Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘Chuyện lạ’ Category

Nói đến chữ quốc ngữ, hầu như ai cũng biết công lao của giáo sĩ Alexandre de Rhodes. Tuy nhiên, ông chỉ là người thừa hưởng, hệ thống lại và phát triển thêm từ sự khai mở của các giáo sĩ đi trước, những người vốn được Khám lý Cống Quận công Trần Đức Hòa che chở.

Vào thế kỷ thứ 16, đạo Kitô thâm nhập vào Nhật Bản bởi một số nhà truyền giáo Dòng Tên từ Ma Cao đến. Đầu thế kỷ 17, Nhật ban lệnh cấm đạo và trục xuất các nhà truyền giáo. Trong số các giáo sĩ bị trục xuất từ Nhật Bản, có 4 vị thừa sai là hai linh mục Bồ Đào Nha Francesco Buzomi và Diego Carvalho cùng hai trợ sĩ người Nhật là Jose và Paolo được lệnh của của Nhà Dòng, thay vì trở về Ma Cao thì chuyển hướng xuống Hội An của xứ Đàng Trong.


Hậu duệ của Cống Quận công Trần Đức Hòa bên tấm biển ghi công trạng của vị đại quan – Ảnh: Hà Đình Nguyên

Ngày 18.1.1615, họ cập bến Hải Phố (Hội An). Lúc này ở Hội An, cộng đồng Nhật kiều theo Thiên Chúa giáo đã hình thành và các giáo sĩ này đã dùng tiếng Nhật để chăm sóc họ. Năm 1617, nhóm giáo sĩ ở Hội An được tăng cường thêm linh mục Francesco de Pina và một tu sĩ, tiếp đó lại có thêm các linh mục Cristofono Borri và Pedro Marquez – chứng tỏ, việc truyền giáo ở Hội An có những kết quả khả quan. Chẳng may ít lâu sau, Đàng Trong bị thiên tai hạn hán, dư luận cho rằng do trời đất trừng trị vì có người bỏ thờ cúng tổ tiên, ông bà mà theo đạo mới. Họ quy trách nhiệm cho các thừa sai và giáo dân. Đầu năm 1618, các giáo sĩ lại bị trục xuất khỏi nước Việt. Linh mục Marquez và một tu sĩ được các giáo dân Nhật kiều giúp che chở, trốn tránh ở Hội An. Còn các linh mục Pina, Buzomi, Borri và hai thầy dòng khác thì được quan Khám lý Cống Quận công Trần Đức Hòa, khi đó đang là Trấn thủ Quy Nhơn, ra tận Hội An đón về Quy Nhơn.

Trong cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621, linh mục Borri đã ghi chép khá đầy đủ quan Khám lý Trần Đức Hòa đã đối xử rất “biệt nhãn” với các giáo sĩ phương Tây, ông ghi: “Các cha Francesco Buzomi, Francesco de Pina và tôi rời Hải Phố đi Pulucambi với quan trấn tỉnh này. Suốt hành trình, quan trấn đối với chúng tôi hết sức lịch sự và nhã nhặn. Ông cho chúng tôi ở cùng đoàn, dành riêng cho chúng tôi và người thông dịch một chiếc thuyền, hành lý chúng tôi để ở một thuyền khác, chứ không ngổn ngang bên chúng tôi. Suốt mười hai ngày, đi trong những điều kiện thoải mái như thế, sớm chiều ghé vào các cửa khẩu hoặc phố xá tỉnh Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi – NV), nơi mà quan trấn có quyền như ở Quy Nhơn… Chúng tôi giãi bày mong muốn ở thị trấn để dễ truyền đạo hơn là ở trong dinh nằm giữa cánh đồng, xa thị trấn tới ba dặm. Vì thương mến, quan trấn không muốn xa chúng tôi, nhưng hy sinh quyền lợi cho dân chúng và gạt lòng yêu thích qua một bên. Quan truyền xây cho chúng tôi một ngôi nhà thờ tiện nghi trong thị trấn Nuocman…”.

“Nuocman” ở đây chính là Nước Mặn – một phố thị cảng sông nằm bên đầm Thị Nại của phủ Quy Nhơn (thế kỷ thứ 17-18). Nơi đây thuyền buôn phương Tây và các nước Đông Nam Á thường xuyên ra vào buôn bán. Cảng thị Nước Mặn xưa kia nay là các thôn: An Hòa, Lương Quang (xã Phước Quang) và thôn Kim Xuyên (xã Phước Hòa) huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Các vị thừa sai Dòng Tên sang truyền giáo ở Đàng Trong từ năm 1615 chủ yếu tập trung ở ba điểm: Cửa Hàn (Đà Nẵng), Hội An – Thanh Chiêm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Bình Định) nhưng ở Nước Mặn là trụ sở chính, có cha bề trên Buzomi. Cũng ở đây, linh mục Francesco de Pina mới có điều kiện học tiếng Việt để thành lập thí điểm truyền giáo tiên khởi (cha Pina là thầy dạy tiếng Việt cho Alexandre de Rhodes sau này). Sau đó, linh mục Pina và các linh mục Buzomi, Borri khởi sự nghiên cứu, phân tích và phiên âm tiếng Việt đều ở Nước Mặn.

Ngay trong Lời giới thiệu tác phẩm Xứ Đàng Trong năm 1621 của linh mục C.Borri, hai dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị có nhắc đến chi tiết ông đã cố gắng học tiếng Việt, tuy không thạo lắm, nhưng ông cũng hiểu biết đủ để giảng giáo lý Kitô. “Có một vài câu chữ quốc ngữ trong bản tường thuật của ông cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một khởi đầu hình thành thứ chữ này. Cái đặc biệt ở nơi ông, cái làm cho khác với de Rhodes sau này, đó là ông đã phiên âm tiếng Việt theo chữ viết của người Ý, chứ không phải người Bồ. Rõ ràng ông phiên âm và viết gn chứ không nh như nho (trái nho) ông viết là gnoo, nhỏ (trẻ nhỏ) ông viết là gno. Cũng vậy xin ông viết scin, bởi vì theo tiếng Ý nếu viết cin thì đọc uốn lưỡi còn nếu viết sc thì đọc cũng như x”.

Do đó, có thể coi Nước Mặn là nơi phát tích cho buổi đầu phôi thai chữ quốc ngữ. Vì thế, sự bao che của Khám lý Cống Quận công Trần Đức Hòa (nếu không thì các giáo sĩ đã bị trục xuất khỏi Việt Nam) cũng có ý nghĩa nhất định với sự hình thành chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu.

Hà Đình Nguyên

Read Full Post »

Sài Gòn một ngày gần đây, nắng bỗng vàng hơn khi khắp đường phố xuất hiện những mẹt thị bày bán ngay bên vỉa hè; tập trung nhiều trên đường Điện Biên Phủ và thi thoảng đâu đó trên những con phố quen lại thấy người ta chở thị từng giỏ bằng xe honda đi bán dạo. Có mấy giọng đùa nghịch còn đuổi theo tíu tít: “Đừng chê em xấu em già/Em đi bán thị nhà nhà đều… hôn!”.

Mà nào rẻ đâu, có người bán 40K/ký nhưng cũng có vài mẹt thách giá tới 80K/ký. Dân Sài Gòn ngộ lắm, người háo hức thì mua cả ký về ăn, ăn rồi lập tức chê thị nhạt thị kém duyên, người điềm tĩnh hơn thì chỉ mua vài quả về để trong nhà hay để trên bàn làm việc.

“Thị rụng bị bà, bà hôn bà hít chứ bà không ăn”.

Cái quả của cô Tấm vốn là thế! Ngoài câu chuyện cổ tích quen thuộc kia, xung quanh thị còn có nhiều chuyện. Ở các vùng quê, những người nấu rượu gạo rất kị mùi thị, nếu để quả thị trong nhà thì cả mẻ rượu sẽ bị hỏng hết. Không ai có thể chỉ ra được bất cứ mối liên hệ nào liên quan giữa mùi thị và việc cất rượu; cũng như vài chuyện khác…

 

Hình ảnh Tấm bước ra – chui vào từ quả thị giúp đỡ bà lão nghèo khó luôn là chi tiết hấp dẫn nhiều người đến tận bây giờ.

Và, cái sự “chui vào” đó đã được giới nghệ sĩ … phát triển thành một hình ảnh mang tính kiêng kị: đi ký hợp đồng không được mang theo quả thị, đi diễn đi quay đi hát…tức là tất tần tật các thứ có dính dáng đến công việc.

Đạo diễn Xuân Phước bảo rằng, quả thị sẽ “hút” hết công sức và những gì mình đang làm vào trong đó và chỉ còn chừa lại những chuyện xui xẻo.

Đã cận rằm tháng 8 mà Sài Gòn lại mưa suốt. Giữa tuần, bắt đầu các sân khấu chộn rộn đi phát thiệp mời ăn… giỗ.

Giỗ tổ sân khấu, mà Sài Gòn bây giờ mọc ra nhiều sân khấu quá, rồi sân khấu làm ăn nên ra lại mở thêm chi nhánh: Nhà hát kịch TP.HCM, Idecaf, rồi 5B, Hoàng Thái Thanh, Phú Nhuận của Hồng Vân nè, Nụ cười mới đóng tên Hoài Linh, Nhà hát Trần Hữu Trang, rồi cả mấy đoàn hát bội nữa…

Giới sân khấu năm nay làm giỗ lớn, các sân khấu cũng tăng xuất, tăng điểm diễn đều đều. Tiệc tùng ì xèo suốt hai ngày 11, 12/08, người nào cũng phải chạy show …ăn. Nghe một danh hài buột miệng than: “Sao tui diễn không thấy mệt mà đi…ăn mệt quá trời!”, là vậy đó.

Coi bộ giới này đang được Tổ…đãi, mà muốn Tổ đãi hem có dễ đâu. Người nào cũng kiêng kỵ đủ thứ, rồi còn phải lo…o bế Tổ nữa.

 

Cúng heo

Sẽ thấy trên mâm cúng chung ở các sân khấu, nhiều nhất là heo quay. Con nào con nấy bóng nhẫy mỡ xếp hàng lớp lớp từ trong ra ngoài. Mang heo tới cúng tức là người đi trả lễ, đã từng khấn nguyện và được phù hộ gặt hái nhiều thành công trong suốt năm qua.

Người tài lộc ít thì cúng gà, cúng bánh bao, bánh chưng, bánh giò… tùy theo hầu, nhưng tuyệt đối không ai cúng vịt. Giới sân khấu xếp con vịt vào đội ngũ “cạp cạp” chỉ biết nói dối, bày chuyện đơm đặt và ưa đố kị đồng nghiệp.

Heo cúng phải kỹ lưỡng, không quấy quá được: bộ đồ lòng phải đầy đủ và xếp gọn gàng vào bên trong con heo để thể hiện… lòng thành của mình. Khi cúng xong, mang xuống chặt xẻ ra cũng phải đúng lễ nghĩa nha, người ta lật con heo quay lên và bắt đầu rạch bộ lòng ra trước, ý như kiểu con thật lòng phơi bày gan ruột vậy đóa.

Ngoài heo quay ra, thì trái cây rất nhiều nhưng có mấy thứ không được bỏ lên bàn thờ tổ nè: Quít được nhưng cam thì không – cam chịu, trái thơm nhiều mắc lại xù xì nhiều gai góc quá – khó, khổ: không luôn, Mãng cầu xiêm cũng thế, quả thị lại càng tối kị.

Nhưng ngược lại chuyện kiêng kị với quả thị trên kia, dân sân khấu không dám cúng quả thị vì sợ mùi thị thơm tho làm.. ông Tổ mất tập trung lờ lớ lơ luôn xấp nhỏ. Một thứ không thể thiếu trên bàn thờ tổ nữa là đường miếng, cúng đường thì Tổ mới đãi cho giọng hát… ngọt ngào…

Theo học giả Đinh Bằng Phi, có thể xem lễ giỗ tổ này xuất phát từ hát bội. Mà mấy trăm năm mở cõi vào Nam, khởi từ các chúa Nguyễn, ngành sân khấu với hát bội ban đầu và cải lương sau này, gần như là phương tiện giải trí độc tôn của cả vùng đất phía Nam, nên ngày lễ giỗ tổ và chuyện ông tổ sân khấu được người dân quan tâm khá nhiều.

Những từ ngữ như tổ trác, tổ đãi… của giới sân khấu đã trở thành từ cửa miệng để người dân chỉ sự may mắn hay xui rủi trong nghề nghiệp.

Tuy nhiên, cho đến nay chẳng ai biết ông tổ sân khấu là ai và lễ giỗ tổ xuất phát chính xác từ đâu. Chỉ biết rằng từ khi những nghệ sĩ lão thành NSND Thành Tôn, Năm Châu, Phùng Há… còn nhỏ xíu thì đã thấy có lễ giỗ tổ rồi. Các học giả như Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Đinh Bằng Phi… đã có nhiều nghiên cứu về ông tổ sân khấu và đưa ra nhiều yếu tố lịch sử, giai thoại, truyền thuyết… nhưng không chuyện nào giống chuyện nào.

Nhiều truyền thuyết cho rằng ông thợ may, thợ rèn, thợ mộc, bà bán quán, một đứa bé, cả thần bạch mi của giới bán phấn buôn hương… là tổ sân khấu. Song phổ biến nhất là câu chuyện: Tổ sân khấu là ba người gồm ông vua, ông ăn cướp và ông ăn mày. Truyền thuyết này ảnh hưởng mạnh đến mức cho tới tận nay, giới nghệ sĩ rất kiêng cho tiền người ăn xin.

Ông Tần Nguyên, ký giả kịch trường trước 1975, kể: Nghệ sĩ Thành Được lúc nào cũng bảnh bao, tay đeo nhẫn hột xoàn nhưng ông không bao giờ cho tiền người ăn xin, chỉ bảo họ muốn ăn uống gì thì kêu đi rồi ông trả tiền.

Theo nghệ sĩ Kim Cương, cha bà (chủ gánh hát bội Phước Cương) còn trai trẻ, đi hát bằng ghe, ở những vùng xa, ăn cướp đi thành bang bằng ghe lớn nhưng không bao giờ đánh cướp ghe hát. Ghe của cha bà mỗi khi gặp cướp chỉ cần đánh trống thùng thùng thật lớn, họ biết là ghe hát là yên chuyện.

Truyền kỳ về hai vị hoàng tử mê hát, bị vua cha đang truy tìm, trốn trong hậu trường gánh hát rồi chết cháy mà hiển linh thành tổ sân khấu cũng phổ biến nên bàn thờ tổ luôn được đặt trong hậu trường.

Hay truyền thuyết ông tổ sân khấu là một vị hoàng tử mê sân khấu, trốn vua cha vào trong bộng cây vông để theo gánh hát rồi chết trong bộng cây vông cũng được biết rộng rãi nên giới nghệ sĩ kỵ mang guốc vông và tượng tổ luôn làm bằng gỗ cây vông.

Về tượng tổ sân khấu, đây là hình một nam nhân đen thui, mặc áo đỏ, quấn khăn đỏ. Ông Tần Nguyên nói thêm, tượng thường do người trong các đoàn hát làm.

Nghệ sĩ Kim Cương nói bà chẳng biết ai làm: “Hồi tôi còn nhỏ đã thấy mỗi đoàn hát có vài tượng tổ gọi là cốt ông. Các đoàn chỉ thờ số tượng lẻ chứ không thờ chẵn.”

“Khi trưởng thành, làm chủ đoàn hát, tôi thấy hễ ai lập gánh thì đến Hội Ái hữu nghệ sĩ ở đường Cô Bắc, Sài Gòn (có từ năm 1948) thỉnh tượng tổ về thờ. Việc lập gánh, rã gánh trước 1975 rất dễ dàng, bầu nào bị rã gánh thì lại gửi cốt ông vào hội”.

Nhấp chuột để xem album ảnh ngày giỗ Tổ sân khấu

Giỗ tổ sân khấu, nói chuyện kiêng kỵ của nghệ sĩ

Nguồn yahoo blog cogaidolong

Read Full Post »

Tắm Thổ với các cô gái mặc bikini như vậy không phải kiểu truyền thống đâu. Muốn biết tắm Thổ truyền thống như thế nào phải lên Istanbul.” Ilknuk, người dẫn đoàn du lịch giải thích lại một lần nữa.
Hóa ra, chúng tôi vẫn chưa biết thực sự thế nào là tắm Thổ. Càng tò mò, rà lại Lonely Planet, chúng tôi ghi ra tên Nhà tắm Thổ truyền thống nổi tiếng nhất Istanbul và quyết tâm đi tắm một lần nữa.

Cemberlitas Hamami
Vezirhan Cad. No: 8 – 34120
Quá tình cờ, Nhà tắm Thổ Cemberlitas ở ngay khu phố cổ trung tâm Istanbul, đường Divanyolu, đối diện Cây cột Vòng Constantine nổi tiếng. Vào năm 1584, kiến trúc sư hoàng gia Sinan đã xây nhà tắm này dưới sự ủy nhiệm của Nurbanu Sultan, vợ của Hoàng đế Selim II. Nhà tắm này đối diện với Nhà thờ Hồi giáo Mehmed Pasa và ngay sát Lăng Hoàng đế Mahmud II.
Xếp hàng chờ mua vé vào nhà tắm Thổ
“Nhà tắm lại ngay sát Nhà thờ?” Có cái gì bất thường ở đây khi người ta sắp đặt một công trình thánh thiêng bên cạnh một nhu cầu “trần tục” của con người là tắm rửa. Hay đó là sự lập dị chỉ có ở Cemberlitas? Bạn đã nhầm, các nhà tắm Thổ (Hamam) trong văn hóa Ottoman thường được coi như một thành tố kiến trúc phụ trợ nhưng quan trọng trong Nhà thờ Hồi giáo. Theo thời gian, chúng nhanh chóng trở thành những công trình độc lập và hơn thế nữa, thành những kiến trúc hoành tráng. Cemberlitas là một trong số đó.
Chúng tôi tách đoàn và nhảy vào nhà tắm Thổ Cemberlitas vào quãng cuối giờ chiều. Nhà tắm đông như hội, biển ngoài chỉ rõ: nhà tắm mở cửa từ 6h sáng cho tới nửa đêm. Hamam này như các loại hình Nhà tắm khác từ La Mã không chỉ dành cho đàn ông. Quần thể Cemberlitas bao gồm những khu riêng cho nam và nữ.
“Nam nữ không tắm lẫn lỗn nhưng người tắm cho chúng tôi là nam hay nữ?” Anh bạn tôi hỏi đùa cô bán vé.
“Nam tắm cho nam và nữ tắm cho nữ.”
Hết chuyện, lần này không còn cô Nga nào tắm cho chúng tôi nữa. Dẫu sao thì chúng tôi cũng trả 59 Lira Thổ Nhĩ Kỳ, tương đương 40 đôla Mỹ để bước vào trong cánh cửa của nhà tắm Thổ. Một không gian hai tầng bằng gỗ được xây như kiểu Tứ Hợp Viện Trung Quốc, 4 mặt đều là ban công và các phòng thay đồ, ở giữa là sảnh lớn lớn nhộn nhịp người qua kẻ lại…
Một người đàn ông chờ chúng tôi ở ngay sảnh để phát khăn tắm và một hộp nhỏ chứa găng tay. Anh này dẫn chúng tôi lên một phòng ở tầng 2 để thay đồ.
Bảng giá của nhà tắm Thổ Cemberlitas xây từ năm 1584.
“Khi bước chân vào khu nhà tắm này, bạn được chào đón bằng một không gian hoài cổ, nơi thời gian như trôi ngược về quá khứ….” Tôi đọc nhanh mấy dòng chữ trên tờ rơi giới thiệu về Nhà tắm. Cuối cùng, cái cảm giác trôi về quá khứ Ottoman ấy cũng đến khi chúng tôi được dẫn vào phòng tắm nóng.
Tương tự như nhà tắm kiểu La Mã, một Hamam truyền thống có 3 phòng chính liên thông nhau, caldarium (phòng nóng), tepidarium (phòng ấm) và frigidarium (phòng lạnh).
Phòng nóng là trung tâm của Nhà tắm Thổ và chỉ khi bước vào đây với một chiếc khăn duy nhất quấn trên người, chúng tôi mới được trải nghiệm thật sự thế nào là tắm Thổ. Tắm Thổ Nhĩ Kỳ hay còn gọi là Hamam là một biến thể của tắm hơi, xông hơi và tắm kiểu Nga, nhưng chú trọng nhiều hơn tới sử dụng nước để phân biệt với tắm hơi truyền thống.
Kiến trúc của Phòng nóng mang đặc trưng Hồi giáo Ottoman và được giữ nguyên như 5 thế kỷ trước. Một căn phòng rộng, hình tròn với mái vòm như mọi nhà thờ Hồi giáo ở Istanbul. Điểm khác biệt chỉ là, người ta đục hàng trăm lỗ nhỏ trên mái để tạo ra hàng trăm tia sáng tự nhiên chiếu xuống phòng tắm. Giữa ánh sáng mờ ảo như thế, hàng chục người đàn ông nằm la liệt trên một tảng đá cẩm thạch lớn được đặt giữa phòng. Một số ngồi cạnh các bệ nước nhỏ gắn chặt vào hốc tường xung quanh căn phòng.
Một ông già Thổ người gày đét như La Hán chỉ cho chúng tôi một chỗ trên phiến đá tròn cẩm thạch khổng lồ ấy. Chúng tôi nằm xuống phiến đá, gối đầu lên một chiếc bát sắt và cảm nhận sức nóng rát khắp toàn thân. Phiến đá nóng này nhằm mục đích giúp cơ thể bạn được thư giãn, mở hết các lỗ chân lông và toát mồ hôi một cách tự nhiên. Chúng tôi thả lỏng cơ thể để cảm nhận hết sức nóng, nhìn lên những tia sáng đục chiếu qua đỉnh mái vòm. Hàng trăm năm trước, những hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ cũng từng được tắm như thế và bây giờ với 40 đôla Mỹ, chúng tôi đã có được cảm giác như họ.
20 phút thư giãn trôi qua và ông già người Thổ đến dựng chúng tôi dạy để bắt đầu màn tắm. Kỳ cọ bằng găng tay nhám, massage toàn thân, giội nước nóng ùm ụp và thổi xà phòng khắp người, lần này cũng khác bao nhiêu so với kiểu tắm cùng các cô gái Nga. Chỉ có điều, khác với bàn tay mềm mại lần trước, bàn tay của các ông già Thổ như gọng kìm miết khắp cơ thể chúng tôi.
Quang cảnh phòng chờ vào nhà tắm Thổ Cemberlitas
Đau quá, tôi kêu oai oái và mấy lần yêu cầu nhẹ tay. Có lúc, tôi tưởng bị chuột rút khi bàn tay cứng như sắt của ông già ấn vào hai bắp chân. Những người xung quanh lại có vẻ rất khoan khoái với màn tẩm quất như “tra tấn” này. Tắm Thổ truyền thông là như thế, một sự kết hợp kỳ lạ giữa xông xơi, tẩm quất và tắm thông thường, ngay giữa những di sản của đế chế một thời oanh liệt.
Không thấu hiểu hết những di sản lịch sử ấy thì việc tắm Thổ mất đi nhiều ý nghĩa. Từng dụng cụ tắm đang được sử dụng đều mang dấu ấn của lịch sử từ thời La Mã, loại khăn chúng tôi cuốn quanh cơ thể là peştemal làm bằng lụa hoặc cotton, nalın một loại guốc gỗ để tránh bị trơn trượt trong phòng tắm, keselà chiếc găng tay nhám để kỳ cọ cơ thể.
Trong giai đoạn thịnh trị của đế chế Ottoman ở Thổ Nhĩ Kỳ, thông thường, nhân viên tắm Thổ thường là những thanh niên trẻ có đủ sức khoẻ giúp khách hàng massage và kỳ cọ cơ thể. Những thanh niên này thường không phải người Hồi giáo, có thể là Do Thái, Hy Lạp, La Mã hay Armenia. Sau khi đế chế Ottoman sụp đổ vào đầu thế kỷ 20, những người đứng tuổi như ông già La Hán tắm cho chúng tôi mới thay thế thanh niên trong vai trò ấy.
Màn xông hơi, kỳ cọ, massage toàn thân ở phòng nóng dừng lại, chúng tôi được đưa ra phòng ấm để tắm tráng với xà phòng và nước. Tráng gội xong những tưởng đã đến lúc kết thúc, người hướng dẫn lại đẩy chúng tôi vào phòng nóng để nằm lên phiến đá một lần nữa. Lần toát mồ hôi thứ hai giải phóng nốt toàn bộ những mệt mỏi cuối cùng ra khỏi cơ thể.
Tắm tráng một lần nữa, chúng tôi được đưa trở ra phòng lạnh để thư giãn. Sảnh gỗ bốn mặt nơi chúng tôi bước vào đầu tiên chính là phòng lạnh theo quan niệm truyền thống Thổ Nhĩ Kỳ. Một cốc cam tươi lạnh hoàn toàn nguyên chất cho chúng tôi cảm giác sảng khoái trọn vẹn. Xung quanh, những khách tắm vẫn tấp nập đi lại như trảy hội.
Chúng tôi bước ra khỏi nhà tắm Thổ truyền thống với một tinh thần thoải mái và tươi trẻ hơn nhiều so với trước khi bước vào. Tắm Thổ có giá trị nhiều hơn việc làm sạch cơ thể, đó còn là biện pháp thư giãn và tập thể dục. Chưa hết, trong lịch sử huy hoàng của đế chế Thổ Nhĩ Kỳ, nhà tắm Thổ không chỉ là nơi tắm rửa mà còn được coi như một trung tâm xã hội. Đó là nơi gặp gỡ bạn bè, vui chơi giải trí (nhảy múa, ăn uống, đặc biệt trong khu phụ nữ), lễ hội (như trước đám cưới, lễ tết, thôi nôi). Vì thế, mô hình này nở rộ khắp Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn đế chế Ottoman thịnh trị.
Nơi nào trên thế giới con người chẳng tắm rửa, chỉ có ở Thổ Nhĩ Kỳ, những giá trị nội tại và giá trị gia tăng của hoạt động này mới được nâng lên thành một thứ văn hóa, một di sản văn hóa đích thực. Di sản ấy đã mang lại doanh thu rất lớn cho du lịch Thổ Nhĩ Kỳ mỗi năm.
Khách du lịch may mắn khi được tắm theo nghĩa đen giữa những di sản của đế chế Thổ Nhĩ Kỳ. Người Thổ Nhĩ Kỳ còn may mắn hơn, họ được hưởng lợi nhờ “tắm” giữa những di sản văn hóa giàu có cha ông để lại, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Read Full Post »

“Chúc đi vui vẻ, nhớ đi tắm Thổ nhé.” Chúng tôi nhận được tin nhắn của anh bạn trước khi lên đường đi Thổ Nhĩ Kỳ.

Tắm Thổ (Turkish Bath) hay nói rõ hơn là đi tắm kiểu Thổ Nhĩ Kỳ là điều đầu tiên trong 10 điều phải làm ở Thổ Nhĩ Kỳ theo nhiều trang website và sách hướng dẫn du lịch. “Tiếng lành đồn xa” càng làm chúng tôi tò mò. “Sang tới Thổ, rất khoát phải đi tắm Thổ!”. Chúng tôi đã bàn bạc kỹ với nhau như vậy.

Điểm dừng chân đầu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ là một khu vực có kiến tạo địa chất bởi núi lửa có tên Cappadocia. Trên con đường quanh co của thị trấn, Ilknuk, người dẫn chương trình có chỉ cho chúng tôi một tòa nhà mái vòm nhỏ nhắn và cũ kỹ với tấm biển: “Turkish Bath” ở ngoài. “Đó là một nhà tắm Thổ, nhưng tôi không chắc về chất lượng, lên Istanbul hãy đi tắm thì tốt hơn” – Ilknuk nói.

Quá sốt ruột vì tò mò, chúng tôi muốn thử luôn ở Cappadocia. Nhưng khách sạn chúng tôi ở lại khá xa trung tâm thị trấn nơi có nhà tắm Thổ. Đành ngậm ngùi chờ khi lên tới Pamukkale, một trung tâm tắm suối nóng ở Thổ Nhĩ Kỳ, chúng tôi hỏi lễ tân khách sạn xem có thể tắm Thổ ở đâu thì được trả lời: “Ngay trong khách sạn cũng có tắm Thổ, miễn phí, xin mời các bạn.”

Oa, như bắt được vàng, cả nhóm 4,5 người chúng tôi ùa vào một cánh cửa nhà tắm Thổ của khách sạn. Một căn phòng bằng đá cẩm thạch cỡ 15 mét vuông với một chiếc bàn đá cao khoảng chưa tới một mét nằm chềnh ềnh giữa phòng, chiếm 2/3 diện tích. Xung quanh căn phòng là 4 kệ đá nhỏ chứa nước và một số xô chậu. Căn phòng đá trắng được thiết kế theo kiểu cổ khá đẹp nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng người người hướng dẫn.

“Tắm Thổ kiểu gì thế này, tắm như thế nào bây giờ?”. Chúng tôi hỏi nhau và kéo ra ngoài hỏi ông bạn lễ tân thì nhận được câu trả lời: “Các bạn cứ vào đó tự tắm. Nếu muốn có người tắm cho thì mất 30 đôla Mỹ. Nhưng hôm nay cũng hết ca rồi, phải đợi tới ngày mai.”

“Tự tắm! Tắm Thổ là thế này á, hay là vào đó tắm cho nhau”. Đùa chán, chúng tôi lục tục rời khỏi phòng tắm Thổ để lên phòng “tự” tắm bồn.

Lần tắm hụt thứ nhất làm tăng thêm nỗi tò mò “tắm Thổ” của chúng tôi. Không đợi lâu hơn nữa, vừa tới khách sạn ven biển ở thành phố Kusadasi, chúng tôi đã hẹn nhau, 6h30 tập trung ở sảnh để đi tắm Thổ.

Trung tâm tắm, xông hơi và massage kiểu Thổ Nhĩ Kỳ của khách sạn nằm ngay ở tầng trệt. Sau khi “đóng học phí” 20 đôla mỗi người, chúng tôi được phát một chiếc khăn tắm để quấn quanh người và bị “lùa vào một phòng xông hơi tập thể. 2 “bà chị” đi cùng đoàn cũng bị lùa chung vào căn phòng xông hơi lổn nhổn cỡ chục đàn ông đóng mỗi chiếc “khố” nhỏ quanh người như thổ dân Châu Phi ấy.

Nhoằng một cái, không hiểu các cô kéo tấm khăn kiểu gì, một tầng bọt xà phòng dày tới ba chục phân đã trải lên người…

“3 người đầu tiên đi theo tôi”. Người hướng dẫn vào phòng xông hơi gọi và 3 thằng đàn ông chúng tôi lẽo đẽo theo anh ta vào một phòng tắm. Căn phòng đá cỡ 20 mét vuông có trang trí y hệt phòng tắm ở khách sạn trước. Một chiếc bàn đá cẩm thạch hình lục lăng nằm giữa phòng và xung quanh là 4 bể nước đá. Lần này khác ở chỗ, 2 cô gái xinh xắn,  trắng muốt chỉ mặc bikini đứng chờ sẵn ở đó. Chính xác hơn là các cô cũng quấn ngang hông một lớp khăn dài hơn gang tay y hệt chúng tôi. Phía bên kia, một gã đàn ông râu quai nón cao to lực lưỡng cũng quấn ngang hông một mảnh khăn tương tự.

 A lê hấp!

Mảnh khăn mỏng quanh người chúng tôi nhanh chóng bị hai cô “phù phép’” biến đi đâu mất. Trong khi chúng tôi còn đang ngượng nghịu lấy tay che thì các cô đã ra lệnh ngồi xuống và múc nước từ kệ đá đổ ùm ùm lên người chúng tôi. Chúng tôi còn mải cười như như nắc nẻ với cái cảnh “mẹ tắm cho con” này thì anh bạn còn lại đang cãi nhau với gã Thổ đô vật cởi trần. Gã định “đè” anh ra tắm nhưng anh dứt khoát không chịu bởi nhìn sang thấy cảnh được “em út” tắm cho như chúng tôi sướng hơn. Cuối cùng, gã Thổ đành để cho bạn tôi ngồi một góc chờ đến lượt hai mỹ nhân kia tắm cho.

Đổ nước chán lên người chúng tôi, hai mỹ nữ một người Thổ, một người Nga ra lệnh cho hai chúng tôi nằm xuống. Chúng tôi vừa nằm sấp thì lại được ra hiệu phải nằm ngửa. Hai mỹ nhân lấy chiếc khăn cũ vo vo lại thành một mảnh bé tí ti rồi đặt lên “điểm cần thiết” trên người chúng tôi. Cả hai chúng tôi vẫn nằm nhìn nhau cười “như được mùa” làm hai mỹ nhân cũng cười theo. Hai cô lấy một cái khăn thô như xơ mướp đeo vào bàn tay rồi bắt đầu kỳ cọ khắp người chúng tôi như người ta đánh giấy ráp cho đồ gỗ.

Chưa hết cơn cười thì cánh cửa phòng tắm lại mở, hai nhân nữa trong đoàn bước vào, một nam một nữ. Chị nữ vội vã hét lên đòi ra khi nhìn thấy cảnh tượng “tồng ngồng” trong phòng tắm.

“Ủa sao lại tắm chung nam nữ thế này, nữ phải có phòng tắm riêng chứ.”

“Không có riêng tư gì hết, ở đây là unisex, không đọc biển báo à, không phân biệt giới tính”. Chúng tôi trả lời.

Gã Thổ to con kiếm được khách thích quá vội vã kéo ngay chị nữ vào tắm cho. Chị cũng được đặt nằm như xác ướp ngay cạnh chúng tôi, anh chàng còn lại cũng ra ngồi góc như anh trước để đợi tới lượt “tiên tắm” hay “tắm tiên” cũng được.

Trong lúc đó, hai cô gái đã lấy đâu ra cái xô trắng như xô nước rửa xe máy ở Việt Nam. Hai cô vục vào đó một cái khăn vải rất dài và khi rút khăn ra, toàn bộ tấm khăn đẫm nước xà phòng. Nhoằng một cái, không hiểu các cô kéo tấm khăn kiểu gì, một tầng bọt xà phòng dày tới ba chục phân đã trải lên người chúng tôi. Các cô bắt đầu xoa khắp người chúng tôi như massage.

“Như rửa xe.”

“Giữ cẩn thận cái nhẫn. Không nó kỳ cọ một hồi ra không thấy nhẫn đâu.”

“Hỏi các cô này xem mình tắm cho các cô ý thì hết bao nhiêu tiền.”

Hai ông bạn ở ngoài vừa nhìn chúng tôi “được” tắm vừa châm chọc. Được thể, chúng tôi tôi cũng kêu la để trêu tức: “Sướng quá, phê quá, tắm Thổ có khác.” Anh bạn tắm cùng còn vờ nắm tay cô gái và bị cô phát đùa vào tay. Cả phòng tắm nam nữ lộn xộn, vui như họp chợ, lời qua tiếng lại rôm rả như đánh tổ tôm.

Khi chúng tôi vẫn chưa dứt được cơn cười thì lại nhận chỉ thị của hai cô phải nằm sấp, một lớp bong bóng xà phòng nữa lại đổ ụp lên người chúng tôi và lại là những cơn cười.

“Thế ngày nào em cũng làm ở đây à?”

“Vâng” Cô gái Thổ tắm cho chúng tôi bập bẹ mãi mới trả lời được, không biết tiếng Anh của cô kém hay cô “giả vờ”kém.

Màn tắm tiếp tục bằng pha gội đầu bằng thứ xà phòng Thổ Nhĩ Kỳ và kết thúc bằng màn tắm tráng. Thời gian tắm quảng cáo 30 phút sao mà trôi nhanh thế. Chúng tôi được thay cho một chiếc khăn quấn người mới và mời ra nằm thư giãn ở một giường xa lông bên ngoài. Không hiểu xà phòng gội đầu kiểu gì, tóc chúng tôi vẫn bết vào như 3 ngày chưa gội.

“Thôi cũng đã, phê phết, biết thế nào là tắm Thổ.” Chúng tôi bảo nhau.

Hóa ra, cái sự tắm Thổ nó vẫn không đơn giản thế….

Duy Khánh

Nguồn vnn

Read Full Post »

Trên Thanh Niên ngày 17.7, đã có bài viết về Cống Quận công Trần Đức Hòa – một nhân vật lịch sử gắn liền với đất Quy Nhơn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều lý thú xung quanh nhân vật này chưa được đề cập…

Một trong những việc chứng tỏ được sự “nhìn người” của ông Trần Đức Hòa mà người đời vẫn truyền tụng là ông đã nhận chân được bộ óc siêu việt của Đào Duy Từ ẩn giấu dưới lớp vỏ kẻ tôi tớ, đã bất chấp mọi thị phi để lưu dụng một con người như thế.

Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Lên 5 tuổi thì cha mất (cha ông là một kép hát nổi tiếng). Bà mẹ trẻ ở góa tảo tần nuôi con ăn học, nhưng vì ông là con nhà hát nên ông không được đi thi dù học rất giỏi (theo quan niệm “xướng ca vô loại” thời vua Lê, chúa Trịnh). Tiếc tài học của con, bà mẹ đã nhờ một viên xã trưởng đổi họ để Duy Từ mang họ mẹ.

Theo một vài tài liệu, năm 21 tuổi (1593), Duy Từ đỗ thứ nhì kỳ thi Hương (trong hệ thống “tam trường”: thi Hương, thi Hội, thi Đình thời ấy) đời vua Lê Thế Tông. Đến kỳ thi Hội, do bà mẹ không chịu dan díu với viên xã trưởng nọ nên hắn tố cáo sự việc. Vậy nên ở trường thi Tây Đô (Thanh Hóa), Duy Từ bị đuổi và bị tống giam vì “gian lận thi cử”, còn ở quê nhà mẹ ông tự tử vì phẫn uất… Ôm hận nhưng không thất chí, Đào Duy Từ vẫn tự trau dồi kinh sử, mưu đồ đem chí lớn giúp đời…

 
Hậu duệ đời thứ 13 bên mộ Cống Quận công Trần Đức Hòa – Ảnh: Hà Đình Nguyên

Năm 1625, Đào Duy Từ đã 53 tuổi, liều mình vượt sông Gianh vào Đàng Trong tìm minh chúa. Lưu lạc đến huyện Bồng Sơn (Bình Định), nghe tiếng quan Khám lý Quy Nhơn Trần Đức Hòa là người biết trọng nhân tài lại được chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) tin cậy nên Đào Duy Từ xin vào làm kẻ chăn trâu cho một phú ông họ Lê để chờ cơ hội ra mắt vị quan này. Phú ông thấy Duy Từ tỏ rõ là một người học rộng, tài cao nhưng không gặp thời bèn đến thưa với Trần Đức Hòa. Quan Khám lý cho vời Đào Duy Từ đến, hỏi một biết mười, ứng đối trôi chảy bèn lưu lại cho làm gia sư, sau lại gả cô con gái độc nhất cho…

Năm Đinh Mão (1627) Trần Đức Hòa vào chầu Sãi vương, dâng bài Ngọa long cương, tâu: “Bài này của thầy đồ Đào Duy Từ”. Chúa xem xong, lập tức cho vời Đào Duy Từ đến diện kiến. Đào Duy Từ  tới, thấy chúa mặc áo vải thường đứng đợi ở cửa nách, liền lui ra. Chúa biết ý, trở vào thay áo mũ chỉnh tề rồi mời Đào Duy Từ. Chúa, tôi gặp nhau như “rồng gặp mây, cá gặp nước”. Đào Duy Từ trình bày với chúa những kế sách chống giữ và mở mang bờ cõi mà ông đã dày công tâm huyết. Chúa Sãi mừng rỡ vô cùng, nắm tay ông, phán: “Ta chờ đợi thầy lâu lắm rồi. Sao thầy đến muộn quá vậy?”. Liền phong cho ông chức Nha úy Nội tán, tước Lộc Khê hầu, cho dự bàn quốc sự.

Năm 1630, Đào Duy Từ đốc xuất đắp lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc (Quảng Bình). Đến năm 1631 lại đắp thêm một lũy nữa từ cửa biển Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, Quảng Bình) cao 1 trượng, dài 300 trượng, tục gọi là Lũy Thầy (thời ấy cả triều đình Đàng Trong – từ chúa đến các quan đều gọi Đào Duy Từ bằng “thầy” mà không gọi tên, cho nên lũy do ông đắp cũng được gọi là Lũy Thầy). Hệ thống phòng thủ này tỏ ra rất hiệu quả: 3 lần quân Trịnh vào vây hãm nhưng không sao vượt qua phòng tuyến này, đến nỗi có câu ca dao:

“Khôn ngoan qua cửa sông La
Dù ai có cánh mới qua Lũy Thầy”.

Ngoài việc đắp các lũy trên, trong vòng 8 năm, Đào Duy Từ đã giúp Chúa Nguyễn những việc lớn khác: Đưa phép duyệt tuyển và khảo thí để thu thuế, trưng binh và chọn người tài; Khuyến khích dân chúng khai hoang và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp; Tiến cử Nguyễn Hữu Dật sau thành hổ tướng Nam triều.

Đào Duy Từ mất ngày 17 tháng 10 năm 1634, thọ 63 tuổi, được phong tặng Tán trị Dực vận công thần, Kim tử Vinh Lộc đại phu. Đến triều Minh Mạng truy phong Hoằng Quốc công. Đào Duy Từ còn để lại bộ binh thư Hổ trướng khu cơ và 2 khúc ngâm Ngọa Long Cương vãn và Tư Dung vãn cùng vở tuồng San Hậu thành.

Sau này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thời bấy giờ bản thân Đào Duy Từ có đến 3 định kiến để không thể nào chen chân vào hàng ngũ quan chức. Đó là: 1. Con của kẻ “xướng ca vô loại”; 2. Là dân ngụ cư (từ miền ngoài lưu lạc vào, không phải là dân bản xứ nên rất bị khinh thường phải phục dịch trong các hội hè, đình đám… không công và chỉ được “hưởng” cơm thừa, canh cặn…); 3. Kẻ đầy tớ (trong gia đình phú ông). Tóm lại, lúc ấy Đào Duy Từ đang ở tầng lớp “dưới đáy xã hội”. Vậy mà, Trần Đức Hòa với địa vị cao sang của mình đã không ngại đàm tiếu, thị phi để phá bỏ định kiến rước họ Đào về nhà, tự tin gả người con gái duy nhất của mình cho kẻ ấy, khuyến khích và tạo điều kiện cho con rể phát triển tài năng rồi cũng tự tin tiến cử lên chúa thượng. Đào Duy Từ sẽ ra sao nếu không gặp Trần Đức Hòa?

Quả thật, “tầm nhìn” của Cống Quận công Trần Đức Hòa không mấy ai có được, khiến người thời nay cũng không khỏi ngỡ ngàng… Thế nên trên ngôi mộ của ông, có câu đối: “Tảo phò Nguyễn chúa khai Vương nghiệp/Phục tiến Đào công tác Đế sư” (Sớm phò chúa Nguyễn mở nghiệp đế/Lại cử ông Đào làm thầy vua).

Hà Đình Nguyên

Read Full Post »

Việt Nam cùng các nước ở Đông Á sắp đón Tết trông trăng. Cùng với một ý nghĩa đoàn viên, mang hạnh phúc, vui vẻ cho trẻ em, tết trông trăng của người Việt còn mang riêng màu sắc, hồn cốt quê hương với chiếc đèn ông sao, ông tiến sĩ giấy… và đặc biệt không thể thiếu mâm quả đêm rằm.

Mỗi rằm tháng 8, người dân đất tổ Tò he (thôn Phượng Dực, xã Xuân La, Hà Tây) lại dâng lên tổ tiên mâm ngũ quả bằng bột nặn tò he, mong một mùa an vui, hạnh phúc.
Mỗi rằm tháng 8, người dân đất tổ Tò he (thôn Phượng Dực, xã Xuân La, Hà Tây) lại dâng lên tổ tiên mâm ngũ quả bằng bột nặn tò he, mong một mùa an vui, hạnh phúc.

Tết trung thu, trái cây mùa thu đang vào vụ, mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ tổ tiên cũng mang đậm hương sắc trái chín mùa thu. Đó là nải chuối chín vàng thơm lừng, là trái hồng đỏ mang hi vọng, là trái na nhiều hạt đen nhánh mang ước nguyện lộc nở, sinh sôi, là trái bưởi mang những điều mát lành và trái lựu chứa đựng bên trong những ngọt ngào, may mắn. Mâm quả có xanh, có chín, như quan niệm của người xưa, màu xanh của hoa quả mang tính âm, trái chín mang tính dương. Mâm ngũ quả là tượng trưng cho luật cân bằng âm dương của vũ trụ.

Ngày nay, với nhu cầu thẩm mĩ cao, để có mâm ngũ quả đẹp dâng lên tổ tiên ngày Tết trông trăng, có khi cả chục loại quả được xếp vào đĩa, người ta vẫn chẳng ai gọi là “khay/đĩa thập quả”. “Mâm ngũ quả” hàng trăm năm nay vẫn được người Việt gọi tên – dù đang xa xứ hay ở quê nhà thể hiện tấm lòng, sự tôn kính dâng lên tổ tiên, mong may mắn, hạnh phúc về với gia đình, dòng họ.

Bên cạnh mâm ngũ quả dâng lên tổ tiên ngày Tết trung thu, mâm quả để trẻ con phá cỗ đêm rằm cũng là một nét đẹp riêng trong văn hóa Việt Nam.

 Mâm quả tết Trung thu truyền thống của những gia đình Việt Nam - hài hòa các hương vị mùa thu của hồng, bưởi, chuối, na…
Mâm quả tết Trung thu truyền thống của những gia đình Việt Nam – hài hòa các hương vị mùa thu của hồng, bưởi, chuối, na…

Bà Đào Lệ Mão, 77 tuổi, một người Hà Nội gốc ở phố Bát Đàn kể lại những tết Trung thu từ ngày xa xưa, khi bà còn là thiếu nữ đất Hà thành: “Mỗi gia đình quây quần ăn bữa cơm tối với các đồ cúng gia tiên, sau đó sửa soạn mâm quả trông trăng.” Bà kể, tương truyền xa xưa, khi dân ta đang đón Tết trông trăng, có con sư tử tới quấy phá, trong làng có ông cầm gậy tới đánh đuổi được sư tử, cả làng làm mâm cỗ ăn mừng – đó là sự tích cho mâm cỗ ngày rằm Trung thu.

Đa dạng quả và cầu kì hơn với dưa hấu tỉa hoa, mâm quả đêm rằm tháng 8 của người Việt vẫn vẹn nguyên ý nghĩa mong những điều bình an, may mắn.
Đa dạng quả và cầu kì hơn với dưa hấu tỉa hoa, mâm quả đêm rằm Trung thu của người Việt vẫn vẹn nguyên ý nghĩa mong những điều bình an, may mắn.

Mâm cỗ đêm rằm được cha mẹ bày thật đẹp cho các con, trong đó là bánh nướng, bánh dẻo, mía, bỏng gạo và vô vàn các loại cây trái mùa thu. Các mẹ khéo tay còn tết cho con chú cún xinh bằng trái bưởi… Mâm quả đêm rằm là một bản hòa tấu các hương vị mùa thu, đa dạng sắc màu như lời nhắn nhủ của mẹ cha tới các con, cuộc sống vốn là nhiều màu sắc. Cha mẹ cùng ăn bánh, thưởng trăng, uống trà, phá cỗ cùng con, mong cho các con một mùa an vui, một đời hạnh phúc…

Độ non tuần lễ nữa là tới rằm tháng 8, các mẹ, các chị cũng sắm sửa trái cây, rục rịch nhiều địa chỉ trên phố Hà Nội đã nhận tết cún con bằng bưởi, bày mâm ngũ quả đẹp, nhiều trường học, khu phố cũng nhộn nhịp những cuộc thi cho các cháu học bày mâm quả dân gian…

Cuộc sống hiện đại, thật đáng mừng khi nhiều văn hóa đẹp của Việt Nam còn nguyên giá trị trong không ít gia đình truyền thống!

Thúy Hằng

Read Full Post »

Con móng tay

image

Người ta thường bảo “nhỏ như cái móng tay”, nhưng con móng tay (tên gọi địa phương ở Long Sơn, Bà Rịa-Vũng Tàu) ở đây có thể dài đến 15cm và khi đó nó giống cái cán dao hơn (người Pháp gọi con này là couteau).

image
Loài nhuyễn thể này thường sống trong cát bùn ở các cửa biển, chủ yếu ăn phiêu sinh vật. Khi thuỷ triều lên, nó trồi ra khỏi hốc và nhanh chóng lủi sâu xuống cát mỗi khi có động nhờ vào cái chân thật mạnh. Thịt con móng tay giòn và ngọt, khó tìm thấy ở các nhà hàng. Món chế biến đơn giản ở địa phương là hấp hoặc xào.Lời người chép bài : Con này đem nấu cháo cũng ngọt lắm à . Bên ta hình như không có nhiều nhưng ở bờ biển nước Pháp phía Đại tây dương thì đầy .

==========

Con móng tay ở chợ bó từng bó thế này.. khi còn tươi con nào con nấy le lưỡi ra nung núc những thịt.

image
Con móng tay, có người bảo là con ốc trúc
image
Con móng tay xào satế.
Ốc móng tay xào cay
image
Thú thực là nhìn mấy con ốc móng tay này mình không thấy hoàn toàn được thoải mái cho lắm, lý do thì không tiện nói ra sợ có người nhìn lại tưởng tượng lung tung. Lần đầu tiên mình biết đến loại ốc này là trong dịp đến Nha Trang cuối năm ngoái, vào hàng ốc thấy có món ốc nghe lạ tai, vừa túi tiền, chủ quán cũng góp lời nói món ốc này ngon lắm, thế nên mình gọi ăn thử. Ăn thì đúng là không chê vào đâu được, rất ngon, rất ấn tượng, nhưng nhìn hình dạng thì mình hơi ớn.
Món ốc bày trên đĩa trông còn ngon lành, chứ khi mình nhìn đám ốc còn sống thì thôi rồi, không dám đụng vào luôn vì chạm vào là nó sẽ bắt đầu “uốn éo” cái đầu. Mình chỉ dám đụng khi nó đã ngoẻo thôi.
Ốc này chọn con tươi là khi đụng vào đầu nó nó sẽ “đong đưa lắc lư” cái đầu. Đem ốc về, ngâm trong nước lạnh để ốc nhà hết cát bên trong ra. Gọi là ốc theo thói quen gọi của người VN thôi, còn đúng ra nó thuộc về họ hàng nhà “sò”. Tiếng Anh loại sò này có tên gọi là Razor clams (tức là con sò có hình cái lưỡi dao cạo)
image
Về hương vị thì mình đảm bảo ai không quá kén ăn thì ăn một lần là sẽ thích ngay. Ốc móng tay có thể chế biến thành nhiều món ăn từ món xào đến món hấp. 1 loại rau thơm thường không thể thiếu trong các cách chế biến là rau răm. Không hiểu sao rau răm đi với thứ ốc này rất hợp nhé.
Nguyên liệu: (4 người)
image
– 500g ốc móng tay
– vài tép tỏi, băm nhỏ
– 1 quả ớt sừng, băm nhỏ
– 1 tbs nước mắm
– 2 tsp đường trắng
– 2 tsp tương ớt
– 1 tbs dầu ăn
– rau răm, thái nhỏ
Cách làm:
– Đun 1 ấm nước sôi, cho ốc vào nồi to rồi dội nước sôi vào, đảo qua đảo lại đến khi ốc mở hết nắp thì đổ ra cho ráo. Tách bỏ 1 bên vỏ, giữ lại 1 bên vỏ còn gắn với con ốc.
image
– Làm nóng dầu ăn trên chảo lớn, cho tỏi, ớt vào phi thơm. Cho nước mắm, đường, tương ớt vào, quấy đều. Sau đó cho ốc vào, đảo đều nhưng nhẹ tay để ốc không bị rơi ra khỏi vỏ.
image
– Xào ốc chừng 4-5 phút cho ốc ngấm và hỗn hợp sệt lại.
image
– Rắc rau răm rồi bắc ra khỏi bếp.
image
Bắt “móng tay” trên biển Đồng Châu
image
(DVT.vn) – Đường biển trải rộng tít tắp, nước chỉ xâm xấp đến mắt cá chân. Xa xa, lũ trẻ chăm chỉ bắt những con móng tay bé tí tẹo.
Bãi biển Đồng Châu nằm trong địa bàn huyện Tiền Hải – Thái Bình lâu nay không phải là bãi tắm lý tưởng. Địa hình đặc biệt của vành đai biển này với độ dốc thoai thoải trải dài và đất bùn, giúp ích cho việc nuôi trồng thủy sản. Lội ra xa đến vài trăm mét, nước biển cũng mới chỉ đến nửa ống chân.
Vào những lúc thủy triều lên, nước cũng chỉ cao đến ngang bụng người ra biển. Những cánh đồng Vạng mọc lên trên khắp bãi biển với những gác canh, vài chiếc thuyền thúng trong làn nước dập dờn.
image
Những cánh đồng Vạng mọc lên trên khắp bãi biển với những gác canh.
image
Lội ra xa đến vài trăm mét, nước biển cũng mới chỉ đến nửa ống chân.
Theo cách gọi địa phương, vạng là tên của con Ngao. Ở miền Trung có nơi gọi nó là con xìa. Bãi biển này là khu vực nuôi vạng, là nguồn thu nhập chính của người dân trong vùng. Những chòi canh vạng được bà con dựng lên như những ngôi nhà trên cọc để trông nom và chăm sóc mùa vạng.
Loài gao không đòi hỏi phải đầu tư lớn như nuôi tôm, nuôi cua, mỗi ha chỉ cần khoảng vài triệu đồng tiền lưới bảo vệ, trông nom và giống, không cần phải cho ăn thêm bởi ngao, ngán ăn phù du sẵn có trong bãi nuôi. Cả bãi biển chạy dài 5 km được dành cho nuôi ngao. Trong vài năm trở lại đây, con ngao đã trở thành nguồn làm giàu cho Tiền Hải nhờ xuất khẩu.
image
Với lợi thế của nghề nuôi ngao giúp cho nhiều hộ ngư dân giàu lên nhanh chóng.
image
Trong vài năm trở lại, du lịch biển tại địa phương này hoàn toàn nhờ vào nguồn thủy hải sản mà tìm đến.
Cách đó không xa, trên cánh đồng nuôi Vạng là bóng dáng của những bé trai bé gái đang tìm kiếm một loài thủy sản khác nằm rải rác trên khắp bãi biển và cũng phong phú không kém: những con ốc móng tay. Nằm sâu trong lớp đất bùn, ốc móng tay có dáng dấp giống với sá sùng, màu trắng sữa.
Chỉ cần một que thép nhỏ và làm cong một phần đầu dây là có thể sọc được một chú ốc móng tay nằm sâu trong cát. Đám trẻ rành nghề thoáng thấy sủi tăm bọt nước trên gợn bùn là nhanh chóng túm được ngay một con. Những con móng tay chỉ ở cách nhau vài cm, trong một nhoáng đã tìm được một rổ đầy.
Con móng tay bán với giá 20.000 đ/kg, được các nhà hàng phía trên chào đón mua cho khách. Một rổ mới được hơn một cân nên cũng nhiều khách mua ăn thử vì thấy không đắt lắm mà món cũng khá lạ. Đơn giản mà lại có tiền nên khá nhiều trẻ đang cặm cụi tìm bắt trên khắp bãi biển trải dài.
image
Những cô cậu bé hăng say làm việc từ sáng đến tối bắt móng tay.
image
Con móng tay bán với giá 20.000 đ/kg, được các nhà hàng phía trên chào đón mua cho khách.
“Em bắt con này được hơn 1 năm rồi, khách họ thích ăn lắm”. – Khanh, cậu bé đội mũ lưỡi trai nói với tôi – con này vào mùa đông nhiều hơn, mùa hè nắng và nóng chúng nấp sâu nên khó bắt lắm. Nếu không bán được cho nhà hàng trên kia mua thì em mang về cho mẹ em nấu canh ăn, cũng ngon lắm”.
Con móng tay không phải nuôi, sống rất nhiều trên bãi biển này. Cứ sau một đêm nước lên, quay lại là lại thấy móng tay nằm đầy dưới lớp cát. Nhưng bắt được nó cũng phải có kĩ thuật riêng, chứ không là không bắt được hoặc sẽ xiên ngang qua người nó.
Loài móng tay có cùng một hệ thức ăn giống với con ngao. Quanh vùng biển gần với các cửa sông lớn đều có loài phù du này nhưng nhiều nhất và dễ bắt nhất là bãi biển Đồng Châu. Những con móng tay nho nhỏ, một loài thủy sản ít người để ý tới cũng trở thành một nguồn thu nhập không nhỏ cho những đứa trẻ tại huyện Tiền Hải.
image
Những con móng tay trở thành một nguồn thu nhập không nhỏ cho những đứa trẻ tại huyện Tiền Hải.
image
Những cửa hàng mọc san sát nhau đua ra với biển tạo thành một tổ hợp liên hoàn.
Từ khi người đến du lịch Đồng Châu với cái thú thưởng thức hải sản là chính thì bãi biển này không lúc nào vắng những cô cậu bé hăng say làm việc từ sáng đến tối bắt móng tay. Ốc móng tay khi mang từ biển lên được ngâm trong khoảng 10 đến 15 phút cho sạch cát bên trong rồi mới đem luộc hoặc hấp. Khi ăn tách vỏ, thịt ngọt và thơm. Vỏ móng tay tách rất dễ và giòn tan, thịt trắng đục, dễ ăn.
Trên bãi biển lúc nào cũng có khoảng gần 20 em, tranh thủ lúc nghỉ học chạy ra biển bắt móng tay, kiếm chút tiền phụ giúp gia đình. Tầm gần trưa, một số em rời khỏi bãi biển đi học. Cho đến khi chúng tôi ăn xong bữa thì xuất hiện một tốp các em nhỏ khác bắt tay vào việc.
Biển Đồng Châu mấy năm nay nhờ vào con ngao mà phát triển. Những cửa hàng mọc san sát nhau đua ra với biển tạo thành một tổ hợp liên hoàn. Các chòi được xây cao hẳn với mặt biển bằng các cọc tre. Ngó từ đầu đến cuối dãy cũng khoảng 40 nhà hàng. Từ trên cao vươn tầm ra những bãi ngao trải dài là mặt biển và những chòi canh tạo nên vẻ đẹp riêng cho biển cả…
Vào những buổi bình minh, cả bãi biển long lanh một màu óng ả của trời và biển hòa quyện một màu đỏ thắm đầy cuốn hút.
image
Vỏ móng tay tách rất dễ và giòn tan, thịt trắng đục, dễ ăn.
image
Ốc móng tay khi mang từ biển lên được ngâm trong khoảng 10 đến 15 phút cho sạch cát bên trong rồi mới đem luộc hoặc hấp.
Muốn ghé qua đây tắm biển nên chạy thuyền ra đảo Cồn Vành, Cồn Thủ cách Đồng Châu khoảng 7km. Đảo Cồn Thủ thích hợp với một buổi picnic với một bãi tắm cát trắng và những rừng thông xanh. Đảo Cồn Vành lại là nơi dành cho khám phá với những rừng nước ngập mặn là nơi lưu trú của nhiều loài chim quý hiếm như cò thìa, bồ nông…thu hút nhiều khách ra tham quan.
Với lợi thế của nghề nuôi ngao giúp cho nhiều hộ ngư dân giàu lên nhanh chóng. Trong vài năm trở lại, du lịch biển tại địa phương này hoàn toàn nhờ vào nguồn thủy hải sản mà tìm đến.
Trên bãi biển, thấp thoáng bóng dáng của những ngư dân đang chăm cho bãi vạng của mình. Biển Đồng Châu một ngày mới với cuộc sống mưu sinh.
image
Với lợi thế của nghề nuôi ngao giúp cho nhiều hộ ngư dân giàu lên nhanh chóng.
image
Biển Đồng Châu một ngày mới với cuộc sống mưu sinh.

Read Full Post »

(VTC News) – Bộ tộc Dani ở thung lũng Baliem, trên hòn đảo West Papua New Guinea thuộc Indonesia là một trong những bộ tộc hoang dã nhất hành tinh.Bộ tộc này được người Hà Lan phát hiện ra từ năm 1938. Tuy nhiên, dù thế giới phát triển không ngừng nghỉ, bộ tộc này vẫn sống theo kiểu hồng hoang, giữ gìn nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình. Họ vẫn ở trong những ngôi nhà tranh, trần truồng và săn bắn kiếm sống.

Chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại ở bộ tộc này. Người phụ nữ làm mọi việc từ trồng trọt, hái lượm, chế biến thức ăn, đến chăm sóc con cái. Đàn ông chỉ có mỗi việc đi săn và kiếm thức ăn.

Xưa kia, người Dani có tập tục săn đầu người. Họ chiến đấu với các bộ tộc khác và cắt đầu kẻ thù về trưng bày như chiến công. Tuy nhiên, chính quyền Indonesia đã gây áp lực nên tập tục này đã không còn nữa.

Kính mời độc giả chiêm ngưỡng những hình ảnh sống động về bộ tộc hoang dã nhất thế giới này:

Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Một góc thung lũng Baliem, nơi người Dani sinh sống.
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Người Dani sống trong những ngôi nhà tròn.
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Đường sá đã vào đến thung lũng Baliem, song người Dani vẫn giữ nguyên vẹn bản sắc dân tộc mình.
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Khi tộc trưởng chết đi, họ ướp xác bằng cách bó xác kiểu ngồi, rồi đặt lên gác bếp sấy khô. Nhờ đó, hàng trăm năm, xác không phân hủy.
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Hàng năm, cứ vào tháng 8, tại thung lũng Baliem lại diễn ra các lễ hội của thổ dân. Lễ hội tái hiện lại cuộc sống săn bắn hái lượm, các cuộc chiến đẫm máu, các cuộc săn đầu người, những điệu nhảy của thiếu nữ ngực trần mô tả cảnh sinh hoạt, ái ân…
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Hấp dẫn nhất có lẽ là các trận chiến săn đầu người được phục dựng lại trong lễ hội. Các chiến binh đã chiến đấu thực sự bằng vũ khí. Máu đã đổ trong những trận chiến này.
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Trang phục của đàn ông Dani có lẽ độc đáo nhất thế giới. Họ chỉ có quả bầu khô, dùng để đựng dương vật. Mỗi người có một sở thích, người đựng bằng quả bầu nhỏ xíu, người dùng quả bầu dài ngoẵng, người dùng quả bầu to tướng, có thể đựng được cả dương vật lẫn con gà, hoặc con thú săn được.
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Phụ nữ Dani chỉ mặc chiếc váy cỏ. Cứ 4 tuổi họ lại mặc 1 lớp váy. Phụ nữ nào mặc 4 lớp, nghĩa là 16 tuổi, thì đến tuổi lấy chồng. Phụ nữ Dani có thú xăm ngực. Họ sẵn sàng chịu đau để có được những bộ ngực đẹp, khoe với thiên hạ.
Bí ẩn bộ tộc ở trần hoang dã nhất hành tinh
Người Dani đã biết kiếm sống bằng cách cho du khách chụp ảnh kỷ niệm. Để có được tấm hình cùng họ, du khách phải bỏ ra khoản tiền nhỏ.

Trần Bình Thủy (tổng hợp)

Read Full Post »

Trận đại thủy chiến ở đầm Thị Nại giữa quân Tây Sơn và chúa Nguyễn vào năm 1801 có rất nhiều điểm tương đồng với một trận thủy chiến nổi tiếng khác diễn ra trước đó 16 thế kỷ.
Xét trên quy mô và tính chất quyết định, trận đánh diễn ra ngày 27/2/1801 ở đầm Thị Nại giữa quân Tây Sơn và chúa Nguyễn xứng đáng được ghi nhận như trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử các cuộc nội chiến ở Việt Nam.Bức tranh vĩ đại của trận đánh lịch sử Năm 1800, thế trận giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn rơi vào thế giằng co. Vào thời điểm này, thành Quy Nhơn – một địa điểm tối quan trọng về chiến lược do chúa Nguyễn kiểm soát đang bị quân Tây Sơn uy hiếp mạnh mẽ. Quân Nguyễn tại đây phải cố thủ trong tình cảnh ngặt nghèo. Quân tiếp viện cho thành không thể đến bằng đường thủy do phía Tây Sơn bố trí một đội thủy quân cực mạnh để bảo vệ cửa biển Thị Nại.

Quyết cứu thành Quy Nhơn, chúa Nguyễn Ánh đưa hạm đội hùng hậu chưa từng có tiến ra phá vòng vây của Tây Sơn ở đầm Thị Nại. Đầm nước này trở thành chìa khóa quyết định cục diện quân sự trong tương lai của cả hai bên.

Theo một số nguồn sử liệu, chúa Nguyễn đã huy động trên dưới 1.000 chiến hạm lớn nhỏ cho trận Thị Nại. Trong số đó có 5 chiếc mang được 46 khẩu đại bác, 18 chiếc khác mang được từ 20 đến 26 khẩu.

Quân Tây Sơn cho án ngữ ở cửa biển Thị Nại 3 chiến hạm khổng lồ Định Quốc – loại chiến hạm “khủng khiếp” nhất của người Việt thời cận đại với trang bị hơn 60 hải pháo mỗi chiếc. Phía sau 3 chiến hạm Định Quốc là hạm đội đông đảo gồm gần 2.000 chiến thuyền lớn nhỏ, tập hợp gần như tất cả sức mạnh thủy binh của quân Tây Sơn. Lực lượng phỏng thủ được hỗ trợ bởi rất nhiều đại pháo đặt trên hai pháo đài Gành Ráng và Phương Mai ở cửa ngõ vào Thị Nại.

Đầm Thị Nại là một đầm nước mặn thuộc địa phận thành phố Quy Nhơn, huyện Tuy Phước và huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định ngày nay. Đầm có diện tích khoảng 5.000 ha, chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng khoảng 4 cây số. Nước đầm thông với biển bằng một cửa hẹp có tên cửa Giã, còn gọi là cửa Thị Nại. (Trong hình minh họa trên, màu vàng thể hiện những địa điểm tập trung lực lượng của chúa Nguyễn, màu đỏ là quân Tây Sơn).

Trong những cuộc giao chiến đầu tiên, thủy quân tiên phong của Nguyễn Ánh luôn bị nghiền nát ngay tại cửa đầm bởi hỏa lực phòng thủ khủng khiếp của Tây Sơn. Thành Quy Nhơn ngày càng nguy ngập. Chúa Nguyễn quyết định thu quân về để họp bàn các tướng bàn kế tiêu diệt hạm đội Tây Sơn. Nhận định mùa gió đang thuận lợi, họ thống nhất sẽ dùng hỏa công.Đêm rằm tháng Giêng năm Tân Dậu 1801, 1.200 quân nhà Nguyễn bí mật đổ bộ lên bờ, đánh úp các pháo đài của Tây Sơn nhằm hóa giải các cỗ đại pháo.Trước đó, nhánh quân tiên phong của chúa Nguyễn đã bắt được thuyền tuần tra Tây Sơn và và thai thác để lấy mật lệnh. Một đội chiến thuyền cái trang thành thuyền Tây Sơn dùng mật lệnh vượt qua cửa phòng thủ tiến sâu vào bên trong bắn phá.

Hai cánh đột kích trên đã trở thành chìa khóa để nhà Nguyễn xoay chuyển cục diện trận chiến. Trước sự bối rối cuả quân Tây Sơn, toàn bộ hạm đội của nhà Nguyễn được lệnh tổng tấn công.

Sự yểm hộ của các cỗ đại pháo hai bên bờ giảm sút, 3 chiến hạm Định Quốc của Tây Sơn bị trên 60 chiếc thuyền thuộc tiền đội thủy quân Nguyễn bao vây và đánh chìm. Toàn bộ hạm đội Nguyễn tràn vào dùng hỏa công đánh phá cạnh mẽ. Nhờ thuận hướng gió nên sức mạnh công phát huy tối đa, hạm đội Tây Sơn cháy phần phật từ chiếc này sang chiếc khác. Đêm ấy, một bức tranh khủng khiếp bao phủ lên toàn bộ đầm Thị Nại với lửa khói ngút trời.

Trận Thị Nại đã kết thúc với chiến thắng thuộc về nhà Nguyễn. Quân Nguyễn mất hơn 4.000 cho cuộc chiến. Về phía Tây Sơn, thiệt hại nặng nề hơn nhiều lần. Toàn bộ hạm đội ở Thị Nại – xương sống của hải quân Tây Sơn bị tiêu diệt hoàn toàn. Theo thống kê, Tây Sơn mất hơn 20.000 quân, 1.800 chiến thuyền, hơn 600 đại pháo…

Thị Nại – Xích Bích của người Việt

Trận thủy chiến Thị Nại có rất nhiều điểm tương đồng với một trận thủy chiến nổi tiếng khác diễn ra trước đó 16 thế kỷ. Đó là trận Xích Bích ở cuối thời Đông Hán bên Trung Quốc.

Xét về tính chất, cả hai trận đánh đều diễn ra trong các cuộc nội chiến giành quyền làm chủ đất nước. Nếu trận Xích Bích diễn ra là cuộc đối đầu giữa thế lực của Tào tháo nhân danh nghĩa triều đình và liên quân tôn quyền – Lưu Bị trong bối cảnh Trung Quốc đang bị chia rẽ bởi tình trạng cát cứ của các chư hầu thì trận Thị Nại là cuộc đọ sức giữa triều đại Tây Sơn và chúa Nguyễn, hai thế lực hùng mạnh còn tồn tại sau hàng thế kỷ nội chiến ở nước Việt.

Hàng triệu người Việt Nam biết đến trận Xích Bích qua tác phẩm văn học kinh điển Tam Quốc chí.

Cả hai trận đánh đều diễn ra trên sông nước với quy mô rất lớn, quy tụ hầu như toàn bộ lực lượng của thủy quân của các bên tham chiến. Đây đều là những trận  quyết chiến chiến lược mà bên nào thua sẽ mất hoàn toàn quyền kiếm soát mặt trận đường thủy về lâu dài, kéo theo sự thay đổi toàn diện cuộc chiến.Ở trận Xích Bích, sau trận thua thảm khốc trước liên quân Tôn Quyền – Lưu Bị, Tào Tháo không còn bao giờ khôi phục được sức mạnh thủy binh để đánh bại đối thủ của mình. Kết quả của trận Xích Bích đã định hình cho thế chân vạc thời Tam Quốc của ba nước Tào Ngụy – Thục Hán – Đông Ngô. Đây là một trận đánh có ý nghĩa lớn trong lịch sử Trung Quốc.Với thật bại ở trận Thị Nại, thủy quân Tây Sơn hầu như đã sụp đổ hoàn toàn. Kể từ đó nhà Nguyễn nắm giữ quyền kiểm soát vùng biển, gần như tất cả tàu có thể tự do đi lại mà không chịu sự đe dọa của quân Tây Sơn. Trận Thị Nại đã làm xoay chuyển cục diện chiến sự, giúp cho việc kết thúc chiến tranh nhanh hơn. Sau trận đánh này, Nguyễn Ánh liên tiếp giành chiến thắng và nắm quyền kiểm soát toàn bộ đất nước.

Điều đặc biệt khiến cuộc chiến ở đầm Thị Nại giống trận Xích Bích là ở chiến thuật mà nhà Nguyễn đã sử dụng để giành chiến thắng. Đó chính là chiến thuật hỏa công dựa vào hướng gió được hiện với lối đánh tập kích thọc sâu bất ngờ làm đối phương không kịp trở tay.

Trong trận Xích Bích, phe liên quân đã dùng kế trá hàng để dẫn một đội thuyền chất đầy vật liệu dễ cháy cùng cùng ngòi nổ đột nhập sâu vào căn cứ quân địch. Khi đội “hàng binh” đến giữa sông thì các con thuyền được châm lửa và theo gió lao thẳng vào hạm đội của Tào Tháo. Do gió lớn và bị xích vào nhau, hạm đội khổng lồ này nhanh chóng bị thiêu ra tro.

Trong trận Thị Nại, đoàn thuyền ngụy trang của quân Nguyễn đã luồn sâu vào đội hình hạm đội Tây Sơn khiến hoạt động của hạm đội này bị rối loạn. Khi dính đòn hỏa công từ hạm đội chủ lực của chúa Nguyễn, các chiến thuyền Tây Sơn chỉ còn biết chống cự trong tuyệt vọng. Cũng như trận xích Bích, những làn gió “trời cho” đóng vai then chốt trong chiến thắng của chúa Nguyễn.

Quốc Lê

Read Full Post »

Thế giới Hồi giáo chứa đựng trong nó những kho báu lớn nhất của nhân loại. Dưới đây là 5 điểm đến bạn nên chiêm ngưỡng ở thế giới Hồi giáo

1. Đền Taj Mahal, Ấn Độ

Được xây dựng từ năm 1632 và kéo dài trong suốt 22 năm để vua Shah Jahan tưởng nhớ hoàng hậu đẹp và yêu quý của ông đã từ trần, Taj Mahal được xem như biểu tượng của Ấn Độ và biểu tượng của tình yêu. Mỗi ngày có tới hàng nghìn du khách từ các nơi trên thế giới đến thăm ngôi đền bằng đá cẩm thạch trắng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới này. Đền thiêng Taj Mahal chính là di sản của lối kiến trúc Ấn – Hồi, vừa uy nghiêm, lộng lẫy mà vẫn rất tinh tế, nhẹ nhàng.

2. Thung lũng Hunza – Pakistan

Thung lũng Hunza nằm ở trong rặng núi Karakorum hết sức hiểm trở và tách biệt với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên đây thực sự là một thung lũng thần tiên với cảnh đẹp hùng vĩ của núi non. Nằm trên con đường cao tốc Karakorum, con đường chiến lược dài tới 1300km từ Islamabad đến Kashgar với hai bên đường là bạt ngàn hoa dâu tây và hoa mơ, những ruộng bậc thang thẳng hàng và những cây cầu treo đẹp tuyệt vời. Vùng đất trái tim của phía bắc này là một linh hồn bí ẩn của Pakistan

3. Bukhara – Uzbekistan

Bukhara là thành phố cổ nhất Uzbekistan với trên 2500 năm tuổi. Nằm trên con đường tơ lụa, Bukhara là một trung tâm thương mại nổi tiếng từ thời trung cổ. Chính vì thế, thành phố cổ này được xây dựng tường thành bao bọc, có cổng thành rất vững chắc và nhiều lăng mộ muôn màu muôn vẻ. Được coi là thành phố linh thiêng nhất của trung tâm Châu Á, Bukhara tự hào với một nền kiến trúc kéo dài hàng nghìn năm lịch sử của mình.

4. Hồ Dal – Kashmir

Hồ Dal nằm ở thủ phủ mùa hè của Kashmir là Srinagar, được mệnh danh như “viên kim cương trên vương miện của Kashmir” hay “viên ngọc quý của Srinagar” là một trong những nơi có khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, thu hút rất nhiều khách du lịch trên thế giới ghé thăm hàng năm. Bốn bề là dãy Himalaya sừng sững, hồ Dal – biểu tượng du lịch của Kashmir độc đáo với những khu vườn nổi xinh đẹp. Những khu vườn này được gọi là “Rad” ở Kashmir và chúng được bao phủ bởi hoa sen trong mùa hè, đem đến màu sắc tươi thắm cho toàn bộ khu vực hồ.

5. Granada– thành phố của điệu Flamengo

Granada là một thành phố năng động, trẻ trung, giầu văn hóa và lịch sử ở phía Nam Tây Ban Nha. Mang trong mình một lịch sử lâu đời và hào hùng, Granada nổi tiếng với nhiều cung điện, lâu đài và thành quách. Trong đó, có hai kiệt tác kiến trúc là quần thể cung điện Alhambra và thị trấn Albaicin đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới năm 1984. Đặc biệt, những công trình này còn mạng đậm những nét văn hóa độc đáo của người Moor, người Do Thái, người Arập và Digan.

Tác giả: Nguyễn Minh Ngọc

Read Full Post »

« Newer Posts - Older Posts »