-Lê Hoài Lương – Quế Sơn – Hà Tùng Sơn – Thế Ngọc
A-TÁC PHẨM VÀ DƯ LUẬN
Bên sông vọng một tiếng đàn
(Đọc tập thơ “Dạo đàn bên sông” của Văn Công Mỹ, NXB Trẻ 2012)
Tôi đọc một mạch hết 72 bài trong “Dạo đàn bên sông” và hiểu Văn Công Mỹ chủ ý chọn bài “Chào buổi sáng” xếp đầu tập. Bài thơ thế này: “Sớm mai nổi hứng ra vườn/ Đi cho hết cõi vô thường xem sao?/ Đi từ bước một chiêm bao/ Thêm hai, ba, bốn… té vào trăm năm!” Chủ ý từ việc mượn nguyên xi tên một chương trình ti vi làm cái tựa. Và lời “chào” của anh gửi bạn đọc là một cách khái quát về mình, đúng hơn, về thơ mình. Thấy ngộ và gợi. Ngộ từ cách nói nống lên: “đi cho hết cõi vô thường”, đến “bước một”, bước khởi đầu lại là “chiêm bao”, rồi đếm rồi ngẫm, hai, ba, bốn… , hình như chưa kịp hiểu gì mấy, đã “té vào trăm năm”. Cuộc thơ- cuộc người nhẹ tênh! “Chào” vậy, tự bạch vậy, ấn tượng lắm.
Bảy mươi hai bài, phần nhiều tứ tuyệt và tứ tuyệt lục bát nên đọc cũng nhẹ nhàng. Nhẩn nha đọc rồi thú vị thưởng thức hoặc chia sẻ cùng tác giả. Nói “đọc cũng nhẹ nhàng” một phần chất thơ của Văn Công Mỹ không nặng nề triết luận, không dụng công ám dụ, chơi chữ, không điệu đà làm sang. Thơ anh đúng là một cuộc “nổi hứng” mà so dây, dạo đàn. Cho mình. Cho người, nếu vọng chút tri âm.
Thơ là tiếng lòng của thi nhân xưa nay. Văn Công Mỹ cũng vậy. Đó là những giãi bày, chia sẻ, những trải nghiệm, những khám phá. Về mình. Về nhân sinh. Cũng không có gì mới những giễu cợt mình, những bế tắc trước câu hỏi rốt ráo về kiếp người, những vô vọng trước khao khát tồn tại. Và yêu, hy vọng và tuyệt vọng.
Nghĩ về mình, cả giễu mình, chưa chắc đã đáng tin, thời vàng thau lẫn lộn: “Tôi thường mơ mộng bên hiên/ Có hoa có bướm có tiên trên trời/ Tỉnh ra chỉ thấy mặt người/ Đôi khi có cả đười ươi, hết hồn!” (Mơ mộng). Nghe sang vậy kiểu giật mình thấy đâu đó “đười ươi” quanh mình. Nhưng chưa hẳn nhiều thuyết phục, vì xét cho cùng, dễ gì phân biệt một cách tách bạch người với đười ươi- ở khía cạnh thi sĩ? Vì có người sẽ viết theo logic đó mà ngược lại rằng, đôi khi gặp mặt người trong thế giới toàn đười ươi, cũng giật mình không kém!
Hoặc một kiểu “làm sang” vừa kiêu bạc vừa đượm thiền:
Nước lên chiều xuống khơi khơi
Có phù du cũng rối bời tóc bay
Này môi mắt, này chân tay
Này là hư ảo hình hài sắc, không
Mây trôi cho trắng tận lòng
Bên sông bẻ kiếm vời trông luân hồi.
(Bẻ kiếm bên trời)
Cũng nhiều thi sĩ ưa thích cách nói này, và dù hào sảng hay an nhiên- phiêu hốt, khí khái hay u uẩn- bất đắc chí,…, vân vân, cả “tự vịnh” giễu nhại mình nữa, cách gì cũng là kiểu ve vuốt cái tôi cá nhân thi sĩ.
Thôi thì, trừ biểu hiện “yêu mình” căn cốt này, thử xem ở chất đa cảm đa tình cố hữu của thi nhân, Văn Công Mỹ có gì khác? Nói nôm na là, một trong những ám ảnh lớn nhất của đời người là tình yêu nam nữ, là cuộc ghép đôi nhiều tính duyên nợ, người thơ này thể hiện ra sao? Thử đọc một vài: “Lời thơ tôi tệ như tôi/ Có canh tân cũng rã rời vô duyên/ Cũng may còn chút yêu em/ Tôi đem ván mục đóng thuyền chở thơ” (Ngó lại mình); hoặc: “Biết em là thánh nữ/ Nhưng tôi chẳng cầu kinh/ Mà lại đem sính lễ/ Bắt ái tình đóng đinh” (Nghiệp chướng). Rồi “ăn gian” luôn với quá khứ: “Những người bạn gái ngày xưa/ Khăn len, yếm thắm khi chưa lấy chồng/ Giờ son phấn nhớ má hồng/ Giờ tôi già chát đèo bồng cố nhân…” (Những người bạn gái).
Đã thấy, từ một vài ấy, thi sĩ họ Văn có cách riêng của mình khi chạm vào muôn năm tình không cũ. Vì quá yêu mà táo gan “đem ván mục đóng thuyền” chở chút ảo tưởng, cũng từ yêu mà dám vào cuộc khổ nạn đóng đinh ái tình. Anh viết cho vợ, cho người ngày xưa tên Th., cho những “em” nào đó bát ngát trong cuộc đời thật nhiều cảm xúc. Nhưng có lẽ hay nhất vẫn là bài viết về những người bạn gái. Bài thơ bốn câu này có thể xếp vào hàng những bài thơ trữ tình độc đáo. Hai câu đầu quen thuộc và xưa cũ để chuẩn bị cho hai câu sau thật lạ. Sao mà thương, mà u hoài, mà cam chịu, mà nhân tình cách nói “giờ son phấn nhớ má hồng, giờ tôi già chát đèo bồng cố nhân”!
Ở mảng “cho mình” với những bộn bề riêng tư, Văn Công Mỹ còn một góc riêng đau đáu là quê hương. Anh người Quy Nhơn, Bình Định, giờ sống ở Sài Gòn, xa quê, anh có cách nói như lời tạ tội với quê, một trần tình đầy “lỡ vận”:
Nhánh rong buồn buổi bôn ba
Lòng sông trong đục quê nhà mù tăm
Nổi trôi đâu một chỗ nằm?
Thôi thì lỡ vận trăm năm xứ người.
(Rong buồn)
Chẳng ai lợi dụng được gì từ quê hương nên không bắt buộc phải viết về quê nếu không thật có tình. Quê của anh cũng là mẹ, là ký ức, là những người bạn tuổi nhỏ…, nhưng trở đi trở lại nhiều là chi tiết dòng sông. Dòng sông được viết trang trọng và thiêng liêng như một ẩn dụ, một hình tượng nghệ thuật. Dòng sông là cõi hồn riêng để giãi bày, để bấu víu. Tất nhiên sông-quê cũng là sông-đời.
Và đó là nguyên cớ sâu xa để một người quá “ngũ thập”, bỏ quên những vần thơ tuổi hoa niên gần bốn chục năm, giờ bên sông mê mải so dây nâng phím. Từ xuất phát điểm này, cuộc “dạo đàn bên sông” của anh chắc sẽ ngân vọng bởi những trần tình chân thành, những “lột trái” mình đáng tin cậy. Ít nhất là sẽ gặp những bất ngờ thú vị với cách thể hiện rất riêng của anh từ những đề tài, nội dung quen thuộc như đã dẫn. Đó là nét bụi bặm, tự giễu và cách nói dân dã, tất cả thường được bật ra một cách nguyên sơ. Nó tự nhiên và lóng lánh.
Cũng từ ưu thế này, nghe suốt “cuộc đàn” sẽ có đôi khúc hòa âm trùng lặp, đôi chỗ khép lại còn có cảm giác thiêu thiếu. Mà thôi, chỉ biết đó là những khúc tâm ca, những bật thốt dù ê a, dù minh triết, tất thảy đều chân thành lắm.
Nên, bên sông ấy, một tiếng đàn mới đã ngân lên nhiều âm vọng.
Lê Hoài Lương
—————————-
Đây là bài nói chuyện của Quế Sơn mở đầu buổi ra mắt (đêm 6-6-2012) tập thơ “Dạo Đàn Bên Sông” của Văn Công Mỹ (bản rút gọn) :
Mỹ làm thơ từ nhỏ nhưng anh đã gác bút khi mới…mười bảy tuổi, và gần bốn mươi năm sau mới làm thơ lại, tức là từ hơn hai năm nay. Theo chỗ tôi biết, có lẽ đây là một hiện tượng, tuy không phải là duy nhất, nhưng quả là hiếm có. Bốn mươi năm gián đoạn, nên việc làm thơ lại không phải là không nhọc nhằn đối với Văn Công Mỹ.
Nhưng có chuyện quan trọng đáng nói là: Ai đã thoát thai một lần, thì thấy không có gì ghê sợ hơn…là việc phải quay trở lại nhập vào thân xác cũ của mình…dù đó là thơ đi nữa. Vậy mà qua suốt tập thơ Dạo Đàn Bên Sông, tôi không thấy dấu vết sự ghê sợ đáng sợ đó…hoặc giả ở một cực ngược lại cũng không thấy một sự phấn khích ngất ngây. Trong thơ Mỹ, tôi chỉ thấy một sự điềm tĩnh, dịu dàng, và chân tình thật sự.
Sự điềm tĩnh này, khi đọc thơ Mỹ, thấy nó thể hiện khá rõ trong những câu thơ có mang theo dấu hỏi. Ngay trong bài đầu Chào Buổi Sáng, ta bắt gặp :” Sớm mai nổi hứng ra vườn. Đi cho biết cõi vô thường xem sao?” hay: “ Phù vân thì tất mây bay. Riêng tôi cát bụi sao đầy truân chuyên?”(Dấu Hỏi) Ngắn gọn hơn thì có: “ Bèo bọt hoa trôi chăng. Sao đời ta trôi mãi?”(Bèo Bọt) và: “ Nơi nghìn trùng xa ngái. Đâu rồi phiến ngọc rơi?”(Đâu Rồi). Tại sao lại nói đến những câu thơ mang dấu hỏi ở đây? Bởi chúng hé mở nhanh nhất cho ta thấy hồn thơ của Mỹ: Một hồn thơ chứa đựng hay làm bằng những nỗi ngậm ngùi dâu bể và những buồn vui đời thường, với thành phố quê nhà, với hiền thê; bên cạnh là những tự vấn thâm trầm, những vỗ về nhẹ nhàng, những an ủi dịu dàng cho kiếp nhân sinh.
Và đối với người đọc thơ, niềm vui là ta thấy nơi người làm thơ ấy có một…hồn thơ chứ không chỉ có cái…xác chữ, và vui hơn khi thấy người làm thơ ấy ngày càng đào xới rộng hơn, sâu hơn cái hồn thơ riêng mình. Gần bốn mươi năm mới quay trở lại, mà Văn Công Mỹ vẫn giữ được một hồn thơ tươi rói, âu cũng là một điều lạ.
Dựa theo ý một nhà văn nước ngoài, tôi xin viết lại như sau: “ Các bài thơ,các câu thơ giống như những que diêm, còn tâm hồn người đọc như một chiếc đèn. Que diêm chỉ có thể mồi được ngọn lửa cho chiếc đèn. Còn sự tỏa sáng, chính là từ chiếc đèn, của chiếc đèn. Tức là cảm nhận của chúng ta, những người đọc thơ ” để gợi ý với các anh chị cứ nhẩn nha đọc thơ Mỹ, đọc chậm để xem những que diêm bật cháy như thế nào và những ánh sáng từ trong ta lan tỏa ra sao ?
Quế Sơn
——————————————————
VĂN CÔNG MỸ VÀ DẠO ĐÀN BÊN SÔNG
Hà Tùng Sơn
Văn Công Mỹ sinh năm 1956, dân Tây Sơn Bình Định, là nơi dấy nghiệp của anh em nhà Quang Trung – Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, nếu anh em nhà Nguyễn Huệ từ quê gốc Nghệ An vào Tây Sơn dấy nghiệp thì Văn Công Mỹ lại từ Tây Sơn vào Sài Gòn dấy nghiệp.Anh cùng bà xã Trần Thanh là chủ nhà hàng Sông Trăng nổi tiếng bên bờ sông Sài Gòn mà dân Sài Gòn sành ẩm thực và sành điệu không ai là không biết. (Ngoài ra còn phải kể thêm các chi nhánh của chuỗi nhà hàng này ở Sài Gòn như Cháo vịt Sài Gòn 40 Trần Cao Vân, Quận 3; Nhà hàng Sông Trăng 2 ở số 2 Hàn Thuyên Quận Thủ Đức…). Đó là chưa nhắc đến ngôi biệt thự độc đáo cũng bên bờ sông Sài Gòn của gia đình anh được xây bằng 28 cái container 20peet không cần móng, không cần gạch, không cần cả xi măng cốt thép gây bất ngờ và thú vị cho mọi người.Với tất cả những điều đó, Văn Công Mỹ thực sự là người đàn ông thành đạt và có nhiều may mắn trong giới kinh doanh ẩm thực ở Sài Gòn. Đến bây giờ thì có thể khẳng định, số phận và cuộc đời đã nở nụ cười tươi với Văn Công Mỹ và gia đình anh.Nhưng nói thế vẫn chưa đủ về Văn Công Mỹ bởi dù quen biết với anh đã lâu nhưng mãi dịp mùa Noel và cuối năm 2011 này, tôi mới biết thêm anh còn là một người đam mê văn chương, nhất là sáng tác thơ ca. Ít ai biết rằng vào những lúc rảnh rỗi nhất sau một ngày tính toán với những con số lời lỗ, những ý tưởng kinh doanh mới; anh lại dành cái khoảng lặng cuối cùng của một ngày cho nàng thơ với những câu thơ đầy chất suy tưởng về cuộc đời, về con người.Và mới đây, anh đã tập hợp được 72 bài thơ tâm đắc để in thành tập Dạo đàn bên sông, do Nxb Trẻ ấn hành.Có thể xem Dạo đàn bên sông là sự ra mắt chính thức của Văn Công Mỹ trong làng thơ của những cây bút mới ở Sài Gòn. Anh là một nhà thơ trẻ dù không còn… trẻ bởi anh đã bỏ lại sau lưng cái tuổi 55 của thời ngũ thập tri thiên mệnh rồi.Ngồi bên sông liếc nước trôiThả năm lăm tuổi xuống đời lênh đênh(Hy vọng cuối) Tôi đã đọc thơ Văn Công Mỹ và nghiệm ra rằng có lẽ do sinh ra từ bên một dòng dòng (sông Kôn), lập nghiệp và định cư cũng bên một dòng sông (sông Sài Gòn) nên thơ Mỹ thường có hình ảnh của dòng sông với cái nhìn từ bên một dòng sông.
Ngồi bên sông ngó nước trôi
Tôi năm lăm tuổi thấy đời nghiêng theo
Từ ban mai đến xế chiều
Nối đêm nguyệt tận gió đìu hiu bay.
Hoặc:
Ô hay bữa nọ trong quán nhỏ
Có kẻ trầm tư hát một mình…
Và tôi thích anh từ những câu thơ thâm trầm như thế.
B -NHỮNG CHUYỆN BÊN LỀ RA MẮT TẬP THƠ
DẠO ĐÀN BÊN SÔNG
1-Chiều 6/6, kẹt xe, tôi đến trễ 15p. Vừa bước vào quán Sông Trăng tôi đã được các nhà thơ Kim Loan, Kim Chi, Khảo Mai lôi vào chụp hình. Nhà thơ Yến Du mang cuốn thơ đầu tay “ Dạo đàn bên sông” của Văn Công Mỹ đến trao. Trên bìa có mảnh giấy ghi tên tôi. Vừa trao xong, Yến Du lột bỏ mảnh giấy ghi tên vụt đi, một người bạn đùa: “ Thế là ngưới đẹp Yến Du đã lột tên anh rồi” Tôi bèn mỉm cười nói nhỏ Yến Du “em lột một lần thôi chứ đừng lột nhiều lần, anh …hết xiết”.
2-Tập thơ “Dạo đàn bên sông” của Văn Công Mỹ in nhỏ nhắn xinh xắn do NXB Trẻ ấn hành gồm 72 bài thơ dễ làm lay động lòng người kể cả những người ít mê thơ mà lỡ đưa mắt đọc qua “Dạo đàn bên sông”, nhưng thôi việc đi sâu vào hương liệu của tập thơ hãy để các nhà bình thơ làm việc. Tôi chỉ đi loanh quanh chuyện bên lề.
3-Các khách mời đều được tặng tập thơ với lời đề tặng trang trọng của tác giả. Dịch giả Quế Sơn đã “khai pháo đêm hội ngộ” với việc giới thiệu vài nét về tập thơ. Tiếp đến là phần phát biểu của học giả Nhật Chiêu, nhà thơ Phạm Chu Sa cùng công trình biên tập của nhà thơ Bùi Chí Vinh.
4-Ban nhạc gồm guitarist Nguyễn Hải và một pianist đã đệm khá cả cho phần ngâm thơ và phần tân nhạc cây nhà lá vườn do anh chị em Xứ Nẫu và thân hữu thực hiện Đặc biệt có một bé thiếu nhi khoảng 4-5t đã biểu diễn độc tấu piano rất khá một nhạc phẩm cổ điển. Nhà thơ Hoàng Kim Chi cũng khuấy động phong trào với hai bài hát sôi động “Dừng bước giang hồ, Vết son trên áo”
Đạc biệt hai nhạc phẩm tình ca Aline, Mal cũng được nhiều người ưa chuộng qua giọng hát của hai “nẫu sĩ” nam.
5-Cảm động nhất là tình cảm sâu đậm của đôi vợ chồng Mỹ-Thanh khi bày tỏ sự yêu thương vun đắp cho nhau trong cuộc sống lứa đôi để cho ra đứa con tinh thần “Đạo đàn bên sông” trong đó nhà thơ Văn Công Mỹ thể hiện tính galant của người chồng yêu vợ trong 4 câu thơ “Vẫn là em tự ngàn xưa/ Áo tinh khôi níu gió đùa bước chân/ Môi hồng biết níu thanh tân/ Em độ lượng níu thanh xuân cho chồng (Vẫn là Em)
6-Bài hát “cà ri dê” (Aline) tái xuất hiện (trong bài của TTT”Một thuở yêu đàn còn vương kỷ niệm” đăng trên Xú Nẫu) do DS Trương Tất Thọ thể hiện ghi nhớ lại một thời sinh viên đi đàn kiếm tiền. Sau khi hát xong, TTT đã được nhà báo lão thành (nhưng còn rất trẻ) Nam Thi tiếp thị là tác giả chuyên viết về “Nam khoa” trên báo TN thuở nào và sau đó liền được mời …viết thêm cho mục sức khỏe một báo bạn do nhà thơ Phạm Chu Sa giới thiệu.
7-Một bữa ăn thịnh soạn, ngon miệng do nhà hàng Sông Trăng chiêu đãi làm thực khách lưu luyến không muống dời chân, ước rằng “Đến đây thì ở lại đây, bao giờ bén rễ xanh cây mới về”.
Thế Ngọc
(12g 6/6/2012)

Cảm ơn anh Văn Công Mỹ về tập thơ anh gửi tặng. Chulanbinhdinh đã nhận được thơ rồi.
Chúc mừng tập thơ đầu tay của anh.