Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘Xứ Nẫu, Người Nẫu’ Category

Nguyễn Thanh Quang

.

​Tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ ở Việt Nam từ khi khởi thảo đến khi hoàn tất khoảng hai thế kỷ. Dựa vào những tư liệu hiện có, người ta đã chia ra làm bốn thời kỳ: thời kỳ phôi thai, thời kỳ hình thành, thời kỳ phát triển và thời kỳ hoàn tất. Bình Định, vinh dự là vùng đất phôi thai, sáng tạo chữ Quốc ngữ (TK XVII), truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ (TK XIX-XX), nơi “dòng sông chữ Việt” không ngừng chảy.

​Chữ Quốc ngữ ra đời từ các giáo sĩ dòng Tên trong thế giới nhà thờ Công giáo, thâm nhập vào cuộc sống, xã hội như một đột phá, một cách mạng về chữ viết, được hoàn thiện dần và trở thành chữ viết Quốc gia, vai trò quyết định là những trí thức Việt Nam, những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, các cộng đồng cư dân, là Nhà nước Việt Nam độc lập. Chữ Quốc ngữ có tác động toàn diện và rất mạnh đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam.

Từ Cư sở Nước Mặn

​Trong địa hạt tôn giáo, các miền truyền giáo tại Việt Nam được các thừa sai dòng Tên ở Macao thuộc tỉnh dòng Nhật Bản thành lập, ở Đàng Trong vào năm 1615 [1] và ở Đàng Ngoài vào năm 1627 [2].

​Đầu thế kỷ XVII, Xứ Quảng là một miền đất chung bao gồm cả Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, được coi là nơi mở đầu trang sử khai đạo chính thức ở Việt Nam. Do vậy, các học giả nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ thường cũng tính thời điểm khởi nguyên công việc sáng chế loại chữ mới này ở Việt Nam mà cụ thể là ở Đàng Trong, ở Xứ Quảng vào năm 1615, khi các nhà truyền giáo dòng Tên mở đạo ở Việt Nam và hoạt động của họ được ghi lại trong các tài liệu lưu trữ khá đầy đủ. Tuy nhiên, xét riêng về phương diện lịch sử chữ Quốc ngữ, thời điểm quan trọng nhất phải là khi thiết lập cư sở Nước Mặn, thuộc phủ Qui Nhơn (ngày nay thuộc xã Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định) vào năm 1618.

Những bản dịch các văn bản Ki-tô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618 tại cư sở Nước Mặn. Tại đây, linh mục Bề Trên Buzomi cùng Pina và Borri nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi uyên bác về chữ Hán có tên rửa tội là Phê-rô. Bản phúc trình của cư sở ghi: “Người ấy (một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền giáo) có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên lanh lợi và thông minh nhất trong vùng; anh này lại viết chữ Hán rất đẹp, được dân chúng hâm mộ vô cùng… Anh tên thánh rửa tội là Phê-rô, nhờ có tài hay chữ nên giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh Pater noster, Ave Maria, Credo và Mười Điều Răn ra tiếng địa phương…”[3].

​Trong bức thư đề ngày 17.12.1621 Gaspar Luiz chép: “Cuốn giáo lý mà người ta đã biên soạn bằng tiếng Đàng Trong, giúp ích rất nhiều, vì không những trẻ em học thuộc lòng sách đó, mà người lớn cũng học…” [4]. Theo linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được sáng tác bằng ngôn ngữ Đàng Trong [chữ Nôm]…. Ban đầu tiếng Việt được phiên âm bằng mẫu tự châu Âu để cho các thừa sai tiện dùng kèm với chữ Nôm người Việt sử dụng, dần dần bản phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự châu Âu trở thành hình thái đầu tiên ghi âm Latin hóa ngôn ngữ Việt Nam, một hình thái chữ Quốc ngữ “tiền Đắc Lộ”. Chúng ta có được một số chứng từ về những hình thái đầu tiên của việc Latin hóa trong Bản tường trình của linh mục Borri [5].

Tập sách “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” là những ghi chép của linh mục Christoforo Borri, xuất bản bằng tiếng Ý lần đầu tiên năm 1631, chữ Quốc ngữ Borri đã sử dụng trong đó là chữ Latin hoá được ông ghi chép khi ông ở Nước Mặn với hai linh mục Buzomi và Pina từ năm 1618 đến 1621. Theo tác giả Hoàng Xuân Việt: “Ông Thanh Lãng đã đếm được trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong một tài liệu viết tay, ông viết: “Có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, Macao, mọi, càn.v.v…”” [6].

​Hội An là điểm xuất phát truyền giáo buổi đầu, lập giáo đoàn tại Nước Mặn – cư sở truyền giáo tiên khởi do các linh mục Buzomi, Pina, Borri đảm nhiệm, các giáo sĩ đã đi tiên phong trong việc sáng chế ra chữ Quốc ngữ. Poulo Cambi/Qui Nhơn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ – chữ Quốc ngữ “tiền Đắc Lộ”.

Đến Nhà in Làng Sông

Ba nhà in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam: Nhà in Nhà Chung (Sài Gòn) của giáo phận Tây Đàng Trong, Nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) của giáo phận Đông Đàng Trong và Nhà in Kẻ Vĩnh (Hà Nội) của giáo phận Tây Đàng Ngoài.

Báo cáo tình hình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1872, viết năm 1873 của Giám mục Charbonnier, có ghi: giáo phận có 3 nhà thuốc và 1 nhà in [7]. Báo cáo hiện tình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1885 của Giám mục Van Camelbeck Hân, về thiệt hại nhân sự và cơ sở vật chất do Văn Thân như sau: “cơ sở vật chất bị phá hủy 17 cô nhi viện, 10 phước viện, 4 nông trại, 2 tiểu chủng viện, 2 nhà phát thuốc, 1 nhà in,…” [8].

Căn cứ các báo cáo này, nhà in Làng Sông của giáo phận Đông Đàng Trong có trước thời điểm năm 1872, bị phá hỏng năm 1885. Có thể nhà in Làng Sông được xây dựng cùng thời với nhà in Nhà Chung của giáo phận Tây Đàng Trong (1867) [9] và nhà in của giáo phận Tây Đàng Ngoài [10]. Ấn phẩm của Mémorial Làng Sông/Qui Nhơn ra số cuối cùng tháng 12.1953.

Một trang Mémorial thống kê sách đã in của nhà in Làng Sông năm 1910 có 36 đầu sách, trong đó 25 đầu sách chữ Quốc ngữ, số còn lại là tiếng Pháp. Chia thành 4 nội dung: Sách trường học, sách giáo lý, sách cầu nguyện – đạo đức và các sách khác. Sách học được xếp mục đầu tiên với những loại sách như: Phép đánh vần (tái bản lần thứ 5), Con nít học nói (tái bản lần thứ 3), Ấu học (tái bản lần thứ 3), Trung học, Địa dư Sơ lược. Bản kê có ghi giá tiền từng đầu sách.

Trong năm 1922, nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác, riêng Báo Lời thăm mỗi tháng hai số, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của nhà in Làng Sông/Qui Nhơn trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3.407.000 trang in [11].

Đáng chú ý, nhà in Làng Sông đã in nhiều loại sách của các cây bút Quốc ngữ nổi tiếng ở Nam Bộ lúc bấy giờ như: Chuyện đời xưa (tái bản lần thứ 2) của Trương Vĩnh Ký; Chuyện giải buồn (2 tập) của Pierre Lục; 30 đầu sách của Lê Văn Đức gồm nhiều thể loại: Tây hành lược Ký, Đi bắt ăn cướp (tuồng), Tìm của báu (tiểu thuyết), Chúa Hài Nhi ở thành Nadarét (kịch), Du lịch Xiêm….

Nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) cùng với Nhà in Nhà Chung (Sài Gòn), và Nhà in Kẻ Vĩnh (Hà Nội), là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển, truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.

Hệ thống Trường Quốc ngữ Đông Đàng Trong

Việc chữ Hán bị bãi bỏ trong kỳ thi cử năm 1915 ở Bắc kỳ và chấm dứt trên cả nước năm 1919 ở Trung kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi cho chữ Quốc ngữ đi vào trường học. Năm 1917, Toàn quyền Đông Dương – Albert Sarraut ký Quyết định thành lập Bộ Học chính tổng quy (Règlement général de s’Instruction publique). Năm 1924, Toàn quyền Đông Dương – Merlin ký Quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy 3 năm đầu cấp tiểu học.

Dưới thời Pháp thuộc (1924-1945), ở tỉnh lỵ và vài huyện lớn có trường Tiểu học, các tỉnh lớn có trường Sơ học hay Tiểu học dành riêng cho nữ sinh. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 2-4 trường Tiểu học, mỗi trường có từ 100 đến vài trăm học sinh. Các thành phố lớn có trường Cao đẳng tiểu học, như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Lạng Sơn (Bắc kỳ); Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Qui Nhơn (Trung kỳ); Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ (Nam kỳ).

Ở Trung kỳ có 3 trường thi Hương ở: Huế, Vinh và Bình Định, khi đặt ách đô hộ, thực dân Pháp cũng mở tại nơi này 3 trường công lập đầu tiên gọi là trường Collège. Trước năm 1920, Qui Nhơn có trường Pháp – Việt (Ecole Franco Annamite) từ lớp 5 (Cours enfantin) trở lên. Niên khóa 1921-1922, mở thêm lớp Đệ nhất niên (Cour Première année), đổi tên là Ecole plein exercice de Qui Nhơn, bắt đầu có hệ cao đẳng Tiểu học (Primaire supérieur). Sau đó, lấy tên trường Collège de Qui Nhơn, có 10 lớp cho 10 cấp học, dạy bằng tiếng Pháp, trừ môn Hán văn và Quốc văn. Trường Collège de Qui Nhơn thu nhận sĩ tử của 9 tỉnh Trung kỳ, từ Quảng Nam đến Bình Thuận và Tây Nguyên. Số thí sinh dự thi vào lớp Đệ nhất niên có đến hơn 1.000 người, nhưng trúng tuyển chỉ 50 thí sinh, trong đó có 5 thí sinh người dân tộc.

Từ năm 1910 – 1930, giáo dục Quốc ngữ được hình thành có tính chất hệ thống. Ngoài hệ thống trường công lập, còn có hệ thống trường do Giáo hội Công giáo xây dựng. Tờ Mémorial de Qui Nhơn tháng 5 năm 1924 có in bức “Thơ chung về sự thành lập trường Quấc ngữ” của Giám mục Đamianô [12]. Ngoài ra, để đôn đốc các linh mục quản xứ, Giám mục Đamianô cũng đã có “Lời riêng cùng các Cha” [13].

Theo thống kê trong Mémorial de Qui Nhơn tháng 2 năm 1927, Địa phận Đông Đàng Trong có tất cả 57 trường. Trong đó, Hội An 1 trường, Quảng Nam 4 trường, Tam Kỳ 3 trường, Bồng Sơn 8 trường, Tây Bình Định 8 trường, Đông Bình Định 15 trường, Phú Yên 2 trường, Khánh Hòa 8 trường, Phan Rang 4 trường; Bình Định, chiếm hơn một nửa số lượng trường cả địa phận: 31/57 trường. Thống kê trong Mémorial de Qui Nhơn tháng 5 năm 1928, Địa phận có 1.576 học sinh, trong đó Bình Định có 939 học sinh, chiếm gần 2/3 học sinh toàn địa phận; bình quân 30 học sinh/trường, riêng trường Gagelin, Kim Châu, Bình Định số lượng học sinh đông gấp 6 lần bình quân: 182 học sinh.

Và “Trường Thơ Loạn”

​Văn học nghệ thuật đã góp phần quan trọng trong việc truyền bá và phát triển chữ Quốc ngữ. Tiêu biểu như: Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Tự Lực Văn Đoàn, phong trào Thơ mới,…

​Phong trào thơ mới chỉ hình thành hơn mười năm (1930-1945), nhưng đã khép lại dòng văn học quy phạm, chuẩn mực. Với sự bùng nổ của ngôn từ đã đem đến một thi pháp mới, đưa thơ Việt Nam vào quỹ đạo của văn học thế giới. Nếu nói thơ mới mở ra một cuộc cách mạng trong thi ca, thì có thể xem “Trường Thơ Loạn” là hiện tượng độc đáo và bí ẩn nhất của phong trào thơ mới. Khởi nguồn của trường thơ này chính là nhóm thơ Bình Định: Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên (Long, Lân, Qui, Phụng). Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng dòng thơ ấy đã băng qua bầu trời thi ca Việt Nam như vầng sáng, vừa rực rỡ vừa kinh dị, báo hiệu sự phát triển và phá cách của thơ hiện đại [14].

Cùng với nền giáo dục Quốc ngữ, một hệ trí thức mới được sản sinh, góp phần đáng kể vào sự nghiệp chấn hưng văn hóa dân tộc. Kể từ sau năm 1945, chữ Quốc ngữ đã trở nên không thể thay thế trong công cuộc truyền bá, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa lại địa vị ngôn ngữ chính thức của Quốc gia cho tiếng Việt – chữ Quốc ngữ. Từ đó, tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng, toàn diện, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngôn ngữ thiểu số ở Việt Nam. Và Qui Nhơn/Bình Định – nơi “dòng sông chữ Việt” chảy xuyên suốt từ lúc phôi thai hình thành chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ XVII đến giai đoạn truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

​NTQ

CHÚ THÍCH:

[1] Nicola da Costa “Annua do Collegio de Macao desde Janeiro de 615 ate o outro de 616”, đề ngày 17.01.1616 tại Macao (ARSI, JAP-SIN, Vol.114, trang 1-9).

[2] Alexandre de Rhodes, Divers Voyages et Mission, Cramoisy 1653, trang 91.

[3] Báo cáo năm 1618 của Francesco Eugenio đề ngày 21.01.1619 tại Macao trong Lettere Annue Del Japonne, China, Goa, et Ethiopia, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 400-401.

[4] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Lettre du Père Gaspar Luis sur la Concincina, trang 127-128.

[5] BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 420.

[6] Hoàng Xuân Việt, Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007, tr. 125.

[7] AMEP. Donatien Éveillard (1835-1883) Fiche Individuelle, la fiche biographique, Numéro: 795.

[8] AMEP. Rapport des Évêques, Rapport n0 41, Mgr Charbonnier, Cochinchine Orientale, 1873.

[9] AMEP. Rapport n0 8, Mgr Isidore Comlombert, Cochinchine Occidentale, le 15 Octobre 1893.

[10] Giám mục Puginier. Báo cáo địa phận Tây Đàng ngoài năm 1873 có một nhà in thạch bản và hai nhà in typô (Kẻ Vĩnh, Kẻ Sở).

[11] AMEP. Rapport des Évêques, Rapport n0 553. MGR. Gallioz, Chapitre VI, Groupe des Missions de Cochinchine et du Cambodge .

[12] Xem Mission de Quinhon, Mémorial de Quinhon 1924, Imp. Làng Sông 1924, tr. 67.

[13] Xem Mission de Quinhon, Sđd, tr. 24-69.

[14] Võ Như Ngọc, Trường Thơ Loạn – Thi pháp tượng trưng đa ký hiệu, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020, tr. 20.

Read Full Post »

 

                                                                                                  Lê Ngân (khảo cứu)

73_QTrung

Theo sử liệu, chỉ trong vòng 4 năm (từ 1786 đến 1789) Tây Sơn đã ba lần đánh ra Bắc Hà tiến phạm Thăng Long vào các năm: Bính Ngọ (1786), Mậu Thân (1788) và Kỷ Dậu (1789).Diễn biến của ba trận đánh trên đã được Hoàng Lê Nhất Thống Chí (HLNTC) thuật lại với đầy đủ chi tiết diễn biến trận mạc cùng tên các võ tướng Tây Sơn đã giúp Nguyễn Huệ và sau này là Quang Trung làm nên chiến thắng từng trận. (more…)

Read Full Post »

Lê Ngân

Đặng tướng công nêu trong gia phả Đặng tộc và trong các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá là nhân vật lịch sử có hai tên trãi qua hai triều đại:Đô đốc Đặng Tiến Đông đời Lê Trịnh (1738-1787)và cũng là Đô đốc Đặng Tiến Giản đời Tây Sơn từ sau năm 1787”.Từ kết quả khám phá lai lịch của Đặng tướng công ở Lương Xá như trên đã có cơ sở để tìm hiểu thêm về một số tồn tại xung quanh nhân vật này.       

(more…)

Read Full Post »

MẤY DÒNG HỒI TƯỞNG
(Hồi ức của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh về Quy Nhơn- Bình Định)

01-Giao-Phan-QuyNhon-ChinhToa-00-Old-3

Thế rồi tôi đỗ tiểu học đứng khá cao trong toàn tỉnh. Tiếng gọi của Quy Nhơn, của muôn nghìn mơ ước, lúc này là lúc tôi nghe rõ nhất. Sóng của biển ấy, điệu thì thầm của bãi rừng dương liễu ấy, sao mà từ đã mấy năm qua cứ mãi vang vọng vào hồn tôi.
Khi lớn lên, nói với ai tôi cũng hay bảo: mình vào trường Quốc Học Quy Nhơn với một trái tim trong trắng. Câu nói có vẻ đầy thơ, nhưng thực sự là như vậy đó. Chỉ với cái lẽ rất đơn giản: nó là trái tim của học trò non trẻ – nó là niềm trong trắng của trăm đổi mong chờ. (more…)

Read Full Post »

Quy Nhơn 1936

.
(HỒI KÝ CỦA NHÀ VĂN VÕ HỒNG)

34148828

Quy Nhơn ngày đó phố xá còn rải rác sơ sài. Con đường chính là đường Gia Long chạy dọc suốt chiều dài của thành phố. Chạy song song với đường Gia Long là đường Jules Ferry và Bolevard O’ denhal. Đại lộ O’ denhal có đặc điểm đặc biệt là chạy rất thẳng. chạy xuống biển. Đường rộng, giữa mặt đường dựng một hàng trụ điện cao, kiến trúc theo kiểu các thành phố lớn bên Pháp, nghĩa là trụ điện tỏa ra hai nhánh mang hai ngọn đèn chiếu xuống hai nửa mặt đường . (more…)

Read Full Post »

Vũ Thanh

tải xuống

Trường thiên tiểu thuyết dã sử Việt Nam

Phần 2

NHẤT THỐNG SƠN HÀ

*

Hồi thứ hai mươi hai

 

Đỉnh núi Bà, kỳ nữ vọng phu hóa thạch

Hoàng Đế thành, Nguyễn Nhạc khóc chuyện nồi da

*

  (more…)

Read Full Post »

Chúc Mừng Năm Mới 2015

.Happy-New-Year-2015-Beautiful-Wallpapers

 

 

Nhân dịp chào đón năm 2015, Ban biên tập xunauvn.org xin kính chúc quý thân hữu và quý bạn đọc  một năm mới an lành, thịnh vượng và thật nhiều hạnh phúc!

 

Read Full Post »

(PL)- Ẩn sau khuôn mặt rất Tây với sống mũi cao, mái tóc bạch kim là một tâm hồn đậm chất Việt. Không chỉ ăn được mắm tôm, sầu riêng, Elena Pucillo còn nói chuyện bằng tiếng Bình Định quê chồng khiến bạn bè cười… thâu rầu!

Ngoài dịch sách cho chị Elena Pucillo Truong, anh Trương Văn Dân còn sẵn sàng làm “xe ôm sáu sao” cho vợ. Ảnh: HT

Cặp chồng Việt – vợ Ý Trương Văn Dân và Elena Pucillo vốn là mối tình đầu của nhau. Sau gần 40 năm sống ở Ý, họ đã bỏ ngang tất cả công việc để chuyển hẳn về Việt Nam. Là tiến sĩ ngôn ngữ và văn học nước ngoài, chị Elena Pucillo Truong đi dạy tiếng Ý và Văn hóa Pháp tại Trường ĐH KH-XH&NV TP.HCM, dạy tiếng Ý ở nhạc viện và viết sách bằng tiếng Ý. Anh Trương Văn Dân thì ngoài viết và dịch sách còn kiêm luôn nhiệm vụ làm “Honda ôm” đưa đón vợ đi dạy, dịch sách của vợ sang tiếng Việt.

Người đàn bà Ý “điên”

Ngay từ khi Elena Pucillo còn là một thiếu nữ, biết chị yêu chàng trai người Việt Nam thì bạn bè chị lúc đó rất ngạc nhiên. Họ đoán già đoán non mối tình này không chóng thì chày cũng tan vỡ như không ít đôi Việt-Ý khác. Thế rồi mối tình kéo dài 13 năm trước khi diễn ra đám cưới, họ đâm ra khó hiểu. Và đến khi chị Elena quyết định đến quê chồng sinh sống hẳn thì họ đoán chắc chị “bị điên”.

Hẳn nhiên anh Dân và chị Elena không quan tâm lời người ngoài cuộc bởi tình yêu anh chị dành cho nhau thế nào, tình yêu ấy đến từ đâu thì chỉ có mỗi họ biết rõ. Ngày ấy, anh là chàng du học sinh mới 19 tuổi ngơ ngác đặt chân lên đất Ý. Trong cái TP Milano ấy chẳng biết ông trời có ý đồ gì không mà xui khiến ngày hôm đó cô nữ sinh Elena Pucillo 16 tuổi bỗng đi bơi ở cái hồ bơi xa lắc khu nhà mình với lý do hồ bơi gần nhà bị hỏng. Cuộc gặp tình cờ của anh Dân và chị tại hồ bơi đã để lại trong nhau ấn tượng tốt đẹp. Với anh, chị là một thiếu nữ xinh xắn, đa cảm. Còn với Elena, anh là chàng trai rất hiền lành, chân thành mà cũng đầy ý chí. Sau này cả hai nhận ra họ không thể sống thiếu nhau một khi họ có chung một tâm thức thời đại của một thế hệ trẻ trưởng thành từ hai đất nước cách xa nhau, cùng có lòng nhân hậu và chung tình yêu vô tận với văn chương, nghệ thuật. Là đứa con trong gia đình mà cha mẹ ly hôn, Elena như cảm thấy được bù đắp tình thương với gia đình rất mực gắn bó chan hòa của anh Dân. Và trên hết vượt lên trên mọi sự tầm thường và bình thường, vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn chính là hấp lực mà họ đã tìm thấy ở nhau để người này cứ không ngừng trầm trồ về người kia. Anh Dân đã đem điều này vào tản vănMilano – Sài Gòn: Đang về hay sang?: “Elena, lúc nào cũng cô độc, thui thủi, việc gì cũng phải tự lo, thế mà luôn ân cần và vui vẻ, lúc nào cũng muốn mọi người xung quanh được chăm sóc một cách chu đáo. Nhiều lúc tôi nghĩ là cô ta còn “nợ” tôi từ tiền kiếp. Và kiếp này “phải” trả”.

 

“Làm cô dâu Việt rất vui”

Năm 1985, thời ít người nước ngoài đến Việt Nam, nếu có thì đa số là người Liên Xô, nói chi đến đám cưới có chú rể người Việt và cô dâu Tây tóc vàng, da trắng bóc. Thế nên ai gặp Elena cũng “xổ” tiếng Nga. Lần đầu Elena về Bình Định quê chồng, một đám người đủ già trẻ bé lớn xúm quanh xin… sờ chiếc mũi của chị để xem làm thế nào mà nó cao vút được như vậy.

Cha của anh Dân vốn cũng là dược sĩ và giỏi tiếng Pháp nên có thể nói chuyện thoải mái với con dâu bằng tiếng Pháp. Anh Dân cho biết cha chồng và nàng dâu nói chuyện rất hợp và rất quý nhau. Cha chồng còn đặt cho con dâu cái tên tiếng Việt na ná tên thật của Elena là Lê Thị Lê Na. Elena luôn coi cái tên này là kỷ niệm đẹp mà cha chồng ban tặng mình trước khi ông qua đời vào năm 1987.

Chuyện mẹ chồng Việt và cô dâu Ý thoạt tiên mới thật là hài. Elena kể, năm 1990, mẹ chồng sang Ý và ở lại chơi với vợ chồng chị nửa năm. Mẹ chồng, theo lời Elena chỉ biết nói “tiếng Bình Định” chứ không biết nói tiếng Việt. Mà chị trong thời gian đầu mới làm con dâu thì chị chỉ biết tiếng Việt bập bõm. Họ chỉ còn có cách giao tiếp với nhau đến mỏi cả tay nhưng tuyệt đối kiên nhẫn và thông cảm cho nhau. Một lần mẹ chồng nàng dâu đi siêu thị. Cứ Elena bỏ chiếc chảo vào giỏ hàng, sơ suất quay đi thì mẹ chồng len lén đem trả lại quầy hàng. Phải đến mấy lần như thế thì chiếc chảo cũng về được đến nhà trong nỗi hoang mang của cả hai. Thắc mắc của hai bên đã được người thông ngôn là anh Dân làm rõ: Mẹ chồng không hiểu sao con dâu lại lẩn thẩn đi mua làm gì cái chảo bị thủng chằng chịt, còn con dâu không thể giải thích với mẹ chồng rằng chẳng qua chị mua nó để… nướng hạt dẻ. Hiểu ra rồi mẹ chồng, nàng dâu lại ôm nhau cười ngất. Ấy là chuyện của gần 40 năm trước, chứ bây giờ Elena nói tiếng Việt thì khỏi chê!

Người mẹ chân quê thích ăn trầu cau đã thương con dâu mình bằng tình thương hết sức hồn hậu, mộc mạc. Hiểu con dâu sống ở Việt Nam xa quê hương, gia đình và bạn bè thân thương nên bà luôn tìm cách làm cho chị cảm thấy có người thân bên cạnh. Chính bà là người rước vong linh mẹ ruột của Elena ở Ý sang Việt Nam rồi gửi lên chùa nên lúc nào chị cũng cảm thấy ấm áp và không đơn độc trên quê chồng. Cũng trong lần mẹ chồng sang Ý, biết mẹ chồng không quen sử dụng đồ điện, hơn nữa lại là các thiết bị hiện đại nên ngoài việc hướng dẫn cho mẹ từng li từng tí các tiện nghi khác trong nhà, riêng bình nước nóng lạnh giao cho mẹ sử dụng thì chị không yên tâm nên chị trở thành người tắm cho mẹ hằng ngày.

Hiện nay người mẹ chồng đã 94 tuổi nhưng vẫn còn rất minh mẫn đã chuyển từ Bình Định vào TP.HCM sống với gia đình người con trai cả. Chị và mẹ chồng thường xuyên gặp gỡ chăm lo cho nhau. Mẹ dạy chị nấu ăn hầu hết món Việt. Theo chân mẹ, chị đi thăm rất nhiều chùa và trở thành Phật tử. Mùa Vu Lan mỗi năm, chị lại vừa xốn xang vừa tự hào cài lên ngực áo mình một bông hồng trắng và một bông hồng đỏ. Hỏi cảm xúc khi làm một cô con dâu Việt, Elena cười tươi: “Rất thương và rất vui!”.

Không chỉ làm con dâu Việt mới vui, với Elena làm người Ý hồn Việt càng vui lạ. Chị nghe nhạc Trịnh Công Sơn từ thuở đầu những năm 1970 trên đất Ý. Đi tiệc tùng cứ thích mặc áo dài. Món Việt nào chị cũng ăn ngon lành từ sầu riêng đến mắm tôm. Chị ăn sầu riêng ngon lành đến nỗi anh Dân vốn không ăn được nhưng nhìn tức mà phải tập ăn! Gặp ai chị cũng xởi lởi tay bắt mặt mừng bằng tiếng Việt. Bình thường chị nói giọng Sài Gòn nhưng lúc cao hứng chị phang luôn giọng Bình Định, giọng Quảng, rồi cả giọng Huế khiến mọi người ôm bụng cười.

Rù rì vợ viết, chồng dịch

Một phút tự do là cuốn sách thứ hai do anh dịch cho chị vừa được NXB Văn hóa Văn nghệ phát hành. Họ như đôi chim cúc cu, lặng lẽ yêu và cống hiến cho văn hóa Việt.

Vốn là người nghiên cứu và phát triển dược phẩm với chuyên môn và bằng cấp “xịn” của châu Âu nhưng anh Trương Văn Dân lại rẽ ngang viết và dịch sách. Ngoài sáng tác hai tập truyện ngắn Hành trang ngày trở lạiMilano – Sài Gòn: Đang về hay sang?, anh còn gây ấn tượng cho văn đàn Việt Nam bằng cuốn tiểu thuyết Bàn tay nhỏ dưới mưa.Trong tiểu thuyết này, anh lồng ghép vào đường tình và số phận trắc trở của nhân vật chính những vấn đề bức thiết của thời đại. Anh đã chỉ ra một cách nhẹ nhàng mà đầy tính thuyết phục về sự vô nghĩa và phi lý của xã hội công nghiệp hóa và toàn cầu hóa. Anh chỉ rõ những nhu cầu ích kỷ, tham vọng của con người.

Song hành với viết, có một công việc khác đem lại cho anh Dân nhiều hứng thú không kém, đó là dịch tác phẩm của vợ. Cặp vợ chồng này có cách làm việc khá lạ lùng: Vợ không bao giờ hé răng với chồng mình định viết gì, ý tưởng thế nào mà chỉ lặng lẽ viết. Rồi đột ngột vợ đem “trình làng” tất cả với chồng. Lúc đó, người chồng tha hồ đọc, thổn thức và ngạc nhiên với thế giới nội tâm phong phú cũng như trí tưởng tượng tuyệt vời của vợ. Anh nói anh thích đón đợi và tận hưởng những cảm xúc bất ngờ này. Đôi khi anh thấy phảng phất bóng dáng của chính mình qua một vài nhân vật trong các truyện ngắn mà chị dựng nên. Việc chuyển ngữ từ tiếng Ý sang tiếng Việt các sách của chị còn ai hiểu và làm tốt công việc này hơn anh. Cách dịch của anh là cố gắng duy trì nhiều nhất tư duy, cá tính và văn phong của chị. Mà tư duy và văn phong của chị thì nói như nhà văn Dạ Ngân: “Truyện nào cũng dung dị và có dư âm (…) Chúng ta nhìn thấy một trái tim hiểu biết, dịu dàng với một cách tư duy không như người Việt”. Trước Một phút tự do, anh Dân cũng đã dịch cho chị tập truyện Bóng của ngày.

Nếu trong một cuộc hội ngộ văn chương của làng văn Việt bạn nghe một giọng nữ nói tiếng Việt theo cách là lạ, nếu tình cờ bạn đi ngang chung cư Ngô Tất Tố ở quận Bình Thạnh mà trông thấy một tóc đen chở một tóc bạch kim đang cười toe toét bằng xe máy thì đó chính là đôi vợ chồng “cúc cu” Trương Văn Dân và Elena Pucillo Truong.

HỒNG THU

Read Full Post »

Bí ẩn núi Tam Tòa

Hoàng Trọng

.

Núi Tam Tòa (P.Hải Cảng, TP.Quy Nhơn, Bình Định) có nhiều di tích nhưng ít người biết đến như đền thờ Uy Minh vương, tường lũy cổ bằng đá và nhiều câu chuyện hoang đường về sự linh thiêng

Tượng đài Trần Hưng Đạo trên núi Tam Tòa - Ảnh: Hoàng Trọng

Tượng đài Trần Hưng Đạo trên núi Tam Tòa – Ảnh: Hoàng Trọng

(more…)

Read Full Post »

Đặng Quí Địch

Quach_Tan

Từ hai bài tuyệt bút…

Phải mấy tháng sau ngày 30. 4. 1975 tôi mới về lại căn nhà sàn ọp ẹp của tôi ở đường Bạch Đằng, trước hãng Bia, cạnh đầm Thị Nại – Qui Nhơn. Bấy giờ, vợ con tôi đã về quê, tôi còn ở lại coi nhà. (more…)

Read Full Post »

Older Posts »