Hoài Nhơn, Quy Nhơn, Quy Ninh là địa danh qua các thời kỳ của tỉnh Bình Định ngày nay – vùng đất có nhiều gắn bó với việc ra đời và phát triển chữ Quốc ngữ, là nơi phôi thai chữ Quốc ngữ. Có một điều ít người biết, một trong ba nơi có cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam thuộc về Bình Định – Nhà in Làng Sông.
Việc cấm đạo vốn đã có từ thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, đến thời Tự Đức còn được siết lại chặt hơn. Nhưng sách vở truyền đạo vẫn tiếp tục ra đời, chữ Quốc ngữ vẫn cứ thế phát triển theo quy luật tất yếu của ngôn ngữ. Vào nửa sau thế kỷ XIX, nhu cầu của cuộc sống buộc phải có nhà in. Do đó, một số nhà in của các giáo phận được thành lập, các loại sách – bao gồm các loại kinh sách, truyện, giáo khoa… bằng chữ Quốc ngữ được in và lan truyền nhiều hơn.
Ba nhà in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam là: Nhà in Tân Định – Sài Gòn – Nhà in của giáo phận Tây Đàng Trong; nhà in Ninh Phú- Tây Đàng Ngoài (Hà Nội); để ở miền Trung, nhà in của giáo phận Đông Đàng Trong được đặt ở Tiểu chủng viện Làng Sông – ngày nay thuộc thôn Quảng Vân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
Đi cùng sự phát triển của chữ Quốc ngữ
Nghề in đúc (typô) đầu tiên du nhập vào Việt Nam tại Sài Gòn năm 1861, tất cả máy, chữ, mực in, giấy và công nhân kỹ thuật được đưa từ Pháp sang.
Tại địa phận Tây Đàng Trong (Sài Gòn), nhà in được xây dựng năm 1865 (có tài liệu viết 1863 hoặc 1867) tại sở quản lý Nhà Chung. Đến năm 1874 thì chuyển nhà in về Tân Định. Một trong những quyển sách đầu tiên mà nhà in Sài Gòn (Tân Định) in là một cuốn sách bằng tiếng Pháp: ABC ABCD (Vần An Nam để đọc tiếng Latinh), in năm 1867 và quyển sách Quốc ngữ Bổn dạy ABCD, của D. Eveillard, in năm 1868. Ở Đàng Ngoài, ngoài Từ điển An Nam-La tinh (Dictionarium Annamatico-Latium) của J.S. Theurel, nhà in Ninh Phú, 1887, quyển sách Quốc ngữ in sớm nhất hiện còn là Bổn giảng về bảy phép cực trọng chúa Jesu đã lập, Nhà in địa phận Tây Đàng Ngoài, năm 1882. Theo Báo cáo năm 1873 của Giám mục Puginier, địa phận Tây Đàng Ngoài có một nhà in thạch bản và hai nhà in typô, một dành cho các sách Latinh, một dành cho các sách Việt Nam (Quốc ngữ).
Tiểu chủng viện Làng Sông xây dựng vào thập niên 40, thế kỷ XIX. Sau đó, Tòa giám mục và Nhà in của địa phận Đông Đàng Trong (từ Quảng Nam đến Bình Thuận và Tây Nguyên) cũng được xây dựng tại chủng viện này.
Trong Báo cáo hiện tình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1885 của Giám mục Van Camelbeck Hân, về những thiệt hại nhân sự và cơ sở vật chất có đoạn: “… hỏng 1 nhà in…”. Và Báo cáo tình hình giáo phận Đông Đàng Trong năm 1873 của Giám mục Charbonnier được viết năm 1872 ghi rõ: giáo phận có 3 nhà thuốc và 1 nhà in.
Căn cứ các báo cáo này, nhà in của giáo phận Đông Đàng Trong – nhà in Làng Sông có trước thời điểm năm 1872, bị hỏng năm 1885. Và có thể nhà in Làng Sông được xây dựng cùng thời với nhà in của giáo phận Tây Đàng Trong (Sài Gòn) và nhà in của địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà Nội). Như vậy có thể tin rằng, sự phát triển của chữ Quốc ngữ có phần đóng góp của các nhà in này rất lớn.
Năm 1904, Giám mục Damien Grangeon Mẫn cho tái thiết nhà in Làng Sông và giao cho Linh mục Paul Maheu làm giám đốc. Linh mục Paul Maheu rất thông thạo về kỹ thuật in ấn, và đây là thời kỳ cực thịnh của nhà in Làng Sông. Với hệ thống máy in mới, khổ rộng và hiện đại nhất lúc bấy giờ, một số lượng sách, báo rất lớn đã được nhà in xuất bản.
Trong năm 1922, nhà in Làng Sông đã in 18.000 tờ báo định kỳ, 1.000 bản sách các loại, 32.000 ấn phẩm khác, riêng Báo Lời thăm mỗi tháng hai số, mỗi số ra 1.500 bản và phát hành cả Đông Dương. Tổng cộng ấn phẩm của nhà in Làng Sông (Quy Nhơn) trong năm lên đến 63.185 ấn phẩm với 3,407 triệu trang in.
Đáng chú ý, nhà in Làng Sông đã in nhiều loại sách của các cây bút Quốc ngữ nổi tiếng ở Nam Bộ lúc bấy giờ như: Chuyện đời xưa (tái bản lần thứ 2) của Trương Vĩnh Ký; Chuyện giải buồn (2 tập) của Pierre Lục; 30 đầu sách của Lê Văn Đức (một trí thức nổi tiếng, thế hệ sau Trương Vĩnh Ký) gồm nhiều thể loại hiện còn lưu giữ ở Thư viện Quốc gia (Hà Nội): Tây hành lược Ký, Đi bắt ăn cướp (tuồng), Tìm của báu (tiểu thuyết), Chúa Hài Nhi ở thành Nadarét (kịch), Du lịch Xiêm….
Imprimerie de Làng Sông, Imprimerie de la Mission de Quy Nhơn hoặc Imprimerie de Quy Nhơn đều là tên gọi ấn quán của giáo phận Đông Đàng Trong. Ngoài sách tiếng Latinh và tiếng Pháp, nhà in Làng Sông (Quy Nhơn) đã in một số lượng lớn sách Quốc ngữ đa dạng về thể loại như: Giáo lý, kinh thánh, giáo dục ấu học, trung học, truyện, tiểu thuyết, kịch, tạp chí, tuồng, lịch, sách dịch… Những ấn phẩm của Làng Sông được thống kê trong Mémorial– Bản thông tin hàng tháng của địa phận và được tổng kết vào trang cuối năm, bằng tiếng Pháp xen với tiếng Việt (Quốc ngữ).
Một trang Mémorial thống kê sách đã in của nhà in Làng Sông năm 1910 có 36 đầu sách, trong đó 25 đầu sách chữ Quốc ngữ, số còn lại là tiếng Pháp. Chia thành 4 nội dung: Sách trường học, sách giáo lý, sách cầu nguyện – đạo đức và các sách khác. Sách học được xếp mục đầu tiên với những loại sách như: Phép đánh vần (tái bản lần thứ 5), Con nít học nói (tái bản lần thứ 3), Ấu học (tái bản lần thứ 3), Trung học, Địa dư Sơ lược. Bản kê có ghi giá tiền từng đầu sách.
Tháng 11 năm 1933, nhà in Làng Sông bị bão đánh sập. Một nhà in mới của giáo phận được khởi công xây dựng vào năm 1934 tại Quy Nhơn (trong khuôn viên chủng viện Quy Nhơn). Năm 1935, nhà in Quy Nhơn hoạt động song song với nhà in Làng Sông (đã được tu sửa sau cơn bão). Ít lâu sau, nhà in Làng Sông được sát nhập về nhà in Quy Nhơn.
Tham gia phục vụ kháng chiến
Trong chính sách tiêu thổ kháng chiến (1946 – 1947), cơ sở vật chất kỹ thuật của nhà in Quy Nhơn được tháo dỡ, chuyển về giáo xứ Nam Bình (xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước) do thầy Paul Định làm giám đốc. Tại đây, các nhà tu hành đã mở dạy kỹ thuật sắp chữ in cho đội ngũ công nhân mới. Nhà in của nhà thờ được sử dụng để in tài liệu phục vụ kháng chiến, sách giáo khoa phục vụ giáo dục.
Một thời gian sau, theo yêu cầu của kháng chiến, máy in lại được chuyển ra Đại An (xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát), rồi lên Ân Thường (xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân). Năm 1955 lại đưa về Kim Châu (thị trấn Bình Định, huyện An Nhơn) và cuối cùng được chuyển vào Nha Trang năm 1957.
Trong thời gian này, nhà in này đã in ra một lượng lớn ấn phẩm phục vụ kháng chiến, sản xuất và giáo dục, không chỉ cho Bình Định mà còn cho cả các tỉnh Liên khu 5 (từ Quảng Nam đến Bình Thuận và Tây Nguyên). Rất nhiều ấn phẩm ra đời trong giai đoạn này nay còn được lưu giữ tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bình Định như: Báo Tin Tức, Báo Dân Chúng, Bản tin, Tập san, Đặc san, thơ và sách văn, toán, lý, hóa trung học, tiểu học (sách lý và hóa của Đoàn Nhật Tấn, sách toán của Đinh Thành Chương, Việt ngữ chính tả của Nguyễn Châu, Chiều biên khu (thơ) của Nguyễn Tiểu Đào, Miền Trung khói lửa (thơ) của Nguyễn Đình …).
Mémorial Làng Sông (Quy Nhơn) – ấn phẩm của cơ sở ra số cuối cùng tháng 12.1953. Như vậy, đến năm 1954 nhà in Làng Sông – Quy Nhơn, sau gần một thế kỷ hoạt động đã giải thể, toàn bộ máy móc nhà in chuyển vào Nha Trang.
Làng Sông – một địa danh lịch sử
Từ sau năm 1865, chữ Quốc ngữ được sử dụng rộng rãi trong các loại sách đạo, sách đời, riêng loại sách giáo dục chữ Quốc ngữ được in tái bản nhiều nhất. Số lượng đầu sách chữ Quốc ngữ từ năm 1865 đến những thập niên đầu thế kỷ XX lên đến hàng ngàn. Tuy nhiên, trải qua nhiều biến cố lịch sử, một số lượng lớn sách Quốc ngữ của các nhà in đầu tiên phần lớn đã thất lạc.
Hiện nay, tại Thư viện Quốc gia (Hà Nội) còn lưu giữ 241 đầu sách Quốc ngữ của nhà in Quy Nhơn (Làng Sông) như: Lưu tình (tâm lý tiểu thuyết), Nguyễn Vân Trai; Thiệt phận thuyền quyên (tiểu thuyết), Đinh Văn Sắt; Hai chị em lưu lạc (tiểu thuyết trẻ nhỏ), Pierre Lục; Nghề trồng rau, Mai Hữu Tưởng; Con nít học nói cho nhằm lễ nghi, Simon Chính; Địa dư tỉnh Phú Yên, Nguyễn Cầm; Địa dư nông học Bình Định, Bùi Văn Lăng …
Nhà in Tây Đàng Trong – Tân Định (Sài Gòn), nhà in Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), nhà in Làng Sông (Quy Nhơn) – Đông Đàng Trong là ba cơ sở in sách Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể trong việc phát triển chữ Quốc ngữ và văn học Quốc ngữ hậu bán thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Ngày nay, người ta biết đến Tiểu chủng viện Làng Sông phần lớn là ở góc độ là nơi có công trình kiến trúc đẹp, lâu đời. Rất ít người biết rằng nơi đây từng tồn tại một nhà in có nhiều đóng góp cho sự phát triển của chữ Quốc ngữ, có một đoạn rất dài đi cùng kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc.
-
Nguyễn Thanh Quang (Baobinhdinh.com)
Thập niên 90 ở TPHCM (Sài Gòn) có cuộc triển ãm sách cổ. Có một cuốn tự điển Hán Nôm (đầu tiên?) do một vị linh mục ở nhà thờ Ba Chuông sở hữu được giải. Tác giả là một nhà nho ở xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định biên soạn.
Thân hữu nào biết rõ về chuyện này xin nói thêm, rất mong. Để biết được vai trò đáng trân trọng của xunau trong nền văn học Việt Nam.
Cuốn tự điển Hán Nôm đầu tiên ở Việt Nam là do quận chúa Trịnh Thị Ngọc Trúc sinh năm1595 biên soạn.
Các tài liệu cho biết “Từ nhỏ bà đã rất thông minh, lại có điều kiện để học nên mới 9 – 10 tuổi đã thuộc làu kinh sử, thông thạo chữ Hán, chữ Nôm và giỏi thơ văn. Bà có dáng ngưòi thanh tú, dịu hiền, bản tính hoà nhã, thanh cao. Mặc dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng bà đã thông thạo kinh điển giáo lý nhà Phật, được người đời tôn danh “Bà chúa Kim cương”. Bà từng có thời gian quy y tại chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Bà được thiền sư Chuyết Chuyết ban pháp danh Diệu Viên. Từ đó, bà vừa tu luyện vừa học hỏi chuyên tâm nghiên cứu sâu xa hơn nữa về kinh điển của nhà Phật. Sự học rộng và uyên thâm của bà được các danh nho đương thời khâm phục tôn vinh danh hiệu “Tào mi tài tử” (người đàn bà có học thức uyên bác).
Bà sinh ra trong lúc nước nhà trong cơn binh lửa, cuộc chiến tranh Nam triều và Bắc triều (giữa nhà Lê Trung Hưng với nhà Mạc 1533 – 1592) chưa dứt thì cuộc chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh (1616 – 1776) tiếp đến. Bà không khỏi xót thương cảnh quốc nạn can qua, mặt khắc vì vẫn muốn gửi thân nơi cửa thiền nên việc chồng con của bà có phần muộn màng. Năm 24 tuổi, bà kết hôn với Cường quốc công Lê Trụ thuộc Hoàng tộc nhà Lê. Sau 12 năm chung sống, bà sinh được 4 người con. Năm 1630, lúc bà 36 tuổi, Cường quốc công Lê Trụ bị ghép trọng tội, bị bắt giam và chết trong ngục.
Chưa dứt nỗi buồn, bà phải phụng mệnh thân phụ, tái giá với vua Lê Thần Tông (là con của cô ruột Trịnh Thị Ngọc Trinh, con gái chúa Trịnh Tùng). Dù tuổi bà đã lớn, lại là gái có chồng; dù có sự can ngăn của các triều thần, nhưng bởi sức ép của phủ chúa cùng với nhan sắc và trí tuệ mẫn tiệp của bà, vua Lê Thần Tông vẫn lấy bà làm vợ và phong làm Hoàng hậu. Bà cùng vua Lê Thần Tông sinh hạ được 2 người con là Lê Duy Hiệu và Lê Thị Ngọc Duyên.
Tháng 10 năm Quý Mùi 1643, lúc Lê Duy Hiệu 13 tuổi được vua cha nhường ngôi (Lê Chân Tông). Vua cha Lê Thần Tông làm Thái thượng hoàng, bà Ngọc Trúc làm Hoàng thái hậu Diệu Viên thường.
Hoàng thái hậu Diệu Viên là người rất có công trong việc tổ chức trùng tu tôn tạo chùa Ninh Phúc (Bút Tháp). Hưởng ứng lời kêu gọi công đức của bà, nhà vua và công chúa cũng đều hiến ruộng cho chùa để làm công quả. Sau bà đến tu và ở hẳn tại chùa cho đến khi viên tịch năm Canh Tý (1660) hưởng thọ 65 tuổi.”
Nhà thờ kiến trúc đẹp thật.
Cảm ơn Nguyễn thanh Quang đã cho biết chính xác tên một địa danh. xưa nay chúng tôi vẫn gọi là Lòng sông kể cả báo Kiến trúc và đời sống (xin lổi tôi không nhớ số xuất bản),và cũng nhờ báo này mà chúng tôi mới biết đựoc nhà thờ Làng sông…một kiến trúc rất đẹp ,một địa danh thơ mộng xứng đáng để du lịch
“Imprimerie de Làng Sông, Imprimerie de la Mission de Quy Nhơn hoặc Imprimerie de Quy Nhơn đều là tên gọi ấn quán của giáo phận Đông Đàng Trong.”
Quinhon (Qui Nhơn) không phải Quy Nhơn. Làm ơn tác giả chỉnh sửa cho đúng tài liệu lịch sử. Xin thành thật cảm ơn.
chao Rong Biển.
Đối với địa danh Qui Nhơn tôi luôn luôn viết i, do báo biên tập lại theo cách viết hiện nay y. Rong Biển thông cảm nha!
Một bài nghiên cứu công phu,cung cấp nhiều tư liệu mới về vai trò Làng Sông và việc quảng bá chữ Quốc ngữ.Nếu như chúng ta đẩy thêm một bước xây dựng địa điểm này trở thành điểm đến của du lịch tâm linh du lịch văn hóa thì hay biết mấy !