Nguyễn Thanh Quang
.
Tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ ở Việt Nam từ khi khởi thảo đến khi hoàn tất khoảng hai thế kỷ. Dựa vào những tư liệu hiện có, người ta đã chia ra làm bốn thời kỳ: thời kỳ phôi thai, thời kỳ hình thành, thời kỳ phát triển và thời kỳ hoàn tất. Bình Định, vinh dự là vùng đất phôi thai, sáng tạo chữ Quốc ngữ (TK XVII), truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ (TK XIX-XX), nơi “dòng sông chữ Việt” không ngừng chảy.
Chữ Quốc ngữ ra đời từ các giáo sĩ dòng Tên trong thế giới nhà thờ Công giáo, thâm nhập vào cuộc sống, xã hội như một đột phá, một cách mạng về chữ viết, được hoàn thiện dần và trở thành chữ viết Quốc gia, vai trò quyết định là những trí thức Việt Nam, những nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà khoa học, các cộng đồng cư dân, là Nhà nước Việt Nam độc lập. Chữ Quốc ngữ có tác động toàn diện và rất mạnh đến sự phát triển của văn hóa Việt Nam.
Từ Cư sở Nước Mặn
Trong địa hạt tôn giáo, các miền truyền giáo tại Việt Nam được các thừa sai dòng Tên ở Macao thuộc tỉnh dòng Nhật Bản thành lập, ở Đàng Trong vào năm 1615 [1] và ở Đàng Ngoài vào năm 1627 [2].
Đầu thế kỷ XVII, Xứ Quảng là một miền đất chung bao gồm cả Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, được coi là nơi mở đầu trang sử khai đạo chính thức ở Việt Nam. Do vậy, các học giả nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ thường cũng tính thời điểm khởi nguyên công việc sáng chế loại chữ mới này ở Việt Nam mà cụ thể là ở Đàng Trong, ở Xứ Quảng vào năm 1615, khi các nhà truyền giáo dòng Tên mở đạo ở Việt Nam và hoạt động của họ được ghi lại trong các tài liệu lưu trữ khá đầy đủ. Tuy nhiên, xét riêng về phương diện lịch sử chữ Quốc ngữ, thời điểm quan trọng nhất phải là khi thiết lập cư sở Nước Mặn, thuộc phủ Qui Nhơn (ngày nay thuộc xã Phước Quang, Tuy Phước, Bình Định) vào năm 1618.
Những bản dịch các văn bản Ki-tô giáo đầu tiên ra tiếng Việt có từ năm 1618 tại cư sở Nước Mặn. Tại đây, linh mục Bề Trên Buzomi cùng Pina và Borri nhờ đến sự giúp đỡ rất hữu hiệu của một văn nhân Việt Nam trẻ tuổi uyên bác về chữ Hán có tên rửa tội là Phê-rô. Bản phúc trình của cư sở ghi: “Người ấy (một nhân sĩ thân quen với đoàn truyền giáo) có một người con trai mười sáu tuổi, là thanh niên lanh lợi và thông minh nhất trong vùng; anh này lại viết chữ Hán rất đẹp, được dân chúng hâm mộ vô cùng… Anh tên thánh rửa tội là Phê-rô, nhờ có tài hay chữ nên giúp linh mục rất nhiều trong việc dịch kinh Pater noster, Ave Maria, Credo và Mười Điều Răn ra tiếng địa phương…”[3].
Trong bức thư đề ngày 17.12.1621 Gaspar Luiz chép: “Cuốn giáo lý mà người ta đã biên soạn bằng tiếng Đàng Trong, giúp ích rất nhiều, vì không những trẻ em học thuộc lòng sách đó, mà người lớn cũng học…” [4]. Theo linh mục Léopold Cadière, quyển sách giáo lý nầy được sáng tác bằng ngôn ngữ Đàng Trong [chữ Nôm]…. Ban đầu tiếng Việt được phiên âm bằng mẫu tự châu Âu để cho các thừa sai tiện dùng kèm với chữ Nôm người Việt sử dụng, dần dần bản phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự châu Âu trở thành hình thái đầu tiên ghi âm Latin hóa ngôn ngữ Việt Nam, một hình thái chữ Quốc ngữ “tiền Đắc Lộ”. Chúng ta có được một số chứng từ về những hình thái đầu tiên của việc Latin hóa trong Bản tường trình của linh mục Borri [5].
Tập sách “Tường trình về khu truyền giáo Đàng Trong” là những ghi chép của linh mục Christoforo Borri, xuất bản bằng tiếng Ý lần đầu tiên năm 1631, chữ Quốc ngữ Borri đã sử dụng trong đó là chữ Latin hoá được ông ghi chép khi ông ở Nước Mặn với hai linh mục Buzomi và Pina từ năm 1618 đến 1621. Theo tác giả Hoàng Xuân Việt: “Ông Thanh Lãng đã đếm được trong bản dịch của Bonifacy có đến 94 từ Quốc ngữ, và trong một tài liệu viết tay, ông viết: “Có rất nhiều chữ mang hình thức hệt như ngày nay. Thí dụ: tui, biết, Macao, mọi, càn.v.v…”” [6].
Hội An là điểm xuất phát truyền giáo buổi đầu, lập giáo đoàn tại Nước Mặn – cư sở truyền giáo tiên khởi do các linh mục Buzomi, Pina, Borri đảm nhiệm, các giáo sĩ đã đi tiên phong trong việc sáng chế ra chữ Quốc ngữ. Poulo Cambi/Qui Nhơn là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ – chữ Quốc ngữ “tiền Đắc Lộ”.
Đến Nhà in Làng Sông
Ba nhà in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam: Nhà in Nhà Chung (Sài Gòn) của giáo phận Tây Đàng Trong, Nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) của giáo phận Đông Đàng Trong và Nhà in Kẻ Vĩnh (Hà Nội) của giáo phận Tây Đàng Ngoài.
Báo cáo tình hình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1872, viết năm 1873 của Giám mục Charbonnier, có ghi: giáo phận có 3 nhà thuốc và 1 nhà in [7]. Báo cáo hiện tình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1885 của Giám mục Van Camelbeck Hân, về thiệt hại nhân sự và cơ sở vật chất do Văn Thân như sau: “cơ sở vật chất bị phá hủy 17 cô nhi viện, 10 phước viện, 4 nông trại, 2 tiểu chủng viện, 2 nhà phát thuốc, 1 nhà in,…” [8].
Căn cứ các báo cáo này, nhà in Làng Sông của giáo phận Đông Đàng Trong có trước thời điểm năm 1872, bị phá hỏng năm 1885. Có thể nhà in Làng Sông được xây dựng cùng thời với nhà in Nhà Chung của giáo phận Tây Đàng Trong (1867) [9] và nhà in của giáo phận Tây Đàng Ngoài [10]. Ấn phẩm của Mémorial Làng Sông/Qui Nhơn ra số cuối cùng tháng 12.1953.
Một trang Mémorial thống kê sách đã in của nhà in Làng Sông năm 1910 có 36 đầu sách, trong đó 25 đầu sách chữ Quốc ngữ, số còn lại là tiếng Pháp. Chia thành 4 nội dung: Sách trường học, sách giáo lý, sách cầu nguyện – đạo đức và các sách khác. Sách học được xếp mục đầu tiên với những loại sách như: Phép đánh vần (tái bản lần thứ 5), Con nít học nói (tái bản lần thứ 3), Ấu học (tái bản lần thứ 3), Trung học, Địa dư Sơ lược. Bản kê có ghi giá tiền từng đầu sách.
Trong năm 1922, nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác, riêng Báo Lời thăm mỗi tháng hai số, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của nhà in Làng Sông/Qui Nhơn trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3.407.000 trang in [11].
Đáng chú ý, nhà in Làng Sông đã in nhiều loại sách của các cây bút Quốc ngữ nổi tiếng ở Nam Bộ lúc bấy giờ như: Chuyện đời xưa (tái bản lần thứ 2) của Trương Vĩnh Ký; Chuyện giải buồn (2 tập) của Pierre Lục; 30 đầu sách của Lê Văn Đức gồm nhiều thể loại: Tây hành lược Ký, Đi bắt ăn cướp (tuồng), Tìm của báu (tiểu thuyết), Chúa Hài Nhi ở thành Nadarét (kịch), Du lịch Xiêm….
Nhà in Làng Sông (Qui Nhơn) cùng với Nhà in Nhà Chung (Sài Gòn), và Nhà in Kẻ Vĩnh (Hà Nội), là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển, truyền bá chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ nửa sau thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.
Hệ thống Trường Quốc ngữ Đông Đàng Trong
Việc chữ Hán bị bãi bỏ trong kỳ thi cử năm 1915 ở Bắc kỳ và chấm dứt trên cả nước năm 1919 ở Trung kỳ đã tạo điều kiện thuận lợi cho chữ Quốc ngữ đi vào trường học. Năm 1917, Toàn quyền Đông Dương – Albert Sarraut ký Quyết định thành lập Bộ Học chính tổng quy (Règlement général de s’Instruction publique). Năm 1924, Toàn quyền Đông Dương – Merlin ký Quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy 3 năm đầu cấp tiểu học.
Dưới thời Pháp thuộc (1924-1945), ở tỉnh lỵ và vài huyện lớn có trường Tiểu học, các tỉnh lớn có trường Sơ học hay Tiểu học dành riêng cho nữ sinh. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 2-4 trường Tiểu học, mỗi trường có từ 100 đến vài trăm học sinh. Các thành phố lớn có trường Cao đẳng tiểu học, như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Lạng Sơn (Bắc kỳ); Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Qui Nhơn (Trung kỳ); Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ (Nam kỳ).
Ở Trung kỳ có 3 trường thi Hương ở: Huế, Vinh và Bình Định, khi đặt ách đô hộ, thực dân Pháp cũng mở tại nơi này 3 trường công lập đầu tiên gọi là trường Collège. Trước năm 1920, Qui Nhơn có trường Pháp – Việt (Ecole Franco Annamite) từ lớp 5 (Cours enfantin) trở lên. Niên khóa 1921-1922, mở thêm lớp Đệ nhất niên (Cour Première année), đổi tên là Ecole plein exercice de Qui Nhơn, bắt đầu có hệ cao đẳng Tiểu học (Primaire supérieur). Sau đó, lấy tên trường Collège de Qui Nhơn, có 10 lớp cho 10 cấp học, dạy bằng tiếng Pháp, trừ môn Hán văn và Quốc văn. Trường Collège de Qui Nhơn thu nhận sĩ tử của 9 tỉnh Trung kỳ, từ Quảng Nam đến Bình Thuận và Tây Nguyên. Số thí sinh dự thi vào lớp Đệ nhất niên có đến hơn 1.000 người, nhưng trúng tuyển chỉ 50 thí sinh, trong đó có 5 thí sinh người dân tộc.
Từ năm 1910 – 1930, giáo dục Quốc ngữ được hình thành có tính chất hệ thống. Ngoài hệ thống trường công lập, còn có hệ thống trường do Giáo hội Công giáo xây dựng. Tờ Mémorial de Qui Nhơn tháng 5 năm 1924 có in bức “Thơ chung về sự thành lập trường Quấc ngữ” của Giám mục Đamianô [12]. Ngoài ra, để đôn đốc các linh mục quản xứ, Giám mục Đamianô cũng đã có “Lời riêng cùng các Cha” [13].
Theo thống kê trong Mémorial de Qui Nhơn tháng 2 năm 1927, Địa phận Đông Đàng Trong có tất cả 57 trường. Trong đó, Hội An 1 trường, Quảng Nam 4 trường, Tam Kỳ 3 trường, Bồng Sơn 8 trường, Tây Bình Định 8 trường, Đông Bình Định 15 trường, Phú Yên 2 trường, Khánh Hòa 8 trường, Phan Rang 4 trường; Bình Định, chiếm hơn một nửa số lượng trường cả địa phận: 31/57 trường. Thống kê trong Mémorial de Qui Nhơn tháng 5 năm 1928, Địa phận có 1.576 học sinh, trong đó Bình Định có 939 học sinh, chiếm gần 2/3 học sinh toàn địa phận; bình quân 30 học sinh/trường, riêng trường Gagelin, Kim Châu, Bình Định số lượng học sinh đông gấp 6 lần bình quân: 182 học sinh.
Và “Trường Thơ Loạn”
Văn học nghệ thuật đã góp phần quan trọng trong việc truyền bá và phát triển chữ Quốc ngữ. Tiêu biểu như: Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Tự Lực Văn Đoàn, phong trào Thơ mới,…
Phong trào thơ mới chỉ hình thành hơn mười năm (1930-1945), nhưng đã khép lại dòng văn học quy phạm, chuẩn mực. Với sự bùng nổ của ngôn từ đã đem đến một thi pháp mới, đưa thơ Việt Nam vào quỹ đạo của văn học thế giới. Nếu nói thơ mới mở ra một cuộc cách mạng trong thi ca, thì có thể xem “Trường Thơ Loạn” là hiện tượng độc đáo và bí ẩn nhất của phong trào thơ mới. Khởi nguồn của trường thơ này chính là nhóm thơ Bình Định: Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, Chế Lan Viên (Long, Lân, Qui, Phụng). Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng dòng thơ ấy đã băng qua bầu trời thi ca Việt Nam như vầng sáng, vừa rực rỡ vừa kinh dị, báo hiệu sự phát triển và phá cách của thơ hiện đại [14].
Cùng với nền giáo dục Quốc ngữ, một hệ trí thức mới được sản sinh, góp phần đáng kể vào sự nghiệp chấn hưng văn hóa dân tộc. Kể từ sau năm 1945, chữ Quốc ngữ đã trở nên không thể thay thế trong công cuộc truyền bá, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa lại địa vị ngôn ngữ chính thức của Quốc gia cho tiếng Việt – chữ Quốc ngữ. Từ đó, tiếng Việt đã phát triển nhanh chóng, toàn diện, có ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các ngôn ngữ thiểu số ở Việt Nam. Và Qui Nhơn/Bình Định – nơi “dòng sông chữ Việt” chảy xuyên suốt từ lúc phôi thai hình thành chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ XVII đến giai đoạn truyền bá, phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
NTQ
CHÚ THÍCH:
[1] Nicola da Costa “Annua do Collegio de Macao desde Janeiro de 615 ate o outro de 616”, đề ngày 17.01.1616 tại Macao (ARSI, JAP-SIN, Vol.114, trang 1-9).
[2] Alexandre de Rhodes, Divers Voyages et Mission, Cramoisy 1653, trang 91.
[3] Báo cáo năm 1618 của Francesco Eugenio đề ngày 21.01.1619 tại Macao trong Lettere Annue Del Japonne, China, Goa, et Ethiopia, Lazaro Scoriggio, Napoli 1621, trang 400-401.
[4] BAVH, Juillet-Déc. 1931, Lettre du Père Gaspar Luis sur la Concincina, trang 127-128.
[5] BAVH, Juillet-Déc. 1931, trang 420.
[6] Hoàng Xuân Việt, Tìm hiểu lịch sử chữ Quốc ngữ, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007, tr. 125.
[7] AMEP. Donatien Éveillard (1835-1883) Fiche Individuelle, la fiche biographique, Numéro: 795.
[8] AMEP. Rapport des Évêques, Rapport n0 41, Mgr Charbonnier, Cochinchine Orientale, 1873.
[9] AMEP. Rapport n0 8, Mgr Isidore Comlombert, Cochinchine Occidentale, le 15 Octobre 1893.
[10] Giám mục Puginier. Báo cáo địa phận Tây Đàng ngoài năm 1873 có một nhà in thạch bản và hai nhà in typô (Kẻ Vĩnh, Kẻ Sở).
[11] AMEP. Rapport des Évêques, Rapport n0 553. MGR. Gallioz, Chapitre VI, Groupe des Missions de Cochinchine et du Cambodge .
[12] Xem Mission de Quinhon, Mémorial de Quinhon 1924, Imp. Làng Sông 1924, tr. 67.
[13] Xem Mission de Quinhon, Sđd, tr. 24-69.
[14] Võ Như Ngọc, Trường Thơ Loạn – Thi pháp tượng trưng đa ký hiệu, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020, tr. 20.
Bình Định quê hương tôi, tự hào quá