dấu.

 

Anh về quê lần nầy là để nói lời chia tay với em. Vì thương em anh không muốn em khổ vì anh. Em cảm ơn anh đã nói cho em biết việc anh đang làm. Đối với em, lúc nào anh cũng là người em yêu. Anh cứ làm những gì anh cho là đúng. Em luôn ủng hộ anh.

 

Em không hứa là em sẽ chờ anh, nhưng đến ngày hòa bình, nếu anh còn sống, hãy về với em. Cầu mong anh được khỏe mạnh và bình yên.

 

Tâm.

 

Tái bút: Em gửi kèm một sợi tóc của em để anh giữ làm kỷ niệm vì em biết anh vẫn thích mái tóc của em. Đó là một trong những sợi tóc rụng khi em chải đầu, chứ không phải em nhổ đâu nhé. Đừng rầy oan em nhe.

 

Đọc xong bức thư, anh mới vỡ lẽ vật nhỏ rơi ra từ lá thư vừa rồi là sợi tóc của Tâm. Làm sao anh có thể tìm lại một sợi tóc mong manh đã bay theo gió biển đang thổi lồng lộng thế kia. Cũng may, vẫn còn chai dầu Nhị Thiên Đường *

 

* Nam Thi

(26-8-2011)

 

Read Full Post »

Nàng Apsara Đang Yêu

NAM THI

Đêm hôm ấy…

Hắn thức dậy lúc 2 giờ 15 sáng sau giấc mơ kỳ diệu . Điện cúp lúc hắn đang ngủ nên máy lạnh của khách sạn ngưng hoạt động tự khi nào. Căn phòng tối nhờ nhờ. Mồ hôi vã ra, ướt nhèm nhẹp chiếc áo thun, khiến hắn có cảm giác lưng hắn bị dán chặt trên nệm. Hắn uể oải ngồi dậy, mò mẫm vào toilet rửa ráy rồi tìm quẹt ga bật lửa châm điếu thuốc. Hắn mở cửa phòng ra hành lang. Trăng mười tám bàng bạc. Gió mát từ biển làm hắn tỉnh hẳn, mặc dầu đầu vẫn lâng lâng vì dư vị của giấc mơ và nằng nặng vì trận nhậu đầu hôm. Hút hết điếu thuốc hắn cảm thấy tỉnh táo hơn và quyết định đi xuống bãi biển.

Người bảo vệ nhắc hắn không nên dạo chơi xa khách sạn vì đã khuya rồi. Hắn mời anh ta một điếu thuốc rồi theo lối đi nhỏ xuyên qua đám dương liễu cổ thụ ra bãi biển. Biển êm, chập chờn vô số đèn câu tít tắp ngoài khơi xa. Bãi biển không một bóng người. Hắn đi dọc mép nước về hướng Nam, nơi có những tảng đá lớn nối biển với núi  Đá Chồng. Hắn ngồi xuống chính tảng đá mà hắn đã ngồi với nàng. Hắn cũng nhận ra vạt cát trắng khô ráo sau tảng đá mà hắn và nàng đã trải qua những phút giây hoan lạc. Nước thủy triều đã xóa mọi dấu vết, hắn nghĩ vậy khi nhận ra mặt cát phẳng lỳ, trơ trụi.

Rõ ràng, nàng đã đứng trên tảng đá kia, lồng lộng . Gió cuốn tấm voan mỏng nàng khoát hờ trên vai, thấp thoáng dưới ánh trăng tấm thân nõn nà, căng tròn. Những ngón tay cong vút mềm mại như ngọn cỏ trước gió Xuân, xòe ra như đóa sen nở đầu Hạ. Nhịp chân lả lướt như sóng gợn lăn tăn…Bỗng nàng bay vút lên về hướng vầng trăng và biến mất sau đỉnh Hòn Chồng.

“ Cũng chỉ là một giấc mơ…”. Hắn tự bảo mình và quay về khách sạn. Nhưng kể từ ấy, Apsara, nàng tiên trong giấc mơ, luôn ám ảnh hắn.

 

Hắn ước áo được gặp lại nàng…

Hắn, 29 tuổi, khỏe mạnh, khá đẹp trai và lịch lãm – lợi thế giúp hắn được nhiều cô gái để ý. Tuy vậy, hắn thường bị bạn gái chia tay bất ngờ khiến có người đồn đoán rằng hắn thuộc loại “tốt mã rã đám”. Bị bạn bè trêu chọc, hắn chỉ cười nửa đùa nửa thật: “ em nào nghi ngờ cái sự đàn ông của tớ, cứ thử thì biết liền…”. Làm sao biết được có cô nào đã “thử” hắn chưa .

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Anh văn, hắn lêu bêu thất nghiệp mấy năm vì ngoại ngữ là phương tiện giao tiếp chứ không phải nghề nghiệp chuyên môn. Hắn nhận ra điều đó và quyết định “tái đào tạo” mình bằng cách học một khóa sáu tháng và trở thành hướng dẫn viên du lịch. Hắn xin được việc ở công ty lữ hành Happy Dragon Travel, Ltd. Suốt hai năm hắn là tour guide hàng trăm đoàn du khách nước ngoài thuộc mọi quốc tịch. Hắn đã chọn đúng nghề.

Do nhu cầu công việc, hắn nghiên cứu văn hóa, tín ngưỡng Chăm để thuyết trình cho du khách tham quan các đền tháp dọc duyên hải miền Trung. Mở rộng hơn, hắn tìm hiểu đôi điều về Ấn giáo. Apsara  là nữ thần gần gũi hình ảnh con người nhất với nụ cười chúm chím trên đôi môi mọng, bộ ngực căng tròn, những ngón tay biết nói, đôi chân thon dài mời mọc. Apsara là nữ thần tình ái với tài ca múa tuyệt vời . Hắn say mê Apsara là vì thế.

Hắn hy vọng trong số những cô gái mà hắn gặp trong đời thường, có ai đó mang bóng dáng Apsara. Nhiều cô có ngoại hình Apsara nhưng hầu hết họ không biết múa hát, thậm chí không có chút máu “văn nghệ”. Một vài cô giỏi ca múa, ngoại hình đẹp nhưng hắn lại thất vọng vì bên trong trống rỗng, vô duyên. Đó là nguyên nhân hắn chủ động chia tay với nhiều cô gái chứ không phải hắn bị bỏ rơi như những kẻ xấu miệng đồn đoán.

Rồi một hôm…

Mọi người ngạc nhiên nhận được thiệp hồng của hắn. Vợ sắp cưới của hắn là cô sinh viên thực tập mà hắn hướng dẫn làm luận văn tốt nghiệp một năm trước. Với mọi người, đó là một cô gái bình thường không hát hay, múa giỏi, không có ngoại hình khiêu gợi nhưng là Apsara mà hắn  tìm kiếm bấy lâu.

Hắn chọn cô gái ấy làm vợ bởi vì trước khi chia tay hắn trong giấc mơ đêm nào, Apsara đã thủ thỉ : “ Em cảm tấm lòng ái mộ của chàng nên liều đến với chàng lần này và cũng là lần cuối. Tuy chỉ một lần gần chàng nhưng em rất toại nguyện: một lần hạnh phúc còn hơn bị lãng quên nghìn năm. Vì em là nô lệ của thần Indra, nên nếu chuyện nầy lộ ra em sẽ bị trừng phạt, mặc dầu thần có vô số apsara như em. Tuy em không được gần chàng mãi mãi nhưng em sẽ hóa thân vào một người đàn bà thực lòng yêu chàng. Sau nầy, trên thế gian chỉ còn tượng đá Apsara vô tri vô giác, sẽ mai một cùng  với các đền đài hoang phế…”*

* Nam Thi

(06-8-2011)

Read Full Post »

Tảng đá mồ côi

Nam Thi.

 

Bà giáo Hương nghỉ chân ở tảng đá quen thuộc sau ba mươi phút đi bộ dọc theo bờ kè mới xây ở bờ Bắc sông Côn từ cây cầu mới đến đầu làng. Bao năm nay, mỗi hoàng hôn bà vẫn đi theo lộ trình đó và vẫn ngồi trên tảng đá đó, trừ những ngày mưa to gió lớn. Tảng đá màu trắng đục ngã vàng hẳn là rất lớn vì chỉ phần nổi trên mặt đất khá bằng phẳng đã rộng hơn chiếc chiếu đôi, nên được gọi là hòn đá bàn. Một tảng đá lẻ loi, nằm một mình nên gọi là đá mồ côi. Và cái thôn nhỏ của bà, vì vậy, cũng gọi là Thôn Đá Bàn.

(more…)

Read Full Post »

Tấm ảnh cuối cùng của mẹ.

Nam Thi


Ngày giỗ cha
Chúng con về lại nhà xưa
Mang theo tấm ảnh cuối cùng của mẹ
Chụp một năm trước ngày mẹ qua đời.

Mẹ ngồi trước hàng tử kinh
Màu hoa tim tím lung linh
Giỗ cha đầu mùa Hạ
Hoa tử kinh năm nào cũng nở.

Trong tấm ảnh đã phai mờ
Bàn tay mẹ gầy guột, buông xuôi
Bọn trẻ chúng con đứng vây quanh người,
Đâu biết được
Năm sau mẹ qua đời
Bệnh lao thời kỳ cuối
Chỉ có mẹ biết thôi.
Di ảnh của mẹ
Thay lời trăn trối.

Mẹ ra đi giữa những ngày lửa khói
Chúng con bữa no, bữa đói.
Tháng Bảy đồng khô cỏ cháy
Bồ không còn hạt thóc
Khoai lang, khoai mỳ thay cơm
Con ghẻ lở, hắc lào, đầu cạo trọc…
Trước khi ra đi…mẹ khóc.

Hòa bình thoáng qua,
Lại những năm tháng chiến chinh
Đạn nổ quanh nhà,
Lô xô áo lính
Thân chị một mình trong căn nhà cuối xóm
Tuổi xuân qua đi bao giờ không hay
Con ở chiến trường xa không hẹn ngày trở lại…

Ngày giỗ lần thứ sáu mươi của cha
Con cũng sáu chục tuổi rồi.
Chúng con nay đầu đều bạc
Bạc hơn tóc mẹ ngày xưa.

Con đứng trước sân nhà
Chính nơi ngày xưa mẹ con mình chụp ảnh
Đầu mùa Hạ
Hoa tử kinh nở rộ đầy cành.
Vẫn màu tim tím ấy lung linh.

Tây Sơn, 31-7-2007

Read Full Post »

Thơ Nam Thi

G I Ấ C   N G Ủ  

                                   

Ta rơi xuống vực sâu

Bóng tối đắp đầy nấm mộ

Giấc ngủ triền miên của đất

Triệu triệu năm sau

Bùi ngùi tỉnh giấc.

 

Ai đào xới nấm mồ

Tìm lại những giấc mơ

Với mối tình hóa thạch.

Triệu triệu năm sau

Bao dung lòng đất

 

L U Â N   H Ồ I                                  

 

Trong bất tận luân hồi

Có bao lần hóa kiếp:

Con giun, con dế, con người,…

Có còn được gặp?

 

Trong vô cùng vũ trụ

Những hạt bụi vô danh

Tình cờ, rất tình cờ

Hóa thân em và anh.

Read Full Post »

« Newer Posts