Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Chín 28th, 2011

(ĐVO) Một số tài liệu lịch sử xác nhận rằng, vua Quang Trung đã sai sứ thần tới Đại Thanh cầu hôn công chúa – con gái được cưng chiều nhất của hoàng đế Càn Long. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu hiện nay lại phủ nhận điều này.
Thực hư cuộc cầu hôn giữa nhà Tây Sơn với nhà Thanh là như thế nào? Sách Hoàng Lê nhất thông chí chép rằng: “Vua Quang Trung sau khi quyết định đánh Trung Quốc, bèn sai bầy tôi là Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây”.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cũng ghi: “Năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung sai làm biểu văn sang nhà Thanh cầu hôn để dò ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây mối binh đao, nhưng vua bị bệnh không đi được”.

Vua Quang Trung. Ảnh minh họa

Theo hai tài liệu trên, việc Quang Trung xin cưới một công chúa của Càn Long mới chỉ trong dự định của một ý đồ liên quan đến vận nước của hai bên. Vua mong muốn bành trướng lãnh thổ Ðại Nam về phương Bắc và bằng mọi cách đòi lại cho được 2 tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây – vốn thuộc nước Nam Việt thời Triệu Ðà (năm 207 trước Tây lịch), mà nhà Hán đã thôn tính.

Sắc mệnh sai sứ thần sang nhà Thanh cầu hôn

Vào tháng 4 âm lịch năm 1791, vua Quang Trung gửi một sắc mệnh cho Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng, có nội dung như sau:

“Sắc Hải Dương Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công tiên gia lĩnh Bắc sứ kiêm toàn ứng tấu thỉnh Đông, Tây lưỡng Quảng dĩ khuy kỳ tâm, công chúa nhất vị dĩ kích kỳ nộ.

Thận chi! Thận chi!

Kỳ dụng binh hình thế tận tại thử hành.

Tha nhất tiền phong, Khanh kỳ nhân dã, khâm tai sắc mệnh.

Quang Trung tứ niên, tứ nguyệt, thập ngũ nhật”.

Tạm dịch:

“Sắc sai Hải Dương, Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công được tiên phong làm Chánh sứ đi sứ nhà Thanh, kiêm lãnh toàn quyền trong việc tâu thưa để xin lại đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây để dò ý và cầu hôn công chúa để khiêu khích tự ái vua Thanh.

Cẩn thận! Cẩn thận!

Hình thế dụng binh là ở chuyến này cả. Ngày kia làm tiên phong chính là khanh.

Sắc mệnh nhà vua.

Ngày rằm tháng 4 năm Quang Trung thứ 4 (1791).

Như vậy, đoàn sứ của Vũ Văn Dũng lên đường sang Đại Thanh để bệ kiến vua Càn Long hai việc: xin cầu hôn và xin đất đóng đô. Thực chất, theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, đó chỉ là cái cớ vì thực tâm, vua Quang Trung muốn dụng binh đánh Trung Quốc và Vũ Văn Dũng chính là vị tướng tiền phong trong tương lai.

Càn Long chuẩn thỉnh cầu… Quang Trung băng hà

Sau khi sứ thần Vũ Văn Dũng dâng tấu xin Càn Long ban cho hai yêu cầu nói trên, vua nhà Thanh đã chuẩn y lời cầu hôn của hoàng đế Quang Trung, sai bộ Lễ sửa soạn nghi thức cho việc cưới gả, định ngày cho công chúa sang nước Nam. Còn việc xin lại hai tỉnh, Càn Long ngoài mặt đồng ý, nhưng thực tế chỉ muốn trao cho Quảng Tây làm đất đóng đô, coi như “của hồi môn” cho con gái “rượu”.

Tuy nhiên, ở đời mấy ai học được chữ ngờ! Chỉ sau đó mấy hôm, Vũ Văn Dũng nhận được tin chẳng lành là vua Quang Trung đột ngột băng hà. Mọi việc trở nên dang dở… Lúc đó, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ viếng:

Năm năm dấy nghiệp tự thân nông
Thời trước thời sau khó sánh cùng
Trời để vua ta thêm chục tuổi
Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng.

Vua Càn Long cũng thảo một bài thơ viếng hoàng đế Quang Trung. Sứ nhà Thanh đã đến tận mộ ông ở Linh Đường (mộ giả) thuộc huyện Thanh Trì (Hà Nội) để viếng.

Cho đến nay, thời điểm mất của vua Quang Trung vẫn được các tài liệu cổ ghi khác nhau. Sách Đại Nam thực lục của nhà Nguyễn ghi ông mất tháng 7 âm lịch năm 1792. Hoàng Lê nhất thống chí chép ông mất tháng 8 âm lịch năm 1792. Theo lý giải của Hoàng Xuân Hãn trong La Sơn phu tử, cả hai sách ghi đều không sai. Quang Trung mất vào khoảng 11 h đêm ngày 29 tháng 7 âm lịch, khoảng đó là giờ tý, nghĩa là bắt đầu được tính sang hôm sau; mà tháng 7 năm đó là tháng thiếu, ngày 29 là ngày cuối tháng, nên sau 11h đêm đã chuyển sang tháng 8. Theo Hoàng Xuân Hãn: “Ghi tháng 7 hay tháng 8 thực ra chỉ chênh nhau khoảng nửa giờ”.

Ngay sau khi đại phá quân Thanh ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa, vua Quang Trung tìm cách xóa bỏ thù hằn bằng việc chiêu hàng, nuôi dưỡng hàng vạn tù binh nhà Thanh và thu dọn, cúng tế chiêu hồn quân Thanh; thực thi chính sách hòa giải với cường quốc phương Bắc và triều cống, xin phong vương. Bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo, mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An, Hoà Thân…), Nguyễn Huệ đã được vua Thanh chấp nhận cầu phong để nhà Tây Sơn chính thức thay thế nhà Lê làm chủ Đại Việt.

Read Full Post »

 Phạm Văn Phương

Ta chẳng còn ta ngày tháng cũ
Mười lăm năm một dịp quay về
Em chẳng còn em thời thiếu nữ
Đôi bờ sương đục đã phân chia

Mười lăm năm lẻ về An Túc
Song thưa, nghe lọt gió tư bề
Mưa trút một trời Tây Sơn Thượng
Mơ màng ly rượu sánh trăng quê

Mơ màng một dáng em như liễu
Môi mắt xinh tươi dưới cội đào
Mơ màng con sẻ bay ngoài dậu
Đôi tà áo lụa trắng chiêm bao

Mơ màng ta thấy ta như cỏ
Bâng quơ vướng víu dưới chân người
Ta thấy em buồn như bữa nọ
Mà ta khờ khạo mãi rong chơi

Mà ta đâu biết em như gió
Thổi bung ngọn cỏ buổi ta về
Mà ta đâu biết em như lửa
Cháy bùng một ngọn giữa đêm khuya

Mười lăm năm lẻ ta về lại
Em chẳng còn em thuở ban đầu
Ta chẳng con ta ngày tháng cũ
Đôi bờ sương đục dưới thung sâu

Quái lạ, mà sao ta cứ nhớ
Chiêm bao áo lụa trắng đôi tà
Ta thấy ta buồn hơn lá cỏ
Em buồn  bữa nọ có hơn ta?

Ta buồn, em hỡi- ta buồn lắm
Mười lăm năm trước cũng lâu rồi
Gió thổi ngút một trời An Túc
Mà lòng hồ dễ đã xa xôi ?

Read Full Post »

K H I GIAMAHAVU . . . “I U”.

Thuận Nghĩa.

 
Tôi thường nhận được những tài liệu về tuổi già viết bằng tiếng Việt, Anh, Pháp với bản dịch tiếng Việt từ bạn già khắp nơi trong và ngoài nước. Khi thì những chỉ dẫn về những dấu hiệu của chứng đột quỵ, đau khớp, đau tim,…; những phương pháp tập luyện, dưỡng sinh, vân vân và vân vân. Nếu dùng công cụ tìm kiếm của google với những từ khóa “ lão khoa, bịnh người cao tuổi…” bạn sẽ có núi tài liệu, phải sống 200 năm mới đọc hết. Nếu có chí học các phương pháp tập luyện, nào là dịch cân kinh, yoga, thiền …mỗi ngày phải có 48 giờ mới đủ thời gian thực hành, không khéo sẽ bị tẩu hỏa nhập ma.
Một số bạn già của tôi mách cho nhau những bài thuốc “cải lão hoàn đồng “, bài nào cũng “hay lắm”; hoặc tìm ăn các thứ đặc sản như rắn, rết, bọ cạp, kỳ đà, cắt ké,…con gì cũng bảo “ep-phê”. Phổ biến nhất là các thứ rượu thuốc, ngâm đủ thứ cây con, để càng lâu càng “tốt”. Một bác sỹ danh tiếng bảo với tôi rằng dựa theo kết quả phân tích trong phòng thí nghiệm những thứ cây con ấy lâu ngày bị phân hủy khiến rượu thuốc không khác gì nước cống, chỉ khác nhau mùi vị. Chắc là phải tham khảo ý kiến nhà văn Trương Văn Dân, vốn là chuyên gia hóa dược làm việc lâu năm ở Ý, để biết thực hư thế nào. Ớn nhất là các loại rượu pha máu tươi, tim, mật của thú hoang dã như rắn, gấu, bò tót,…Các chuyên gia y tế cho rằng trong các loại máu động vật có những loài ký sinh, vi trùng, vi khuẩn có thể cộng sinh với loài vật nhưng rất nguy hiểm cho người.
Có lẽ, những thức ăn đặc sản, rượu thuốc ấy là những thứ doping, có tác dụng sinh lý thì chưa chắc nhưng tâm lý thì nhiều – liệu pháp tâm lý đôi khi cũng cần để người già có cảm giác …không già hoặc ít già so với tuổi tác thật.
Mới đây, một ông bạn là bác sỹ hưu trí, gửi cho tôi “Mười lời khuyên dành cho người cao tuổi”, tóm tắt như sau:
(1) Hãy vui vẻ với mọi người, (2) Làm chương trình xài hết tiền mình có, đừng tìm vui trong việc làm tiền, tích cóp của cải, (3) Hãy sống với thực tại vì “ Ngày hôm qua thì đã qua. Ngày mai thì chưa đến, thậm chí không bao giờ đến”, (4) Hãy vui vẻ với cháu nội-ngoại nhưng đừng tự nguyện làm người giữ trẻ trọn thời gian, (5) Chấp nhận già, yếu, bệnh tật…và cái chết vì đó là quy luật sinh, lão, bịnh, tử. (6) Vừa lòng với những gì bạn có, đừng nhọc sức tìm kiếm những gì bạn không/chưa có vì thời gian không còn nhiều nữa, đã trễ rồi, (7) Vui với người phối ngẫu ( vợ/chồng), con cháu, bạn bè. (8) Giả có ai yêu bạn, người đó phải yêu chính bạn chứ không phải những gì bạn có, (9) Tha thứ cho  người và cho mình, và (10) Làm quen với cái chết vì chết là một phần của cuộc đời. Đừng sợ.
Những lời “khuyên” đại loại như trên có lẽ phổ biến, bất kể đến từ Tây hay Đông. Những ai đang cố gắng vô ích với rắn, rết, bò cạp,…giống như Tần Thỉ Hoàng tìm thuốc trường sinh bất tử thì tham khảo điều (5), (6), và (10). Những ai đang sống với con cháu chú ý điều (4), tuy nhiên nếu bạn không có khả năng độc lập về tài chính, phải sống nhờ con thì đành chấp nhập là babysitter, thậm chí làm “o sin”vậy. Tục ngữ có câu “mẹ già bằng ba con ở”, chứng tỏ chuyện mẹ già làm o-sin đã có từ xửa từ xưa. Thế nên ông Đặng Tiểu Bình có lời khuyên nên dành dụm chút tiền cho tuổi già có thể “tự lực cánh sinh” là vì vậy. Cũng có người, nhất là ở nông thôn, chia của cải cho con cái, không giữ lại chút tài sản nào để “dưỡng già”, thành trắng tay, phải ăn nhờ, ở nhờ con cái ngay trong nhà của mình. Cho nên bạn cần tham khảo điều (2), phần nào để dưỡng già, phần nào để lại cho con cháu. Tục ngữ có câu: “Đời cua cua máy; đời cáy cáy đào”. Ngay cả Bill Gates, ông chủ Microsoft, tiền rừng bạc biển mà chỉ dành cho con 10 triệu dollars, một số tiền nhỏ trong khoảng 40 tỷ  tài sản. Còn những lão vẫn còn ham chạy theo tiền bạc, kiếm danh vọng…thì miễn bàn. Mười lời khuyên nầy có lẽ xuất xứ từ phương Tây, nhưng xem ra nội dung các điều (3), (9) và (10) cũng tương tự nhân sinh quan phương Đông- nhất là Phật – ở chỗ “sống với hiện tại”, “Tha thứ cho người và cho mình” va “ làm quen với cái chết vì cái chết là một phần của cuộc đời”( tức sinh-lão-bệnh-tử).
 
Tôi thì quan tâm đặc biệt điều (8):“ Giả có ai yêu bạn, người đó phải yêu chính bạn chứ không phải yêu những gì bạn có”. Đúng rồi, không thể bỏ sót mục nầy vì chẳng lẽ người già không yêu ai và không được ai yêu – yêu ở đây là tình yêu trai-gái. Quả vậy, trên xunau.org và những trang khác có vô số thơ, văn về đề tài iu iu mà đa số tác giả là các ông bà U 60, 70, đã đành hầu hết là những hoài niệm nhưng biết đâu trong đó vẫn có iu theo thì hiện tại. Tại sao không? Tình Yêu đâu có tuổi.
Trở lại lời khuyên ở Điều (1) “Hãy vui vẻ với mọi người”. và Điều (3) “Hãy sống với thực tại”. Tình yêu trong thì hiện tại giúp cho ta “sống với thực tại” (Đ.3) và được“vui vẻ” (Đ.1), NẾU…Thế đấy, cuộc đời luôn lè kè chữ “nếu”. “Nếu” là điều kiện cần và đủ. Chẳng hạn, nếu bạn được phép iu, đủ sức iu, …và trước hết nếu có ai đó iu bạn. Nhưng cái “Nếu” tối quan trọng là ai đó “phải yêu chính bạn chứ không yêu những gí bạn có”. Nhân vật người Úc gốc Việt trong truyện “Sống để trả nghiệp” của Đinh Tấn Khương  (trên xunau.org) khôn ba năm dại một giờ giao trái tim và hốt tiền vợ con cho cô sinh viên bạch cốt tinh đến nỗi thân bại danh liệt theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, sống dở chết dở để “trả nghiệp”. Nếu anh ta cảnh giác đặt câu hỏi “ cô ta yêu tiền hay yêu người” thì có lẽ đã không bị rơi vào bẫy tình, giả có lỡ rơi vào thì cũng biết bỏ của chạy lấy người, đâu đến nỗi bị thằng tình địch trẻ khỏe ném xuống lầu đến chấn thương sọ não. Nói thì dễ nhưng cái bẫy nào cũng được ngụy trang khéo léo, khi đã “mù con mắt” rồi làm sao nhận ra nó. Xét cho cùng, trong thời buổi nầy cái gì cũng có giá, chẳng ai cho không cái gì, kể cả cái gọi là “tình yêu”. Sự thật đôi khi phũ phàng nhưng dẫu phũ phàng cũng là sự thật.
 
Thà rằng cứ yêu “lặng lẽ” như Nguyễn Quy hoặc “ lặng thầm” như Nguyễn Thị Tiết cho chắc ăn. An toàn là trên hết. Nhớ nhé các GIAMAHAVU…iu*
Thuận Nghĩa.
19-9-2011

Read Full Post »