Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Chín 8th, 2011

Trên Thanh Niên ngày 17.7, đã có bài viết về Cống Quận công Trần Đức Hòa – một nhân vật lịch sử gắn liền với đất Quy Nhơn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều lý thú xung quanh nhân vật này chưa được đề cập…

Một trong những việc chứng tỏ được sự “nhìn người” của ông Trần Đức Hòa mà người đời vẫn truyền tụng là ông đã nhận chân được bộ óc siêu việt của Đào Duy Từ ẩn giấu dưới lớp vỏ kẻ tôi tớ, đã bất chấp mọi thị phi để lưu dụng một con người như thế.

Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Lên 5 tuổi thì cha mất (cha ông là một kép hát nổi tiếng). Bà mẹ trẻ ở góa tảo tần nuôi con ăn học, nhưng vì ông là con nhà hát nên ông không được đi thi dù học rất giỏi (theo quan niệm “xướng ca vô loại” thời vua Lê, chúa Trịnh). Tiếc tài học của con, bà mẹ đã nhờ một viên xã trưởng đổi họ để Duy Từ mang họ mẹ.

Theo một vài tài liệu, năm 21 tuổi (1593), Duy Từ đỗ thứ nhì kỳ thi Hương (trong hệ thống “tam trường”: thi Hương, thi Hội, thi Đình thời ấy) đời vua Lê Thế Tông. Đến kỳ thi Hội, do bà mẹ không chịu dan díu với viên xã trưởng nọ nên hắn tố cáo sự việc. Vậy nên ở trường thi Tây Đô (Thanh Hóa), Duy Từ bị đuổi và bị tống giam vì “gian lận thi cử”, còn ở quê nhà mẹ ông tự tử vì phẫn uất… Ôm hận nhưng không thất chí, Đào Duy Từ vẫn tự trau dồi kinh sử, mưu đồ đem chí lớn giúp đời…

 
Hậu duệ đời thứ 13 bên mộ Cống Quận công Trần Đức Hòa – Ảnh: Hà Đình Nguyên

Năm 1625, Đào Duy Từ đã 53 tuổi, liều mình vượt sông Gianh vào Đàng Trong tìm minh chúa. Lưu lạc đến huyện Bồng Sơn (Bình Định), nghe tiếng quan Khám lý Quy Nhơn Trần Đức Hòa là người biết trọng nhân tài lại được chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) tin cậy nên Đào Duy Từ xin vào làm kẻ chăn trâu cho một phú ông họ Lê để chờ cơ hội ra mắt vị quan này. Phú ông thấy Duy Từ tỏ rõ là một người học rộng, tài cao nhưng không gặp thời bèn đến thưa với Trần Đức Hòa. Quan Khám lý cho vời Đào Duy Từ đến, hỏi một biết mười, ứng đối trôi chảy bèn lưu lại cho làm gia sư, sau lại gả cô con gái độc nhất cho…

Năm Đinh Mão (1627) Trần Đức Hòa vào chầu Sãi vương, dâng bài Ngọa long cương, tâu: “Bài này của thầy đồ Đào Duy Từ”. Chúa xem xong, lập tức cho vời Đào Duy Từ đến diện kiến. Đào Duy Từ  tới, thấy chúa mặc áo vải thường đứng đợi ở cửa nách, liền lui ra. Chúa biết ý, trở vào thay áo mũ chỉnh tề rồi mời Đào Duy Từ. Chúa, tôi gặp nhau như “rồng gặp mây, cá gặp nước”. Đào Duy Từ trình bày với chúa những kế sách chống giữ và mở mang bờ cõi mà ông đã dày công tâm huyết. Chúa Sãi mừng rỡ vô cùng, nắm tay ông, phán: “Ta chờ đợi thầy lâu lắm rồi. Sao thầy đến muộn quá vậy?”. Liền phong cho ông chức Nha úy Nội tán, tước Lộc Khê hầu, cho dự bàn quốc sự.

Năm 1630, Đào Duy Từ đốc xuất đắp lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc (Quảng Bình). Đến năm 1631 lại đắp thêm một lũy nữa từ cửa biển Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, Quảng Bình) cao 1 trượng, dài 300 trượng, tục gọi là Lũy Thầy (thời ấy cả triều đình Đàng Trong – từ chúa đến các quan đều gọi Đào Duy Từ bằng “thầy” mà không gọi tên, cho nên lũy do ông đắp cũng được gọi là Lũy Thầy). Hệ thống phòng thủ này tỏ ra rất hiệu quả: 3 lần quân Trịnh vào vây hãm nhưng không sao vượt qua phòng tuyến này, đến nỗi có câu ca dao:

“Khôn ngoan qua cửa sông La
Dù ai có cánh mới qua Lũy Thầy”.

Ngoài việc đắp các lũy trên, trong vòng 8 năm, Đào Duy Từ đã giúp Chúa Nguyễn những việc lớn khác: Đưa phép duyệt tuyển và khảo thí để thu thuế, trưng binh và chọn người tài; Khuyến khích dân chúng khai hoang và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp; Tiến cử Nguyễn Hữu Dật sau thành hổ tướng Nam triều.

Đào Duy Từ mất ngày 17 tháng 10 năm 1634, thọ 63 tuổi, được phong tặng Tán trị Dực vận công thần, Kim tử Vinh Lộc đại phu. Đến triều Minh Mạng truy phong Hoằng Quốc công. Đào Duy Từ còn để lại bộ binh thư Hổ trướng khu cơ và 2 khúc ngâm Ngọa Long Cương vãn và Tư Dung vãn cùng vở tuồng San Hậu thành.

Sau này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thời bấy giờ bản thân Đào Duy Từ có đến 3 định kiến để không thể nào chen chân vào hàng ngũ quan chức. Đó là: 1. Con của kẻ “xướng ca vô loại”; 2. Là dân ngụ cư (từ miền ngoài lưu lạc vào, không phải là dân bản xứ nên rất bị khinh thường phải phục dịch trong các hội hè, đình đám… không công và chỉ được “hưởng” cơm thừa, canh cặn…); 3. Kẻ đầy tớ (trong gia đình phú ông). Tóm lại, lúc ấy Đào Duy Từ đang ở tầng lớp “dưới đáy xã hội”. Vậy mà, Trần Đức Hòa với địa vị cao sang của mình đã không ngại đàm tiếu, thị phi để phá bỏ định kiến rước họ Đào về nhà, tự tin gả người con gái duy nhất của mình cho kẻ ấy, khuyến khích và tạo điều kiện cho con rể phát triển tài năng rồi cũng tự tin tiến cử lên chúa thượng. Đào Duy Từ sẽ ra sao nếu không gặp Trần Đức Hòa?

Quả thật, “tầm nhìn” của Cống Quận công Trần Đức Hòa không mấy ai có được, khiến người thời nay cũng không khỏi ngỡ ngàng… Thế nên trên ngôi mộ của ông, có câu đối: “Tảo phò Nguyễn chúa khai Vương nghiệp/Phục tiến Đào công tác Đế sư” (Sớm phò chúa Nguyễn mở nghiệp đế/Lại cử ông Đào làm thầy vua).

Hà Đình Nguyên

Read Full Post »

Em vẫn cần anh

Rêu

em vẫn thế, vẫn hoài cơn mộng mị
dệt mây trời vá víu những long đong
như cánh vạc tìm giữa mênh mông
được gì không hay ngút ngàn biển nhớ..

đêm vắng khuya gió lùa từng nhịp thở
người thương ơi anh có nhớ có mong
ngoài trời mưa giọt lăn đều trăn trở
em nơi này ướt cả gối chăn..

ở nơi anh trời trong xanh hay nắng
nắng có vàng , mây trắng có gợn bay?
nơi em ở  dường thu về thầm lặng
tháng tám đầy sương rơi sáng nay.

vẫn cần anh, vẫn cần một vòng tay
lúc trời lạnh, anh là người ủ ấm
anh giờ này ở nơi xa lắm
có hay chăng em thương nhớ rã rời

Read Full Post »

Việt Nam cùng các nước ở Đông Á sắp đón Tết trông trăng. Cùng với một ý nghĩa đoàn viên, mang hạnh phúc, vui vẻ cho trẻ em, tết trông trăng của người Việt còn mang riêng màu sắc, hồn cốt quê hương với chiếc đèn ông sao, ông tiến sĩ giấy… và đặc biệt không thể thiếu mâm quả đêm rằm.

Mỗi rằm tháng 8, người dân đất tổ Tò he (thôn Phượng Dực, xã Xuân La, Hà Tây) lại dâng lên tổ tiên mâm ngũ quả bằng bột nặn tò he, mong một mùa an vui, hạnh phúc.
Mỗi rằm tháng 8, người dân đất tổ Tò he (thôn Phượng Dực, xã Xuân La, Hà Tây) lại dâng lên tổ tiên mâm ngũ quả bằng bột nặn tò he, mong một mùa an vui, hạnh phúc.

Tết trung thu, trái cây mùa thu đang vào vụ, mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ tổ tiên cũng mang đậm hương sắc trái chín mùa thu. Đó là nải chuối chín vàng thơm lừng, là trái hồng đỏ mang hi vọng, là trái na nhiều hạt đen nhánh mang ước nguyện lộc nở, sinh sôi, là trái bưởi mang những điều mát lành và trái lựu chứa đựng bên trong những ngọt ngào, may mắn. Mâm quả có xanh, có chín, như quan niệm của người xưa, màu xanh của hoa quả mang tính âm, trái chín mang tính dương. Mâm ngũ quả là tượng trưng cho luật cân bằng âm dương của vũ trụ.

Ngày nay, với nhu cầu thẩm mĩ cao, để có mâm ngũ quả đẹp dâng lên tổ tiên ngày Tết trông trăng, có khi cả chục loại quả được xếp vào đĩa, người ta vẫn chẳng ai gọi là “khay/đĩa thập quả”. “Mâm ngũ quả” hàng trăm năm nay vẫn được người Việt gọi tên – dù đang xa xứ hay ở quê nhà thể hiện tấm lòng, sự tôn kính dâng lên tổ tiên, mong may mắn, hạnh phúc về với gia đình, dòng họ.

Bên cạnh mâm ngũ quả dâng lên tổ tiên ngày Tết trung thu, mâm quả để trẻ con phá cỗ đêm rằm cũng là một nét đẹp riêng trong văn hóa Việt Nam.

 Mâm quả tết Trung thu truyền thống của những gia đình Việt Nam - hài hòa các hương vị mùa thu của hồng, bưởi, chuối, na…
Mâm quả tết Trung thu truyền thống của những gia đình Việt Nam – hài hòa các hương vị mùa thu của hồng, bưởi, chuối, na…

Bà Đào Lệ Mão, 77 tuổi, một người Hà Nội gốc ở phố Bát Đàn kể lại những tết Trung thu từ ngày xa xưa, khi bà còn là thiếu nữ đất Hà thành: “Mỗi gia đình quây quần ăn bữa cơm tối với các đồ cúng gia tiên, sau đó sửa soạn mâm quả trông trăng.” Bà kể, tương truyền xa xưa, khi dân ta đang đón Tết trông trăng, có con sư tử tới quấy phá, trong làng có ông cầm gậy tới đánh đuổi được sư tử, cả làng làm mâm cỗ ăn mừng – đó là sự tích cho mâm cỗ ngày rằm Trung thu.

Đa dạng quả và cầu kì hơn với dưa hấu tỉa hoa, mâm quả đêm rằm tháng 8 của người Việt vẫn vẹn nguyên ý nghĩa mong những điều bình an, may mắn.
Đa dạng quả và cầu kì hơn với dưa hấu tỉa hoa, mâm quả đêm rằm Trung thu của người Việt vẫn vẹn nguyên ý nghĩa mong những điều bình an, may mắn.

Mâm cỗ đêm rằm được cha mẹ bày thật đẹp cho các con, trong đó là bánh nướng, bánh dẻo, mía, bỏng gạo và vô vàn các loại cây trái mùa thu. Các mẹ khéo tay còn tết cho con chú cún xinh bằng trái bưởi… Mâm quả đêm rằm là một bản hòa tấu các hương vị mùa thu, đa dạng sắc màu như lời nhắn nhủ của mẹ cha tới các con, cuộc sống vốn là nhiều màu sắc. Cha mẹ cùng ăn bánh, thưởng trăng, uống trà, phá cỗ cùng con, mong cho các con một mùa an vui, một đời hạnh phúc…

Độ non tuần lễ nữa là tới rằm tháng 8, các mẹ, các chị cũng sắm sửa trái cây, rục rịch nhiều địa chỉ trên phố Hà Nội đã nhận tết cún con bằng bưởi, bày mâm ngũ quả đẹp, nhiều trường học, khu phố cũng nhộn nhịp những cuộc thi cho các cháu học bày mâm quả dân gian…

Cuộc sống hiện đại, thật đáng mừng khi nhiều văn hóa đẹp của Việt Nam còn nguyên giá trị trong không ít gia đình truyền thống!

Thúy Hằng

Read Full Post »

Đinh Tấn Khương

Có phải thời gian, hoàn cảnh đã làm thay đổi tình bạn của chúng ta!?

Những người bạn, thời tiểu học thì gần như đã tản lạc hết rồi. Bạn thời trung học thì chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay, một số đã nằm xuống trong thời buổi chiến tranh, một số khác thì mỗi người một ngả, tìm kế sinh nhai, không còn gặp lại. Một số ít thì nhận biết tin nhau, hay thảng hoặc thì được gặp lại .. nhưng lại không còn cái tình như hồi đang mài đũng quần ở ghế nhà trường nữa!?

Hồi xưa, gặp nhau là mầy mầy, tao tao, là thằng đó, con kia, là chúng nó, là nó..nghe như thân thiện, gần gũi lắm. Bây giờ, mấy tiếng nầy không  còn được đem ra để gọi, để xưng hay là để kể chuyện mới, nhắc lại chuyện cũ..với nhau nữa.

Người bạn nối khố với mình ngày xưa từ thời trung học, đại học và cả những ngày sau đó..lúc còn cơ hàn. Bây giờ gặp lại, liên lạc qua email, điện thoại.. thì cứ như là người mới gặp:

–         Xưng hô: mình

–         Gọi: bạn

Chẳng hạn:

–         Mình vừa nhận email của bạn..(khác với hồi xưa: tao vừa nhận thư của mầy..)

Nghe xa lạ quá, phải không?

–         Có phải là mình già, mà trở thành khách sáo ?

–         Có phải là mình già, mà sinh ra lịch sự?

Với tôi thì:

1.     Những người bạn bây giờ đã và đang “nên vai nên vế” :

–         Mình cần phải tỏ ra tôn trọng họ, trước mặt mọi người. Cho nên, đâu dám gọi là “mầy” xưng  là “tao”, như cái thời cùng “khố rách áo ôm” nữa, phải không!?

Xin dẫn chứng một chuyện có thật 100%, câu chuyện giữa hai người bạn từ cái thời còn ở truồng cho tới lúc trưởng thành. Nhà cùng xóm, học cùng trường cho nên thân nhau lắm. Một người rời Việt Nam và một người thì bám trụ quê nhà.

Sau hơn 20 năm xa cách, hai người có cơ hội gặp lại. Xa xứ đã lâu, trở về làng cũ, bao nhiêu kỷ niệm xưa bổng bừng sống lại. Nhớ tới cái thời niên thiếu mà mình đã từng “bảo vệ” cho người bạn “nhút nhát”, tránh bị mấy đứa khác “ăn hiếp” cho nên được nhận cái danh xưng là “anh hai”.

Vừa thấy mặt nhau, mừng quá, gọi lớn:

–         Ê mầy, còn nhớ “anh hai” mầy đây không?

Tiếp theo đó là nhiều câu hỏi khác, những câu hỏi thuần túy là nhắc về quá khứ nhưng đã không được trả lời. Rồi người bạn nối khố năm nào đã từ biệt, mà không hẹn ngày gặp lại. Lấy lý do là đang bận công tác.

Về nhà, hỏi lại người thân thì mới biết, người bạn của mình ngày nào, bây giờ đang nắm giữ một chức vụ rất quan trọng trong chính quyền địa phương. Thế là tình bạn đã bị chết yểu, trước tuổi già!?

(Chấm dứt câu chuyện dẫn chứng)

Cũng với tôi:

2.     Những người bạn bây giờ đang còn chật vật (về mọi mặt):

–         Gặp lại mình, họ cũng không còn “gọi mầy, xưng tao”. Chắc nghĩ, mình cũng đang ngon lành lắm, cho nên “tôn trọng” mình đấy chăng?

–         Thế là, mình cũng đâu có dám “gọi mầy, xưng tao” với những người bạn này, vì sợ họ “tủi thân”. Bởi mình đã phân biệt cách xưng hô, tùy theo “giai cấp xã hội” đấy mà!?

Khó quá, gặp bạn cũ sao như xa lạ. Bèn tìm bạn mới trên mạng để kiếm niềm vui,. Bởi người ta khuyên, nụ cười có thể giúp mình  sống lâu hơn. Chịu khó bỏ công, lòng vòng đi tìm chỗ vui để được dịp cười, hầu kéo dài thêm tuổi thọ. Nhưng cũng đâu có dễ, cho dù đó là thế giới ảo, của các trang mạng.

–         Kể chuyện vui thì lại không thấy ai cười với mình. Cảm thấy mình như vô duyên quá. Ngượng, nên nín luôn!

–         Nhắc lại mấy cái chuyện “quậy” lúc còn thơ trẻ, hay là thêm mắm thêm muối mấy chuyện nào đó để góp vui. Thì bị phán là “thằng phá làng, phá xóm”, là “thằng phiền cha, báo mẹ”, là “có vay, có trả”..

–         Kể chuyện thật về mình để được “nở mũi” một chút thì bị cú đấm là “khoe mẽ”..

–         Góp vài ý về cuộc sống thì bị gạn hỏi: “nói giỏi thế, mà liệu có làm được hay không?”

Ôi thôi, tìm đâu cho ra được cái TÌNH BẠN, như  của “ngày xưa còn bé” nhỉ!?
Mong các bạn chỉ hộ với.

Mùa Xuân Con Chuột Túi, 2011


Read Full Post »