Nam Thi
KHI tôi còn nhỏ học ở trường làng, khó khổ nhất của bài tập làm văn là nhập đề. Khi cắn cán bút lá tre tơi tả vẫn không tìm được ý để viết, chúng tôi thường vào bài với câu: “nhà em có nuôi một con…” để tả con bò, con gà, con lợn… Ngay cả bài hát phổ biến trong các trường tiểu hóc lúc đó cũng có câu nhập đề y chang: “em có nuôi một con chó, trông nó ngoan như con …bò. Mai nó kêu quấu quấu quấu, trưa nó kêu quâu quâu quâu, chiếu nó kêu quầu quầu quầu…”. Ca từ chỉ có thế, đễ thuột, dễ “hét” đến khan cổ sau mỗi buổi học.
Nay tuy chữ nghĩa của tôi đã khá hơn mấy chục năm trước nhưng cũng xin bắt đầu câu chuyện bằng câu “ nhà tôi có nuôi một con chó”, tên nó là Bôn. Thật ra, lúc đầu con gái lớn của tôi đặt tên nó cho nó là Apple, quả táo. Đến bây giờ tôi cũng chẳng hiểu vì sao Phong, con gái rượu của tôi, lại lấy tên trái cây để đặt cho chó, nhưng cả nhà chấp nhận tên đó vì Phong mang Apple về nhà. Chẳng bao lâu, Apple được Việt hóa là Bôn, bởi truyền thống đặt tên chó thường một từ gọn lỏn như Mực, Vện, Vàng, Ki,…Apple có tới hai âm “ay” và “pôn”, rút gọn lại với âm cuối pôn, và sau cùng Pôn thành Bôn.
Bôn thuộc giống chó Nhật lông xù. Cô cả nhà tôi mang nó về khi nó mới vài tháng tuổi, dài chỉ hơn hai gang tay. Bởi một kỷ niệm buồn về chó từ thuở bé nên tôi vốn “sợ” nuôi chó. Nếu con tôi báo trước chắc tôi cản cô bé không nên nhận Bôn về nuôi. Nhưng mọi sự đã lỡ nên tôi đành chấp nhận. Năm ấy, Phong chuẩn bị thi Tú Tài, bạn của nó đem “gửi” Phong nuôi hộ Bôn vì ba mẹ cô ta định cho hết ba con chó con mới sinh. Theo lời trình bày của Phong “ nó chỉ gửi nuôi dùm mấy tháng thôi rồi nó bắt về”. Không biết Phong có thực sự tin lời hứa đó không nhưng tôi thì biết chắc Bôn sẽ ở lại nhà tôi vĩnh viễn. Tội nghiệp cô bé chủ cũ của nó mỗi lần đến thăm đều ôm nó hôn rối rít, trò chuyện huyên thuyên nhưng về sau các cuộc viếng thăm sưa dần và cuối cùng không thấy cô ta nữa có lẽ vì bận học hành thi cử và biết Bôn đã có chỗ nương thân tin cậy. Mấy tháng sau, con gái tôi đi học xa, vợ tôi thay thế chân “mẹ nuôi” của Bôn. Đến lượt Bôn thay thế Phong để nhận sự chăm sóc, vỗ về của vợ tôi, khi các con gái của bà lần lượt rời xa gia đình, bởi một người mẹ luôn cần có “người” để thương yêu và được thương yêu. Tuy chỉ là một con vật nuôi nhưng Bôn gần như trở thành “con út” của bà và có lẽ của cả tôi nữa không chừng. Mỗi lần bà tắm cho Bôn trong toilet, nghe bà cằn nhằn: “ Bôn, yên cho mẹ tắm cho. Hư…” giống như xưa bà tắm cho hai con gái tôi.
NHƯ đã kể ở trên, tôi có một kỷ niệm buồn về nuôi chó từ thuở ấu thơ. Tôi đã một lần nuôi chó lúc năm sáu tuổi gì đó. Nó là một con chó vàng bụ bẫm, đuôi xoắn lên lưng, ngược về bên trái, mũi đen ướt, bụng thon, chân sau có “đeo” nhỏ. Theo kinh nghiệm nuôi chó quê tôi, tướng chó như con Vàng là rất tốt, trung thành, dễ dạy và săn giỏi. Tôi với Vàng quấn quít bên nhau suốt ngày. Thuở ấy, thiếu cơm, thiếu mắm nhưng tôi luôn lén chia phần cơm của tôi cho Vàng nên thường bị các chị của tôi mắn là “đồ ngu”. Người nghèo thì chó cũng khổ. Vào những năm đầu của thập niên 1950, ở vùng quê tôi – Bình Khê, Bình Định – mất mùa, bao nhiêu thóc gạo được huy động cho chiến trường, dân ăn độn khoai sắn nhiều hơn cơm gạo. Cho nên chó chỉ ăn cám heo, thậm chí ăn phân người. Trẻ em ngồi chòm hỏm thải ra bao nhiêu, con chó đứng chờ sẵn phía sau dọn sạch sẽ tức thì. Người thời nay chắc không tin chuyện ấy, nhưng đó là sự thật.
Dường như đó là năm 1953 khi quân Pháp mở chiến dịch tái chiếm vùng khu 5, đổ bộ từ biển lên và đánh nống từ An Khê xuống – khi tôi lớn đọc lịch sử mới biết đó là chiến dịch Atlant. Việt Minh phát động tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống để quân Pháp có vào cũng không trụ lại được. Không biết ông cán bộ nào ở làng tôi có chủ trương giết hết chó để “bảo mật” vì chó sửa sẽ làm lộ sự chuyển quân của du kích. Thế là trong mấy ngày liền ngưới ta đua nhau săn chó, giết chó. Ai tự nguyện thì có quyền ăn thịt chó của mình. Ai không tự nguyện thì du kích, dân quân bắt được chó là xơi, còn bị dọa phạt. Cả làng tôi thơm lừng mùi thịt chó trong mấy ngày liền. Có người còn ướp muối thịt chó để dành ăn dần. Ban đêm tịnh không nghe một tiếng chó sủa.
Tôi ngây thơ nghĩ rằng con Vàng bé tí xíu không thuộc diện truy sát. Một sáng tôi qua nhà bên xem mấy ông dân quân làm thịt chó mới săn được. Con Vàng lẻo đẻo chạy theo tôi. Tôi mãi xem người ta mổ chó, bỗng nghe “ẳng” một tiếng, quay lại thấy con cún Vàng nằm giãy đành đạch, miệng ứa máu đỏ lòm. Tôi chưa kịp khóc, đã bị ai đó mắn: “Mày giấu con chó hã? Mầy về bảo chị mầy đem giạ lúa nộp phạt…”. Tôi kinh hoàng chạy về nhà, vừa chạy vừa khóc. Cũng may, chẳng ai đòi giạ lúa nộp phạt…
TỪ ẤY, tôi sợ nuôi chó vì mỗi lần thấy chó con là tôi nhớ con Vàng xấu số. Thế mà số phần nào đó đã đưa Bôn đến nhà tôi. Bôn khôn lắm. Nghe tiếng xe gắn máy của tôi về là nó chạy quắn quít trên hành lang sủa inh ỏi. Tôi tập thể dục, nó chơi với chiếc dép nhựa đứt. Tôi ném chiếc dép trượt dọc theo lối đi, nó vội đuổi theo, chụp, cắn, day theo bản năng săn mồi tưởng chừng đã phai mờ sau bao thế hệ làm vật nuôi. Thời nay dư thừa hơn xưa nhiều, thức ăn để qua đêm là bỏ, nên Bôn lãnh phần thanh lý. Mỗi lần thấy nó bỏ phí thức ăn, tôi lại chạnh lòng nhớ đến con Vàng thuở xưa khốn khó. Nó bị tiêu chảy, bỏ ăn là vợ chồng tôi chở đi thú y. Trong những lần được “xuống phố” hiếm hoi đó, nó mới có dịp tiếp xúc với những con chó khác. Nó mừng như gặp người thân, khó khăn lắm mới kéo nó lên xe về nhà…Sau nầy, khi Bôn không còn ở với chúng tôi, tôi mang một mối ân hận khôn nguôi, đó là suốt đời Bôn chưa có bạn tình, chưa một lần sinh đẻ. Tội nghiệp, cứ đến kỳ động đực là nó bỏ ăn, nằm liệt mấy ngày…Tôi cũng biết nó có nhu cầu nhưng sợ nó sinh một bầy chó con ngoài ý muốn. Nghĩ lại, con người thật ích kỷ.
Một buổi sáng, tôi phát hiện một con chuột to chết ở cầu thang do hàng xóm bỏ bã trong đêm trước. Tôi nhặt con chuột bỏ túi nylon để ở hành lang, tính đi toilet xong sẽ đem xác chuột đi vất. Khi tôi làm vệ sinh xong thì con Bôn đã xé túi nylon kéo xác chuột ra chơi tự bao giờ. Tôi giành xác chuột đem đi vất. Hai giờ sau, Bôn thấm thuốt độc, chạy điên cuồng mấy vòng trên hành lang rồi lăn đùng, trào bọt mép, co giật. Tôi chạy lại ngồi bên nó, vuốt mắt nó, và khóc. Dường như nó cũng nhìn tôi lần cuối trước khi nhắm mắt.
Nghĩ cũng kỳ, trong đời tôi từng chứng kiến bao nhiêu người thân, đồng đội chết mà tôi chưa từng khóc. Cha mẹ tôi mất lúc tôi còn trứng nước, chưa biết khóc. Thế mà tôi đã khóc Bôn. Dàn dụa nước mắt vĩnh biệt Bôn.
Câu chuyện về Bôn có thể dừng ở đây nhưng còn một chi tiết nữa tôi muốn chia sẻ với bạn đọc. Sau khi Bôn chết, tôi tâm sự với một bạn thân ở Phan Thiết. Mấy hôm sau bạn tôi gửi mail chia buồn kèm theo một tài liệu về chó mà tôi xem đó là điếu văn dành cho Bôn. Mời bạn xem bản dịch từ nguyên bản tiếng Anh sau đây.
Diễn văn hay nhất thiên niên kỷ.
Diễn văn của LS.George Graham Vest tại phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó cưng của thân chủ ông, được phóng viên William Salire của tờ New York Times bình chọn là hay nhất trong số các diễn văn, lời tựa trên thế giới trong suốt thiên niên kỷ qua.
Thưa các ngài bồi thẩm.
Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế gian nầy có thể một ngày nào đó trở thành kẻ thù, trở mặt chống ta.
Con cái mà ta nuôi dưỡng và thương yêu hết mực có thể là con bất hiếu, vô ơn;
Những người gần gũi thân thiết nhất, những người ta gửi gắm danh dự và hạnh phúc, có thể trở thành kẻ phản bội, phụ lòng tin và sự trung thành của ta;
Tiền bạc mà con người có được có thể sẽ mất ngay khi ta cần tới nó nhất;
Tiếng tăm cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi hành động dại dột nhất thời;
Những kẻ thường phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận
Thưa quý vị,
Duy nhất có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới vị kỷ nầy, người bạn ấy không bao giờ bỏ rơi ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn bội nghĩa hay tráo trở – đó là con chó của ta;
Con chó của ta luôn luôn ở bên cạnh ta, trong phú quý cũng như lúc bần hàn, lúc khỏe mạnh cũng như khi ốm đau;
Nó ngủ trên nền đất lạnh, cho dầu gió Đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết dập vùi để được cận kề chủ của nó;
Nó hôn bàn tay ta dầu khi ta không còn chút thức ăn gì cho nó;
Nó liếm vết thương, những trầy xước của ta khi ta va chạm với cuộc đời tàn bạo nầy;
Nó canh giấc ngủ cho ta như thể ta là một ông hoàng bà chuá cho dù ta chỉ là kẻ ăn mày. Dù ta đã tán gia bại sản, thân tàn danh liệt thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta vẫn rạng rỡ như vầng thái dương trên bầu trời;
Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không người thân, bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành của ta chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống trả kẻ thù;
Và đến khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh thì khi ấy tất cả thân bằng, quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng, họ quay đi để sống tiếp cuộc sống của họ. Khi ấy vẫn còn nằm bên nấm mồ mới của ta – con chó cao thượng thủy chung của ta. Nó nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt buồn vẫn mở to cảnh giác, trung thành và tận tụy ngay khi ta đã qua đời./.
* Nam Thi
29-3-2012.

Chó là con vật rất trung thành dù chủ có đối xử với nó như thế nào, nó cũng khộng phản chủ. Một bài viết hay và cảm động. MN ấn tượng với bài diễn văn đúng là hay và lạ nhất thiên niên kỉ.
Chào Minh Nguyệt, khách quý đến thăm muộn. Cảm ơn
Chính vì bài “cáo trạng” của LS. G.G.Vest quá hay, nên tôi mới “ăn theo”. Dầu sao độc giả cũng nhận được món quà 2 trong 1.
Nhân đây, một lần nữa NT xin cảm ơn các bạn đã đọc và nhận xét, phê bình. Tôi cũng xin lỗi về những lỗi chính tả không đáng có nhưng chưa kịp biên tập thì bài đã “lên khuôn” ví dụ “THUỘT bài” – C mới đúng,…Sự nghiêm túc trong văn chương, dẫu là “chơi”, không bao giờ thừa.
Hẹn gặp lại.
Câu chuyện về ” Bôn ” của anh Nam Thi rất hay, lôi cuốn và rất đời thường, làm ai cũng phải nhớ tới vật cưng của mình. ĐO cũng nhớ tới cô chó xù Lucky của mình. Ngày em bị ” bắt cóc ” ĐO cũng khóc đến 2,3 ngày và thề rằng sẽ không bao giờ nuôi chó nữa vì sợ…bị mất!
Cám ơn anh Nam Thi!
Vậy là không chỉ tôi khóc vì mất chó. Tình yêu của con người là nguồn vô tận: yêu người, yêu vật, yêu thiên nhiên. Càng yêu, tình càm càng nảy sinh, một nguồn “năng lượng” không chỉ tái tạo mà còn tự sinh…Khóc, nước mắt chỉ là một trong vô vàn cách biểu hiện tình yêu, phải không Đông Oanh?