Nam Thi
Bạn học của tôi thuở ấu thơ ở Bình Khê, sau hơn nửa thế kỷ, nay không còn mấy người, số chết trận, số chết bịnh, chết già, số còn sống cũng gần đất xa trời. Còn các thầy cô chết gần hết. Tôi may mắn có ông thầy giáo làng, người khai tâm cho tôi – lúc trước gọi là “vỡ lòng”, nay gần tám mươi nhưng vẫn còn mạnh khỏe, đang sống ngay tại làng tôi, nhờ vậy mỗi lần về quê tôi lại được thăm thầy và được thầy xem như một người bạn có thể hàn huyên tâm sự. Đó là thầy Trần Đắc.
Thật ra thầy chỉ hơn tuổi tôi đúng một con giáp nên khi đã lớn tôi gọi thân mật là Anh Năm. Lúc vào học lớp vỡ lòng của thầy tôi lên tám và thầy hai mươi. Đó là vào năm 1955, khi bên “Quốc Gia” về “tiếp thu” vùng Bình Khê theo hiệp định Genève 1954. Sự kiện lớn nhất trong đời tôi là lần đầu tiên thấy chiếc xe hơi nhà binh bốn bánh ở Phú Phong – sau nầy tôi biết đó là xe chở lính Dodge thường gọi là “Đốt cách” ( “cách” là quatre tiếng Pháp là số bốn, tức xe Đốt 4 bánh). Bọn trẻ chúng tôi gí mũi vào ống khói để ngửi, cái mùi mới lạ của nền văn minh cơ khí mà sau nầy tôi mới biết là rất độc hại, gây ô nhiễm không khí. Còn sự kiện “vĩ đại” thứ hai tôi sắp kể dưới đây.
Tôi vốn là một đứa trẻ lêu lổng, suốt ngày theo người lớn ra đồng bắt cá, bắt cua, bẫy chim, săn chồn, bắt chuột và tham gia lắm trò tinh nghịch của trẻ mục đồng, hoặc ra sông Côn hụp lặn, nên da đen như cột nhà cháy, chân lúc nào cũng đầy “mụt đau” do té ngã, có khi đầu cạo trọc lóc vì hắc lào. Buổi chiều hôm đó trời vừa tạnh mưa, tôi chạy từ xóm Cũ lên xóm Mới vì thấy nhiều người dắt con lên nhà từ đường họ Quách, ngôi nhà đồ sộ có sân rộng thời nào cũng dùng để tổ chức tập hợp, mit-ting. Thầy Năm đang ghi tên học trò xin học, thấy tôi đứng xớ rớ, ngoắt lại:
– Ê, Út, mầy muốn ghi tên học không? Cha mầy hay chữ, chẳng lẽ mầy chịu dốt, “đội bổi thui trâu”?
Ngày xưa ở làng, người đàn ông nào dốt đặc cán mai, đầu óc bã đậu, không tham gia bất kỳ việc làng “ danh giá” nào thì chỉ còn chờ khi làng có cúng tế, giết heo mổ trâu bò thì được phân công kiếm cành cây khô, rơm hay những thứ cháy được gọi chung là “bổi”để thui trâu bò.
Cha tôi là nhà Nho chuyển sang Tây học, từng theo học Collège Quinhơn, là người “hay chữ” một thời ở địa phương. Ông mất sớm, sau đó mấy năm mẹ tôi cũng qua đời, nhưng chị em tôi vẫn còn giữ nguyên tủ sách của ông gồm sách chữ Hán, chữ Tây, chữ quốc ngữ. Tôi vẫn thường lật quyển Petit Larousse để xem những hình minh họa lạ mắt, đương nhiên tôi chẳng hiểu mô tê gì.
Các chị tôi đều là bạn học của thầy Năm trong thời Việt Minh nên thầy thường đến nhà chơi. Câu nói “khích tướng” của thầy khiến tôi cứng họng.
Không đợi tôi trả lời, thầy Năm bảo:
– Tao ghi tên mầy rồi, về bảo chị Bốn mầy mua vở, nghe thôn “a-lô” là lên miễu Buồng Tằm học, nghe không?
Tuy dặn tôi rồi, nhưng chiều tối thầy Năm cũng xuống gặp chị tôi. Hôm sau, chị tôi qua Phú Phong mua tập vở, bút mực và xấp vải để may áo quần cho tôi đi học. Thực ra, tuy chưa đến trường nhưng ở nhà các chị tôi đã chỉ cho tôi biết đọc, biết viết, làm toán chút chút rồi. Nhưng đi học ở trường thì mất đi chơi, nên khi nghe “lịnh” của thầy Năm, tôi thực sự thấy oải. Chẳng riêng gì tôi, nhiều đứa khác về sau mỗi lần đến trường là có cha xách roi đi sau lừa như lừa bò, vừa đi vừa khóc như sắp ra pháp trường.
Lớp của tôi với sỹ số hơn hai chục, cả trai lẫn gái, bá nạp đủ mọi lứa tuổi, có người đã biết chữ, đa số mù chữ vì trong thời chiến tranh hầu hết trẻ em chưa được đến trường. “Hương trường Thuận Nghĩa” là tên chính thức của trường tôi. Làng tôi vốn có một ngôi trường hai phòng học xây bằng gạch lợp ngói từ thời Pháp ở cạnh nhà tôi nhưng chính quyền mới đã tháo dỡ đem lên Kiên Mỹ làm trụ sở xã Bình Thành. Vì vậy, chúng tôi học tạm ở miễu Buồng Tằm, tức miễu Vĩnh Phúc, ở đầu làng do những người nuôi tằm dựng lên để thờ ông tổ nghề tằm tang từ cả trăm năm trước. Miễu xây rất bề thế nhưng đã bị đập phá chỉ còn mái ngói và mấy bức tường đổ, gạch vụn, vôi vữa bừa bãi. Bàn học là những tấm ván, cánh cửa cũ kê xiêu vẹo, học sinh phải đứng học vì không có cái gì để ngồi. Nhờ biết chữ rồi, nên tôi được xếp học lớp năm ( lớp 1 bây giờ), vài tháng sau người ta mở lớp tư (2) mà thiếu học trò nên tôi và ba bạn khác được đôn lên lớp tư ở Kiên Mỹ, cứ thế bọn tôi lại được “đôn” một lần nữa, đến cuối năm tôi đã học hết lớp ba trên trường Cầu Vôi của xã Bình Thành. Ba lớp một năm. Coi như “thời thế tạo anh hùng” chứ chẳng giỏi dang gì.
Trở lại chuyện thầy Năm. Hồi đó, chắc thầy không qua lớp sư phạm cấp tốc nào. Sau nầy, thầy tự học đỗ Trung học Đệ nhất cấp và tiếp tục dạy tiểu học cho đến 1975. Thầy dạy giỏi nổi tiếng, ai bã đậu cỡ nào qua tay thầy đều có thể đọc, viết sau mấy tháng. Tùy trình độ của từng nhóm học sinh trong lớp bá nạp của tôi, thầy có giáo trình riêng. Chính nhờ vậy mà tôi và mấy người bạn mới “nhảy lớp” được – từ hồi đó là học “băng”. Cho đến bây giờ tôi vẫn biết ơn thầy nhiều nhất trong số hàng trăm thầy cô đã dạy tôi từ tiểu học lên đại học. Nhưng mỗi khi nhớ về thầy, tôi không thể nào quên những trận đòn “toét đít” của thầy, thường bằng roi mót hay cành rù rì. Roi mót là những nhánh tre già tuy nhỏ nhưng dẻo, mỗi khi roi quất xuống nghe tiếng gió“trót, trót”, roi chưa chạm đít đã nhí nhỏm, lằn roi để lại trên mông dài như con trùn khoan. Còn roi rù rì thì dài, mềm, thường dùng để đánh tập thể – đứa nhỏ con hơn nằm chồng lên đứa lớn, đứa trên bị đánh, đầu roi quặp vào vế, hông đứa dưới…Cái uy của thầy khiến học sinh chăm học, tiến bộ nhanh. Bây giờ người ta cấm đánh học trò, nhưng cái đám học trò bọn tôi thời ấy không có roi e không xong, ngay cả ở nhà cũng cần cây roi của cha mẹ mới chịu học bài, vì toàn là lũ “rắn đầu, biếng học”, quen bắt cá, bẫy chim hơn cây bút, quyển vở.
Nhưng không chỉ có cây roi, thầy còn có nhiều “tuyệt chiêu” để trị đám học trò quỷ quái chúng tôi. Tôi dám chắc nếu có cơ hội làm thám tử, thầy dư khả năng làm một Sherlock Holms. Xin nói thêm, thầy Năm còn nổi tiếng từ thời đi học về tài thiện xạ bằng giàn thun và ná tên (nỏ). Tôi đã từng được thầy ưu ái cho đi theo làm trợ thủ cho thầy trong những lần đi bắn chim ban đêm. Dưới ánh đèn pin chim sẻ ngủ trên cành đu đủ bị thầy dùng giàn thun “tỉa” từng con, mỗi hòn đạn là một con, gọn đến nỗi con ngủ kề bên không hay biết. Thầy chỉ dùng ná tên để bắn cu đất. Mỗi lần đi bắn đêm thầy chỉ mang theo ba mũi tên, vì chỉ khi nào bắn trật mới mất mũi tên, có khi bắn hàng chục con chưa mất mũi tên nào. Vì vậy, những mũi tên của thầy nâu sẫm màu máu chim. Người trong làng đặt cho thầy hỗn danh “Năm Mèo”, có lẽ do tài săn bắn của thầy.
Trở lại tài thám tử của thầy. Chung quanh trường tôi, có nhiều soi trồng mía, đậu phụng – “soi” là đất pha cát bồi ven sông. Có lần chủ đất tới trường mắng vốn vì đậu phụng bị học trò nhổ trộm trong giờ ra chơi. Ông ta rình thấy mấy tay trộm nhưng không nhìn rõ mặt được. Chỉ cần năm phút là thầy tìm ra thủ phạm. Thầy bảo cả lớp ngửa bàn tay rồi nhổ nước bọt vào đó. Thầy đi qua một lượt là xách tai mấy thủ phạm lên trước bảng đen. Hết chối cãi vì nước bọt còn đục ngầu màu đậu phụng sống chưa kịp trôi vào bụng. Lần khác, một vụ trộm mía. Thầy bảo cả lớp thè lưỡi và nắm cổ mấy tay trộm mía vì cái lưỡi bị bã mía xước đỏ au.
Riêng lần chị Đào bị mất ngòi bút lá tre mới cảo mà thầy điều tra ra tức khắc mới tài. Đến bây giờ tôi vẫn chưa đoán ra thủ phạm là ai vì thầy không công bố sau khi vụ án kết thúc. Hồi đó ngòi bút lá tre quý lắm, mỗi năm cha mẹ chỉ sắm cho một ngòi, mòn phải mài lại để dùng. Bọn con trai vụng về, nghịch ngợm nên ngòi bút thường bị “chách” do bút rơi xuống đất hoặc chấm vào bình mực mạnh tay khiến đầu ngòi bị biến dạng do chạm vào đáy lọ mực.
Bị mất ngòi bút, Đào khóc như cha chết. Sau khi biết chắc là Đào bị tay quỷ quái nào đó trong lớp đánh cắp, thầy cho tập hợp cả lớp, hai tay vòng trên bàn. Thầy sai anh Toại, trưởng lớp, ra bụi tre hái mấy chục “tiêm” lá tre non còn xoắn lại bằng chân nhang. Thầy cắt thành mấy chục khúc bằng nhau, rồi bảo học trò hả miệng, đút cho mỗi nhóc một cộng, bảo giữ chặt một đầu giữa hai hàm răng. Xong, thầy bảo:
– Thầy muốn em nào lỡ lấy của bạn thì tự nguyện đem trả. Nếu không thì thầy cũng tìm được đứa ăn trộm và sẽ đuổi học. Thầy cho năm phút để tự thú. Nếu không, cọng tiêm lá tre trong miệng của đứa ăn trộm sẽ mọc dài ra…Cái miễu nầy linh lắm, không qua mặt được quỷ thần đâu.
Thầy nhắc đi nhắc lại câu chót mấy lần.
Cả lớp im phăng phắc, con ruồi bay qua cũng nghe tiếng đập cánh. Thầy ngồi trên bàn đảo cặp mắt “mèo” nhìn. Năm phút trôi qua, không có ai đầu thú. Thầy “cho” thêm năm phút nữa. Vẫn thế. Cuối cùng thầy kêu từng người lên để thu lại mấy chục cộng tiêm lá tre…
Vụ án kết thúc. Chẳng rõ thủ phạm là ai. Nhưng nạn nhân đã thu lại được ngòi bút do thầy trao hôm sau. Chính Đào đã khoe như thế.
Năm mươi lăm năm sau. Thầy Năm đã gần tám mươi tuổi, sống với người con trai út trong ngôi nhà cổ bên bờ sông Côn. Hai người con trai lớn làm ăn khá giả ở Sài Gòn. Tuy đã có tuổi nhưng thầy vẫn khỏe và minh mẫn, mắt vẫn tinh anh, dáng đi vẫn chững chạc, khoan thai. Với chiếc sõng nhỏ thầy vẫn thường đi câu, thả lưới trên sông để tiêu khiển. Còn sở trường bắn chim thì từ lâu thầy từ bỏ hẳn, nên vườn nhà thầy lúc nào cũng đầy tiếng chim, người ta bảo do trước kia thầy “sát” chim nên bây giờ “tu”.
Một lần về quê, tôi ghé thăm thầy. Bây giờ hai chúng tôi đã là bạn “già” của nhau, hễ gặp nhau là lai rai mấy sợi. Thầy nướng mấy con cá sông mới câu được để chấm muối ớt. Thầy không uống nhiều nhưng chiều nào cũng uống. Rượu trắng của thầy rất ngon và an toàn, không có chút mùi khê, cái hậu rất ngọt, vì thầy đặt lò rượu trong làng nấu riêng hàng chục lít để dành uống dần để tránh rượu pha cồn Tàu mua ngoài chợ.
Tôi nhắc lại “vụ án” ngòi bút lá tre bị năm xưa, rồi hỏi:
– Anh Năm nè, chớ hồi đó anh tìm ra đứa ăn cắp thực à?
– Sao lại không thực. Thầy cười và nâng ly rượu, khà một hơi, rồi tiếp. Thằng đó sau nầy đi lính địa phương quân tử trận. Thật tội. Nó bị rơi cây bút, ngòi bị gãy, nó không dám xin cha nó vì sợ bị đánh dập mình, nên lén rút ngòi bút của con Đào. Hôm đó, tao kêu nó đến nhà, chưa hỏi nó đã khóc, đem trả ngòi viết của con Đào. Tao cho nó một ngòi khác …Nó chết thật tội. Thầy nâng cốc rượu uống hết phần còn lại.
Trong làng, có bảy thằng lớp tôi tử trận. Theo lời thầy thủ phạm là một trong số đó. Thầy không tiết lộ tên hắn mà tôi cũng không muốn biết làm gì. Thầy rót cho tôi ly rượu, khề khà giải thích:
– Mẹo vặt lừa con nít thôi mà. Đứa ăn trôm sợ cọng tiêm lá tre mọc dài ra nên dùng răng cắn chặt ở đầu mỏm, khiến nó dập. Thấy là biết ngay…Hơn nữa, khi bọn bay ngậm cọng tiêm lá tre, tao đã thấy mặt nó tái mét, mắt lấm la lấm lét…
Như vậy, sau hơn nửa thế kỷ vụ án trộm ngòi bút lá tre đã được giải mật **
* Nam Thi
“ Với lòng kính trọng và biết ơn người thầy cũ. Các nhân vật trong truyện đã được thay tên, một số sự kiện có ít nhiều hư cấu nhưng không quá xa thực tế”.
04-06-2012.

Nho on chi Huynh Ngoc Nga gioi thiêu, tôi moi dduoc biêt trang xunau.org nây.
Tôi ddang sông o Danmark -miên Bac cua Châu Âu-, rât xa “nhà”, nên không tiên mua sách báo tiêng Viêt. Nay biêt duoc trang nây nhu tìm duoc kho tàng. Truy kiêm tên Nam Thi, thây danh sach bài viêt cua anh dài tham thuoc tôi mung lam. Tôi se ran nhâm nhi doc nhin nhin, vua doc vua ddê dành. DDoc 1 hoi hêt uông .
Tôi thích lam lam lam.
Trân trong cám on tác gia.
Huynh Phuong Linh
Trời tư dưng mưa to lại đọc bài thơ nhắc đến mùa hè lửa hoa phượng cháy rực rỡ..
. Thơ anh Ngữ lúc nào cũng lãng mạn và nhiều suy tưởng lắm
Xin lỗi anh Nam Thi,em comment lộn sân
Đến hôm nay mới lần mò vào được XN.
Đọc Vụ án ngòi bút lá tre, bỗng dưng thấy tự thương mình quá, cái thời trẻ con hiền lành dại khờ như củ khoai, cục đất. Năm mươi năm ai còn ai mất,hồi tưởng chuyện cũ mà cảm xúc không cũ.
Cám ơn anh Nam Thi.
Posted by 123.20.173.95 via http://webwarper.net, created by AlgART: http://algart.net/
This is added while posting a message to avoid misusing the service
Vượt tường, leo rào vào được xunau để còm với anh em lá quý rồi. Tình nghĩa thời tường lửa là thế đó.
Cũng là chuyện đáng nhớ, nhỉ? Cảm ơn ông bạn đầu bạc.
Mấy ngày rồi mới vào xunau và đọc được một truyện ngắn nghịch nghịch hiền hiền dễ thương
“Nghịch nghịch mà hiền hiền dễ thương”. Văn là người (?) nhưng không biết phải vậy không?.
Cảm ơn bạn chịu khó vào xunau và đọc truyện.
Chúc mừng anh Nam Thi về bút ký một thời thơ ấu. Chuyện kể như lời cám ơn người Thầy ngày xưa.
Chuyện khá hấp dẫn. Cám ơn anh.
Sao lại cảm ơn tôi. Để tôi cảm ơn bạn mới phải chứ.
Thầy thời nào cũng đáng vinh danh, mình nghĩ vậy. Còn kiếm cái xấu, cái tiêu cực thời nào, loại người nào chẳng có. Mình cũng có một ông thầy trung học mà mình không ưa đấy.
on Tháng Sáu 14, 2012 lúc 12:53 chiều | Trả lời Xóm Chùa
Dzẫy na. Chớ hôm nọ nghe ai nói vụ án lá đa xảy ra ở Quảng Ngãi vào đúng thời điểm Vinh “hả” còn dạy học ở quãi mờ. Xin lẫu, lộn Vinh “hả” với Vinh Gùa rầu.
————————-
Đúng, cái dzụ đó thì “có”_nhưng xảy ra mới có 35 năm hà? Còn cái “vụ án lá đa chị Đào” của “cha” NiTham ở Chúa Xòm xảy ra 53 năm rầu mà?
Dzẫy na! Ni Tham là “cha” nào dzậy? Thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, kéo tôi vô vụ án ấy làm gì, hữ!
on Tháng Sáu 14, 2012 lúc 12:01 chiều | Trả lời Xóm Chùa
Đúng là có ông VR quan tâm. Nếu xảy ra vụ án lá đa thì kêu thầy Vinh Rùa điều tra, xứ lý. Có khi chính ổng là thủ phạm.
____________________
Trời đất…! chiện xảy ra hơn nửa thế kỉ thì “thầy Vinh Rùa” còn “chửa” có,nói chi đến… “thủ phạm dzụ án lá đa”? Chính xác là “ông”Nam Thi ở Xóm Chùa rầu(?)….”tự khai”,hen?
Dzẫy na. Chớ hôm nọ nghe ai nói vụ án lá đa xảy ra ở Quảng Ngãi vào đúng thời điểm Vinh “hả” còn dạy học ở quãi mờ. Xin lẫu, lộn Vinh “hả” với Vinh Gùa rầu.
“Đọc cái vụ…lá tre của anh, nhớ đến lá bầu…”
—————————–
@ Làm gì có “lá bầu” hở Huê Kì? là… “ngòi bầu” chứ?
@ Nam Thi: chị Đào bị mất…lá tre,thì…nhằm nhò gì? chỉ sợ mất….lá đa thì mới quan tâm chứ?
Đúng là có ông VR quan tâm. Nếu xảy ra vụ án lá đa thì kêu thầy Vinh Rùa điều tra, xứ lý. Có khi chính ổng là thủ phạm.
Đọc cái vụ…lá tre của anh, nhớ đến lá bầu. Và nhớ nhất hồi đó từ cặp-táp, sách vở, bàn tay, đến quần áo dính tèm lem nào xanh, đen, tím màu mực dây từ hủ mực lúc nào cũng kè kè mang theo. Đúng là một kỷ niệm thời thơ ấu.
Bây giờ bàn tay bẩn kiểu khác với chất liệu khác, đôi khi lại được khen (sic)
Tui thích cách “xử” của Thầy Năm trong truyện “xử mà nh ư không xử” đã cảm hoá cuộc đời đứa học trò “sợ đòn”…như tình cha con .
Đó là chuyện hồi con nít. Bây giờ ông nào bày đặt trộm lá tre, lá trúc, lá bầu, …là đi tù nhe.
Những kỉ niệm của một thời đi học về tình bạn bè, tình thầy trò rất cảm động. Chúc ngày mới an lành.
Mình viết đề tài nầy – chuyện “hồi đó” – chắc sắp “đi” rồi. Huhu
Chắc kiếm chuyện “đương đại” để viết cho sống dai chơi nhé. Chẳng hạn, tình yêu thời @, cụ thể:” Cưng quơi, đừng delete tên anh”, … best seller há?
Vui nhé bịnh sỹ.
Đọc VỤ ÁN NGÒI VIẾT LÁ TRE thích sao là thích !Anh NT biết sao hông? hì..hì..bị dzì có tên những ngôi trường,địa danh mờ PLH đã từng “gõ đầu trẻ” ở đóa í!- hổm rày dzô trang hổng được nên còm muộn ,đững hờn nha anh!
Posted by 113.165.211.196 via http://webwarper.net, created by AlgART: http://algart.net/
This is added while posting a message to avoid misusing the service
Biết mà. Mấy bà chị tôi hồi đó cũng dạy ở TN. Rất tiếc không có cơ hội để Phàn gõ đầu. Chắc Phàn cũng biết thầy Trần Đắc…
Để ngoài mình bớt nóng, NT sẽ về thăm. Ở SGN quen rồi, năm nào về gặp gió Lào cũng “bịn”. Mất gốc rồi.
Hẹn Cau Vua.
Máy hổm rày cũng hổng dô được mới dô được thì có hàng chữ của dịch vụ nó đeo theo nên thấy khó chịu quá chừng. Thâu ! đọc xong thấy kỉ niệm của người cùng quê rất gần gũi với mình là vui lắm rùi.
(HTG thích cái vụ án ngòi bút lá tre bởi đã là thầy chỉ cần liếc mắt là biết người gian..bởi nó không …bình thường.)
Posted by 113.165.209.102 via http://webwarper.net, created by AlgART: http://algart.net/
This is added while posting a message to avoid misusing the service
Chờ mãi mới thấy Hoa
Thấy hoa như thấy quê nhà.
Liếc qua là biết liền:
Phe ta !
haha