Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for Tháng Chín 5th, 2011

Ngọc trong sách

Nguyễn Quang Quân

Nguyên Sinh người đất Tình, lớn lên trong cảnh mẹ góa con côi nơi ngôi nhà rách nát bên dòng sông Tình đẹp như một dải lụa. Mẹ lam lũ bòn đất, làm mướn, chịu khổ cực trăm bề cố nuôi con khôn lớn. Lúc nhỏ, Sinh tuy có vẻ đen đúa còi cọc, nhưng sáng láng, thông minh, học đâu nhớ đó, thường được thầy giáo ngợi khen. Học hết trường làng, Sinh lên tỉnh học. Ở đây, phố xá đông vui, nhiều nhà giàu có, con gái ăn mặc trang sức lộng lẫy, tuy có lạ, nhưng cũng chỉ là cái đẹp của son phấn. Lúc này Sinh đã trổ mã, nước da như bớt đen, thân hình dong dỏng cao, khỏe mạnh. Nhưng là thân học trò nhà quê mặc áo vá đi học, bữa no bữa đói, gặp con gái đẹp Sinh thường xấu hổ không dám nhìn thẳng mặt. Sinh chỉ biết cố công học tập, miệt mài đọc sách, mong có ngày bảng hổ đề danh, không phụ lòng mong ước của mẹ. Một hôm, đọc sách thấy câu “ Thư trung hữu ngọc”, rồi “ Thư trung hữu nữ nhan như ngọc”, Sinh thích lắm. Trong lòng phơi phới, Sinh xếp sách ngẫm ngợi. Ngọc ở trong sách, người con gái đẹp có trong sách. Tất cả ước mơ, thành tựu một đời là đây! Từ đó, Sinh càng chăm đọc sách. Tứ thư ngũ kinh, gần như thuộc làu. Đọc Tứ thư, Sinh học được cách cư xử ở đời, để lớn lên  gánh vác việc nước. Đạo quân tử, trước hết phải sửa cái đức của mình cho sáng, sao cho đến chỗ chí thiện. Sinh học được cái đạo trung dung, cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu) cũng là sự bàn rộng, đào sâu những tư tưởng trên. Nghiền ngẫm sách, Sinh thấy được những lý tưởng cao siêu. Đó là sự học coi trọng  luân thường đạo lý, chủ trương biến hóa tùy thời, sự vụ thực tế, không bàn đến những cái viễn vông ngoài sinh hoạt của con người nơi trần thế.

Sinh đọc miết, chờ đợi hoài cũng chẳng thấy “ngọc”, “nữ nhan như ngọc” đâu. Thơ Kinh Thi có nhiều bài nói về tình yêu. Có những bài tả tình yêu trong sáng , hồn nhiên, chân thật. Có những bài dí dỏm nghịch ngợm, nhưng nhiều hơn vẫn là lời than thở của những mối tình éo le, đầy nước mắt. Sinh đọc, mơ tưởng cũng đâu thấy gì!

Hết Thư, Kinh, Sinh lại tìm trong sách truyện. Thủy Hử, rồi Kim Bình Mai. Ở lúa tuổi thanh niên, Sinh đọc truyện cũng thấy thích, nhưng đó chỉ là cuộc sống hưởng lạc, chuyện ăn chơi đồi trụy. Có nhiều người đẹp đó (Phan Kim Liên, Lý Bình NhiBàng Xuân Mai…), nhưng chỉ là những người lẳng lơ, mong chi chuyện họ từ trang sách bước ra cuộc đời với Sinh! Hồng lâu mộng rất hay, đó là sự thể hiện tinh thần dân chủ, đòi tự do yêu đương và mưu cầu hạnh phúc, khao khát tự do bình đẳng…. Tây sương kí, Mẫu đơn đình, Liêu trai chí dị,… là những tác phẩm miêu tả tình yêu, những số phận, những buồn vui cá nhân… Có lẽ thích nhất là Liêu trai chí dị. Đọc nhiều truyện trong đó, Sinh thích thú với những cuộc găp gỡ giữa những chàng trai thư sinh trạc tuổi Sinh và những cô gái đẹp là ma, hồ. Chuyện tình của họ khá bất ngờ và kỳ dị.

Đọc truyện Liên Tỏa, Sinh cảm khái với mối tình của nàng với Dương Vu Úy. Hôm ấy, đêm đã khuya, Sinh ngồi đọc sách, mệt quá gục đầu ngủ trên án thư, bỗng nghe có tiếng ngâm thơ và một người con gái đẹp hiện ra. “Thiếp là Liên Tỏa đây, chàng có yêu thiếp không?” Đọc xong Hương Ngọc, Sinh thẩn thờ bước ra vườn ngắm hoa trong canh tàn trăng lạnh, mơ màng trông thấy hai cô gái, một áo trắng, một xiêm hồng thấp thoáng trong bụi hoa, tới gần thì họ biến mất. Đó phải chăng là Hương Ngọc và Giáng Tuyết, những thần hoa trong truyện mà chàng mơ tưởng? Vài lần như vậy! Có khi chàng đi vào những giấc mơ ký thú. Những cô gái đẹp tuyệt trần đến với chàng, cùng chàng âu yếm, ái ân. Tỉnh dậy, mới biết mình đọc Liêu Trai, mơ tưởng quá, tạo ra những giấc mơ quái lạ vậy thôi. Đã là truyện, tất phải có hư cấu. Các ông viết truyện, là để nói chuyện đời đó thôi! Chuyện đời trước mắt, sao Sinh không nhìn đi, nghĩ đi! Người đẹp có thực vẫn đi lại và Sinh thường thấy hằng ngày sao không ngắm đi, tìm cách có họ, mà lại tơ tưởng không đâu, để rồi mộng mị thế này! Ngẫm nghĩ kỹ, Sinh thấy cứ thế này thì hại cho xác phàm quá. Những người đẹp dù là người, hay ma, hồ đi vào giấc mơ tình ái của chàng chỉ là điều huyễn hoặc. Xác định thế, Sinh cố đè nén dục tình, dứt bỏ mơ mộng, chăm chỉ học tập, cố công dùi mài kinh sử. Từ đó, chàng trở thành một thư sinh văn hay chữ tốt nức tiếng gần xa. Những nhà hào phú trong vùng ngấp nghé muốn gả con gái cho chàng, vì tin rằng chàng trai đó chắc chắn sẽ công thành danh toại và con gái mình sẽ có chỗ dựa vững chắc trong mai hậu.

Mùa xuân năm ấy, có kỳ thi hương, Sinh đậu cử nhân. Lúc này, chàng vừa hai mươi. Có vài nơi đánh tiếng gả con cho chàng, nhưng chàng chẳng chịu ai. Vả lại mấy cô con gái nhà giàu, cô thì đỏng đảnh, cô thì kiêu bạc, nhan sắc tầm thường. Lúc này mẹ yếu rồi, cũng muốn con mình có nơi có chốn, cho vui một đời lam lũ. Nhưng Sinh chưa chịu lập gia đình, chàng vẫn nghĩ đến một người con gái “nhan như ngọc”, mà chàng bao lần bắt gặp trong sách. Chàng quyết tâm tiếp tục học hành, chuẩn bị cho kỳ thi hội sắp tới. Và để đỡ đần cho mẹ, chàng tạm thời làm thầy đồ, kèm cặp cho các trẻ trong làng, cũng có lương ăn. Chuyện nam nữ, tuy cũng có vài cô nhòm ngó, nhưng Sinh vẫn dốc lòng đọc sách, chuẩn bị cho kỳ thi. Dù cố công học hành, văn tài nổi tiếng, nhưng vận số khó lường, kỳ thi hội năm ấy, Sinh hỏng tuột!

Vài năm đi qua, nhìn mẹ mỗi ngày một già yếu, nhìn mình với gia cảnh quẫn bách, Sinh bắt đầu thấy nản với mộng công danh. Hôm ấy, nhân tiết thanh minh, Sinh đi viếng mộ cha. Cũng chỉ là một ngôi mộ đất thấp lè tè, cây cỏ hoang dại mọc tràn xung quanh. Vừa thắp hương cho mộ cha xong, Sinh bần thần đứng nhìn những ngôi mộ lớn xa xa trong trời chiều mát dịu, rồi ngồi bệt xuống mở sách mang theo để đọc. Bỗng có tiếng nói thoảng đưa trong gió:

– Có người ngồi trên mộ đọc sách hay quá ta!

Chàng giật mình ngó lên và sửng sốt nhìn ra một cô gái đẹp rực rỡ đang đi tới. Cô ăn mặc giản dị, nhưng thân hình mảnh mai, cao ráo, khuôn mặt trái xoan rạng rỡ dưới chiếc nón che nghiêng. Đến bên chàng, cô gái e lệ cúi chào và nói:

– Xin lỗi đã vô ý, làm kinh động tới chàng!

Chàng lúng túng đáp lời:

– Không sao! Cô ở đâu tới vậy?

Nàng mỉm cười tinh nghịch:

– Em vừa từ trang sách của chàng bước ra đấy!

Sinh giật mình! Trang sách chàng đang đọc, đúng là đang nói về chuyện tình một cô gái đẹp. Chả lẽ cũng như những lần mộng mị khác đã làm khổ chàng bao đêm?

Nhìn dáng bối rối của chàng, cô gái nhẹ nhàng nói tiếp:

– Đùa chút vậy thôi, em đi thăm mộ mẹ đây!

Cũng vẫn nụ cười đấy, cô gái bước đến ngôi mộ không xa trước mặt. Đó là một ngôi mộ đã xây dựng khá kiên cố, vẻ bề thế hơn hẳn nhưng ngôi mộ ở đây. Cô thắp hương khấn vái và cũng săm soi quét dọn. Chàng thẫn thờ nhìn ngắm, tự nhiên trong lòng dâng lên một nỗi niềm cảm xúc khôn nguôi.

Hôm ấy, khi cô gái ra về, chàng âm thầm đi theo, và sau đó dò hỏi về gia cảnh của nàng. Té ra, nàng là con quan phủ về hưu ở làng bên, nức tiếng xinh đẹp và giỏi giang, cả về chữ nghĩa thi phú và quán xuyến việc nhà. Mẹ mất sớm, ông phủ nhớ vợ thương con cũng không tục huyền, nàng thay mẹ chăm sóc cha già và đứa em trai đang độ tuổi mười lăm. Cũng có vài lần hai người gặp nhau sau đó, nhưng cả hai đều giữ phép, có chăng là cái gật đầu nhẹ chào nhau. Lòng chàng từ đấy luôn nghĩ nhớ cô gái. Mấy tháng sau, Sinh thưa với mẹ nhờ mai mối đến hỏi nàng làm vợ. Cả ông phủ và nàng đều biết tiếng danh sĩ của chàng, nên đồng ý ngay. Đó là một giai sự nổi tiếng cả vùng.

Một năm sau, Sinh được bổ dụng làm giáo thụ ở ngay huyện nhà. Sinh thỏa lòng với cuộc sống êm đẹp nhỏ nhoi của mình.

Một đêm chàng đọc sách và ngâm nga câu thơ cũ: “Thư trung hữu ngọc”, “Thư trung hữu nữ nhan như ngọc”, rồi hỏi vợ:

– Em cũng là người biết chữ, vậy có hiểu câu này không?

Nàng mỉm cười âu yếm:

– Chữ  thì dễ hiểu, nhưng ý nghĩa thì có người phải chiêm nghiệm cả đời mới hiểu được đấy!

Chàng hồ hởi phụ họa:

– Đúng vậy! Đến giờ anh mới hiểu hết cái nghĩa thâm thúy của câu thơ! Nhờ học hành, đọc sách mà anh có được những thứ quý báu như ngọc: từ nhận thức, đến hành vi, cách sống ở đời. Nhờ học hành, mà anh có được cuộc sống êm đẹp hôm nay. Nhờ đọc sách mà anh có được cô vợ xinh đẹp và hiền thục như em. Đó là chất ngọc chiết ra từ sách chứ đâu!

Read Full Post »

Trận đại thủy chiến ở đầm Thị Nại giữa quân Tây Sơn và chúa Nguyễn vào năm 1801 có rất nhiều điểm tương đồng với một trận thủy chiến nổi tiếng khác diễn ra trước đó 16 thế kỷ.
Xét trên quy mô và tính chất quyết định, trận đánh diễn ra ngày 27/2/1801 ở đầm Thị Nại giữa quân Tây Sơn và chúa Nguyễn xứng đáng được ghi nhận như trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử các cuộc nội chiến ở Việt Nam.Bức tranh vĩ đại của trận đánh lịch sử Năm 1800, thế trận giữa nhà Tây Sơn và chúa Nguyễn rơi vào thế giằng co. Vào thời điểm này, thành Quy Nhơn – một địa điểm tối quan trọng về chiến lược do chúa Nguyễn kiểm soát đang bị quân Tây Sơn uy hiếp mạnh mẽ. Quân Nguyễn tại đây phải cố thủ trong tình cảnh ngặt nghèo. Quân tiếp viện cho thành không thể đến bằng đường thủy do phía Tây Sơn bố trí một đội thủy quân cực mạnh để bảo vệ cửa biển Thị Nại.

Quyết cứu thành Quy Nhơn, chúa Nguyễn Ánh đưa hạm đội hùng hậu chưa từng có tiến ra phá vòng vây của Tây Sơn ở đầm Thị Nại. Đầm nước này trở thành chìa khóa quyết định cục diện quân sự trong tương lai của cả hai bên.

Theo một số nguồn sử liệu, chúa Nguyễn đã huy động trên dưới 1.000 chiến hạm lớn nhỏ cho trận Thị Nại. Trong số đó có 5 chiếc mang được 46 khẩu đại bác, 18 chiếc khác mang được từ 20 đến 26 khẩu.

Quân Tây Sơn cho án ngữ ở cửa biển Thị Nại 3 chiến hạm khổng lồ Định Quốc – loại chiến hạm “khủng khiếp” nhất của người Việt thời cận đại với trang bị hơn 60 hải pháo mỗi chiếc. Phía sau 3 chiến hạm Định Quốc là hạm đội đông đảo gồm gần 2.000 chiến thuyền lớn nhỏ, tập hợp gần như tất cả sức mạnh thủy binh của quân Tây Sơn. Lực lượng phỏng thủ được hỗ trợ bởi rất nhiều đại pháo đặt trên hai pháo đài Gành Ráng và Phương Mai ở cửa ngõ vào Thị Nại.

Đầm Thị Nại là một đầm nước mặn thuộc địa phận thành phố Quy Nhơn, huyện Tuy Phước và huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định ngày nay. Đầm có diện tích khoảng 5.000 ha, chạy dài hơn 10 cây số, bề rộng khoảng 4 cây số. Nước đầm thông với biển bằng một cửa hẹp có tên cửa Giã, còn gọi là cửa Thị Nại. (Trong hình minh họa trên, màu vàng thể hiện những địa điểm tập trung lực lượng của chúa Nguyễn, màu đỏ là quân Tây Sơn).

Trong những cuộc giao chiến đầu tiên, thủy quân tiên phong của Nguyễn Ánh luôn bị nghiền nát ngay tại cửa đầm bởi hỏa lực phòng thủ khủng khiếp của Tây Sơn. Thành Quy Nhơn ngày càng nguy ngập. Chúa Nguyễn quyết định thu quân về để họp bàn các tướng bàn kế tiêu diệt hạm đội Tây Sơn. Nhận định mùa gió đang thuận lợi, họ thống nhất sẽ dùng hỏa công.Đêm rằm tháng Giêng năm Tân Dậu 1801, 1.200 quân nhà Nguyễn bí mật đổ bộ lên bờ, đánh úp các pháo đài của Tây Sơn nhằm hóa giải các cỗ đại pháo.Trước đó, nhánh quân tiên phong của chúa Nguyễn đã bắt được thuyền tuần tra Tây Sơn và và thai thác để lấy mật lệnh. Một đội chiến thuyền cái trang thành thuyền Tây Sơn dùng mật lệnh vượt qua cửa phòng thủ tiến sâu vào bên trong bắn phá.

Hai cánh đột kích trên đã trở thành chìa khóa để nhà Nguyễn xoay chuyển cục diện trận chiến. Trước sự bối rối cuả quân Tây Sơn, toàn bộ hạm đội của nhà Nguyễn được lệnh tổng tấn công.

Sự yểm hộ của các cỗ đại pháo hai bên bờ giảm sút, 3 chiến hạm Định Quốc của Tây Sơn bị trên 60 chiếc thuyền thuộc tiền đội thủy quân Nguyễn bao vây và đánh chìm. Toàn bộ hạm đội Nguyễn tràn vào dùng hỏa công đánh phá cạnh mẽ. Nhờ thuận hướng gió nên sức mạnh công phát huy tối đa, hạm đội Tây Sơn cháy phần phật từ chiếc này sang chiếc khác. Đêm ấy, một bức tranh khủng khiếp bao phủ lên toàn bộ đầm Thị Nại với lửa khói ngút trời.

Trận Thị Nại đã kết thúc với chiến thắng thuộc về nhà Nguyễn. Quân Nguyễn mất hơn 4.000 cho cuộc chiến. Về phía Tây Sơn, thiệt hại nặng nề hơn nhiều lần. Toàn bộ hạm đội ở Thị Nại – xương sống của hải quân Tây Sơn bị tiêu diệt hoàn toàn. Theo thống kê, Tây Sơn mất hơn 20.000 quân, 1.800 chiến thuyền, hơn 600 đại pháo…

Thị Nại – Xích Bích của người Việt

Trận thủy chiến Thị Nại có rất nhiều điểm tương đồng với một trận thủy chiến nổi tiếng khác diễn ra trước đó 16 thế kỷ. Đó là trận Xích Bích ở cuối thời Đông Hán bên Trung Quốc.

Xét về tính chất, cả hai trận đánh đều diễn ra trong các cuộc nội chiến giành quyền làm chủ đất nước. Nếu trận Xích Bích diễn ra là cuộc đối đầu giữa thế lực của Tào tháo nhân danh nghĩa triều đình và liên quân tôn quyền – Lưu Bị trong bối cảnh Trung Quốc đang bị chia rẽ bởi tình trạng cát cứ của các chư hầu thì trận Thị Nại là cuộc đọ sức giữa triều đại Tây Sơn và chúa Nguyễn, hai thế lực hùng mạnh còn tồn tại sau hàng thế kỷ nội chiến ở nước Việt.

Hàng triệu người Việt Nam biết đến trận Xích Bích qua tác phẩm văn học kinh điển Tam Quốc chí.

Cả hai trận đánh đều diễn ra trên sông nước với quy mô rất lớn, quy tụ hầu như toàn bộ lực lượng của thủy quân của các bên tham chiến. Đây đều là những trận  quyết chiến chiến lược mà bên nào thua sẽ mất hoàn toàn quyền kiếm soát mặt trận đường thủy về lâu dài, kéo theo sự thay đổi toàn diện cuộc chiến.Ở trận Xích Bích, sau trận thua thảm khốc trước liên quân Tôn Quyền – Lưu Bị, Tào Tháo không còn bao giờ khôi phục được sức mạnh thủy binh để đánh bại đối thủ của mình. Kết quả của trận Xích Bích đã định hình cho thế chân vạc thời Tam Quốc của ba nước Tào Ngụy – Thục Hán – Đông Ngô. Đây là một trận đánh có ý nghĩa lớn trong lịch sử Trung Quốc.Với thật bại ở trận Thị Nại, thủy quân Tây Sơn hầu như đã sụp đổ hoàn toàn. Kể từ đó nhà Nguyễn nắm giữ quyền kiểm soát vùng biển, gần như tất cả tàu có thể tự do đi lại mà không chịu sự đe dọa của quân Tây Sơn. Trận Thị Nại đã làm xoay chuyển cục diện chiến sự, giúp cho việc kết thúc chiến tranh nhanh hơn. Sau trận đánh này, Nguyễn Ánh liên tiếp giành chiến thắng và nắm quyền kiểm soát toàn bộ đất nước.

Điều đặc biệt khiến cuộc chiến ở đầm Thị Nại giống trận Xích Bích là ở chiến thuật mà nhà Nguyễn đã sử dụng để giành chiến thắng. Đó chính là chiến thuật hỏa công dựa vào hướng gió được hiện với lối đánh tập kích thọc sâu bất ngờ làm đối phương không kịp trở tay.

Trong trận Xích Bích, phe liên quân đã dùng kế trá hàng để dẫn một đội thuyền chất đầy vật liệu dễ cháy cùng cùng ngòi nổ đột nhập sâu vào căn cứ quân địch. Khi đội “hàng binh” đến giữa sông thì các con thuyền được châm lửa và theo gió lao thẳng vào hạm đội của Tào Tháo. Do gió lớn và bị xích vào nhau, hạm đội khổng lồ này nhanh chóng bị thiêu ra tro.

Trong trận Thị Nại, đoàn thuyền ngụy trang của quân Nguyễn đã luồn sâu vào đội hình hạm đội Tây Sơn khiến hoạt động của hạm đội này bị rối loạn. Khi dính đòn hỏa công từ hạm đội chủ lực của chúa Nguyễn, các chiến thuyền Tây Sơn chỉ còn biết chống cự trong tuyệt vọng. Cũng như trận xích Bích, những làn gió “trời cho” đóng vai then chốt trong chiến thắng của chúa Nguyễn.

Quốc Lê

Read Full Post »