(ĐVO) Một số tài liệu lịch sử xác nhận rằng, vua Quang Trung đã sai sứ thần tới Đại Thanh cầu hôn công chúa – con gái được cưng chiều nhất của hoàng đế Càn Long. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu hiện nay lại phủ nhận điều này.
Thực hư cuộc cầu hôn giữa nhà Tây Sơn với nhà Thanh là như thế nào? Sách Hoàng Lê nhất thông chí chép rằng: “Vua Quang Trung sau khi quyết định đánh Trung Quốc, bèn sai bầy tôi là Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây”.
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cũng ghi: “Năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung sai làm biểu văn sang nhà Thanh cầu hôn để dò ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây mối binh đao, nhưng vua bị bệnh không đi được”.
![]() |
| Vua Quang Trung. Ảnh minh họa |
Theo hai tài liệu trên, việc Quang Trung xin cưới một công chúa của Càn Long mới chỉ trong dự định của một ý đồ liên quan đến vận nước của hai bên. Vua mong muốn bành trướng lãnh thổ Ðại Nam về phương Bắc và bằng mọi cách đòi lại cho được 2 tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây – vốn thuộc nước Nam Việt thời Triệu Ðà (năm 207 trước Tây lịch), mà nhà Hán đã thôn tính.
Sắc mệnh sai sứ thần sang nhà Thanh cầu hôn
Vào tháng 4 âm lịch năm 1791, vua Quang Trung gửi một sắc mệnh cho Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng, có nội dung như sau:
“Sắc Hải Dương Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công tiên gia lĩnh Bắc sứ kiêm toàn ứng tấu thỉnh Đông, Tây lưỡng Quảng dĩ khuy kỳ tâm, công chúa nhất vị dĩ kích kỳ nộ.
Thận chi! Thận chi!
Kỳ dụng binh hình thế tận tại thử hành.
Tha nhất tiền phong, Khanh kỳ nhân dã, khâm tai sắc mệnh.
Quang Trung tứ niên, tứ nguyệt, thập ngũ nhật”.
Tạm dịch:
“Sắc sai Hải Dương, Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công được tiên phong làm Chánh sứ đi sứ nhà Thanh, kiêm lãnh toàn quyền trong việc tâu thưa để xin lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây để dò ý và cầu hôn công chúa để khiêu khích tự ái vua Thanh.
Cẩn thận! Cẩn thận!
Hình thế dụng binh là ở chuyến này cả. Ngày kia làm tiên phong chính là khanh.
Sắc mệnh nhà vua.
Ngày rằm tháng 4 năm Quang Trung thứ 4 (1791).
Như vậy, đoàn sứ của Vũ Văn Dũng lên đường sang Đại Thanh để bệ kiến vua Càn Long hai việc: xin cầu hôn và xin đất đóng đô. Thực chất, theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, đó chỉ là cái cớ vì thực tâm, vua Quang Trung muốn dụng binh đánh Trung Quốc và Vũ Văn Dũng chính là vị tướng tiền phong trong tương lai.
Càn Long chuẩn thỉnh cầu… Quang Trung băng hà
Sau khi sứ thần Vũ Văn Dũng dâng tấu xin Càn Long ban cho hai yêu cầu nói trên, vua nhà Thanh đã chuẩn y lời cầu hôn của hoàng đế Quang Trung, sai bộ Lễ sửa soạn nghi thức cho việc cưới gả, định ngày cho công chúa sang nước Nam. Còn việc xin lại hai tỉnh, Càn Long ngoài mặt đồng ý, nhưng thực tế chỉ muốn trao cho Quảng Tây làm đất đóng đô, coi như “của hồi môn” cho con gái “rượu”.
Tuy nhiên, ở đời mấy ai học được chữ ngờ! Chỉ sau đó mấy hôm, Vũ Văn Dũng nhận được tin chẳng lành là vua Quang Trung đột ngột băng hà. Mọi việc trở nên dang dở… Lúc đó, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ viếng:
Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
Thời trước thời sau khó sánh cùng
Trời để vua ta thêm chục tuổi
Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.
Vua Càn Long cũng thảo một bài thơ viếng hoàng đế Quang Trung. Sứ nhà Thanh đã đến tận mộ ông ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.
Cho đến nay, thời điểm mất của vua Quang Trung vẫn được các tài liệu cổ ghi khác nhau. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi ông mất tháng 7 âm lịch năm 1792. Hoàng Lê nhất thống chí chép ông mất tháng 8 âm lịch năm 1792. Theo lý giải của Hoàng Xuân Hãn trong La Sơn phu tử, cả hai sách ghi đều không sai. Quang Trung mất vào khoảng 11 h đêm ngày 29 tháng 7 âm lịch, khoảng đó là giờ tý, nghĩa là bắt đầu được tính sang hôm sau; mà tháng 7 năm đó là tháng thiếu, ngày 29 là ngày cuối tháng, nên sau 11h đêm đã chuyển sang tháng 8. Theo Hoàng Xuân Hãn: “Ghi tháng 7 hay tháng 8 thực ra chỉ chênh nhau khoảng nửa giờ”.
| Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa, vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân Thanh; thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống, xin phong vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An, Hoà Thân…), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt. |

Chuyện xưa TB hổng rành lắm, nhưng mà nếu là ngày nay thì TB có mấy ý như sau, nếu có vị nào không bằng lòng xin bỏ qua dùm, bàn tới bàn lui sợ nó lùm xùm, hic…
Thiên hạ có câu “Tiên hạ thủ vi cường” (Hoàng Đế Quang Trung đột ngột băng hà).
Không biết ngày xưa Tình báo của nhà Thanh có cài đặt nằm vùng ở đất Tây Sơn? và nếu có thì:
“Vua Quang Trung sau khi quyết định đánh Nhà Thanh, bèn sai bầy tôi là Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây”.
là chuyện không có gì là bí mật nữa, hic….
“Sau khi sứ thần Vũ Văn Dũng dâng tấu xin Càn Long ban cho hai yêu cầu nói trên, vua nhà Thanh đã chuẩn y lời cầu hôn của hoàng đế Quang Trung, sai bộ Lễ sửa soạn nghi thức cho việc cưới gả, định ngày cho công chúa sang nước Nam. Còn việc xin lại hai tỉnh, Càn Long ngoài mặt đồng ý, nhưng thực tế chỉ muốn trao cho Quảng Tây làm đất đóng đô, coi như “của hồi môn” cho con gái “rượu”.”
Càn Long tốt thật vì Lưỡng Quảng nhỏ híu à, sá chi muốn là cho liền à, hic….
“Vua Càn Long cũng thảo một bài thơ viếng hoàng đế Quang Trung. Sứ nhà Thanh đã đến tận mộ ông ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.”
Tình giao hảo của nhà Thanh tốt thật, hảo hảo a, hic…..
TB chỉ giả thiết và bình sơ 1 chút về Chiến lược thôi chứ không dám có ý gì, hic….
Nếu có phạm thương xin quý vị vui lòng bỏ qua cho. Đa tạ, đa đa tạ….
Chỉ thấy yếu tố XÁC NHẬN .
Chưa rõ yếu tố PHỦ NHẬN ?
Nhưng không sao ! Dù có hay không có việc “cầu hôn” thì cũng thấy rõ TÀI MƯU LƯỢC của QUANG TRUNG ĐẠI ĐẾ ! Tiếc là Vua đã băng hà quá sớm, nếu không thì có thể LỊCH SỬ sẽ khác đi !
Âu đó cũng là Ý TRỜI !
Lịch sử thì không có chữ “NẾU”. Lịch sử là chuyện quá khứ, đã xảy ra hay không hề xảy ra, nên không thể thay đổi.
Ở đây tôi xin bàn chơi “nếu chuyện ấy xảy ra”: vua Quang Trung lấy công chúa nhà Thanh và “thu hồi” lưỡng Quảng ( hay chỉ Quảng Tây). Có hai tình huống xảy ra:
(1) Tình huống thuận: QT có một đất nước rộng minh mông từ Thuận Hóa ra Bắc bộ sang tới Quảng Đông Quảng Tây ( phía trong đèo Hải Vân trở vào thuộc quyền cai quản của Thái Đức hoàng đế).
– QT và TĐ hòa hiếu thống nhất đất nước.
– Mỗi người một giang sơn riêng ( không khéo lại đánh nhau vì đã có mâu thuẫn=> thống nhất bằng bạo lực).
(2) Tình huống nghịch: Nhà Thanh thời Càn Long đang thịnh trị, phía Tây chiếm Tân Cương-Tây Tạng, phía Bắc chiếm Mông Cổ, đánh Miến Điện, Đài Loan ( Trịnh Thành Công ly khai). Trước đó, Bắc Kinh đã dẹp loạn Ngô Tam Quế, xưng vương ở các tỉnh phía Nam (lưỡng Quảng, Vân Nam). Liệu họ có chịu giao đất cho QT mà không có ý đồ gì khác? Tôi không tin chuyện lại giản đơn và dễ dàng như vậy.
Dân số VN lúc ấy # 10 triệu dân, ( thống kê thời Minh Mạng, BĐ chỉ có 100 ngàn đinh, theo Quách Tấn),=> dân phiá Bắc Hải Vân chỉ khoản 5-6 triệu, sức của sức người gần như kiệt quệ sau cuộc Nam-Bắc phân tranh và chiến tranh chống Thanh. Trong điều kiện ấy QT “ôm” nổi vùng đất bao la không, không khéo lại bị Hán hóa như Nguyên-Thanh.
Lại nữa, phương Tây bắt đầu cuộc thực dân hóa toàn cầu, ngay nhà Thanh sau đó cũng bị bát quốc liên quân đánh tan tát, chiếm Bắc Kinh, nhượng đất đổi “hòa bình”. Vậy thì sau QT, những ông vua Tây Sơn nối nghiệp (nếu có) sẽ ra sao, hay sụp đổ theo nhà Thanh. Không khéo cháu cố QT sẽ ký hòa ước Patenote chứ không phải Tự Đức. Không thấy có bằng chứng nào QT hướng Tây để canh tân đất nước, mặc dâu người cùng thời là Nguyễn Ánh đã biết Tây mạnh ra sao (bị lên án “cõng rắn cắn gà nhà” là chuyện khác)
Tóm lại, phải đặt trong toàn cục mối tương quan Việt-Thanh và Á-Âu. Lạm bàn cho vui quanh chữ NẾU.